Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Nguyên tắc “suy đoán vô tội” nghiên cứu so sánh và kinh nghiệm cho việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 104 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
------ -----

LÝ NGỌC TUYẾT NHI

NGUN TẮC “SUY ĐỐN VƠ TỘI”: NGHIÊN CỨU SO
SÁNH VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT
Chuyên ngành Luật Tố tụng Hình sự

TP HỒ CHÍ MINH – NĂM 2021


TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT HÌNH SỰ
------ -----

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP CỬ NHÂN LUẬT

NGUYÊN TẮC “SUY ĐỐN VƠ TỘI”: NGHIÊN CỨU SO
SÁNH VÀ KINH NGHIỆM CHO VIỆT NAM

SINH VIÊN THỰC HIỆN: LÝ NGỌC TUYẾT NHI
KHÓA: 42 – MSSV: 1753801013143
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: ThS. VŨ THỊ QUYÊN

TP. HỒ CHÍ MINH- NĂM 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi, được
thực hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc Sĩ Vũ Thị Quyên, đảm bảo tính
trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo. Tơi
xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Thành phố Hồ Chí Minh, 7/2021

Lý Ngọc Tuyết Nhi


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết tắt

Chữ đầy đủ

BLHS

Bộ luật hình sự

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

CQĐT

Cơ quan điều tra

CQTHTT


Cơ quan tiến hành tố tụng

ĐƯQT

Điều ước quốc tế

LHQ

Liên hợp quốc

TAND

Tòa án nhân dân

THTT

Tiến hành tố tụng

TTLT

Thông tư liên tịch

TTHS

Tố tụng hình sự

VAHS

Vụ án hình sự


VKS

Viện kiểm sát


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUN TẮC SUY SỐN
VƠ TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ.................................................................. 1
Giới thiệu Chương I................................................................................................... 1
1.1. Khái niệm suy đoán vơ tội..............................................................................1
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của ngun tắc suy đốn vơ tội trong pháp
luật tố tụng hình sự................................................................................................ 3
1.3. Đặc điểm của ngun tắc suy đốn vơ tội......................................................6
1.3.1 Ngun tắc suy đốn vơ tội là ngun tắc đặc trưng của pháp luật tố
tụng hình sự hiện đại.......................................................................................6
1.3.2 Đối tượng được áp dụng nguyên tắc là người bị buộc tội.................... 7
1.3.3 Chủ thể tuân thủ nguyên tắc là toàn bộ xã hội...................................... 9
1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đốn vơ tội...................................................... 10
1.4.1. Đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội.............................. 10
1.4.2. Đảm bảo quá trình giải quyết vụ án được diễn ra đúng đắn, chính xác12
1.4.3. Đảm bảo sự độc lập của các chủ thể tiến hành tố tụng hình sự.........14
1.5. Cơ sở của ngun tắc suy đốn vơ tội..........................................................15
1.5.1. Cơ sở lý luận....................................................................................... 15
1.5.2. Cơ sở pháp lý...................................................................................... 17
1.5.3. Cơ sở thực tiễn....................................................................................18
KẾT LUẬN CHƯƠNG I......................................................................................... 20
CHƯƠNG II: QUY ĐỊNH CỦA LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ VIỆT NAM VỀ
NGUN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI....................................................................21
Giới thiệu Chương II................................................................................................21

2.1. Nội dung của nguyên tắc suy đốn vơ tội.................................................... 21
2.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến ngun tắc suy đốn
vơ tội trong giai đoạn khởi tố và điều tra vụ án.................................................. 27


2.3. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến ngun tắc suy đốn
vơ tội trong giai đoạn truy tố............................................................................... 34
2.4. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự liên quan đến ngun tắc suy đốn
vơ tội trong giai đoạn xét xử................................................................................36
KẾT LUẬN CHƯƠNG II........................................................................................42
CHƯƠNG III: QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT MỘT SỐ QUỐC GIA VỀ
NGUYÊN TẮC SUY ĐỐN VƠ TỘI VÀ SO SÁNH VỚI PHÁP LUẬT VIỆT
NAM........................................................................................................................... 43
Giới thiệu chương III............................................................................................... 43
3.1. Pháp luật Cộng hịa Pháp về ngun tắc suy đốn vơ tội............................ 43
3.2. Pháp luật Nhật Bản về ngun tắc suy đốn vơ tội..................................... 50
3.3. So sánh quy định của pháp luật Việt Nam về ngun tắc suy đốn vơ tội
với pháp luật một số quốc gia..............................................................................57
KẾT LUẬN CHƯƠNG III...................................................................................... 63
CHƯƠNG IV: THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ NGUN TẮC SUY
ĐỐN VƠ TỘI TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ
HOÀN THIỆN.......................................................................................................... 64
Giới thiệu Chương IV.............................................................................................. 64
4.1. Thực tiễn áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội............................................ 64
4.2. Ngun nhân của những hạn chế, bất cập khi áp dụng nguyên tắc suy đốn
vơ tội.................................................................................................................... 71
4.3.1. Ngun nhân từ quy định của pháp luật tố tụng hình sự................... 71
4.3.2. Nguyên nhân khác.............................................................................. 74
4.3. Kiến nghị hoàn thiện về nguyên tắc suy đốn vơ tội................................... 76
4.3.1. Kiến nghị sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng hình sự...........................76

4.3.2. Những kiến nghị khác.........................................................................84
KẾT LUẬN CHƯƠNG IV...................................................................................... 86
KẾT LUẬN CHUNG............................................................................................... 87
TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nguyên tắc suy đốn vơ tội là một trong các ngun tắc cốt lõi của tố tụng
hình sự bởi ngun tắc này khơng chỉ bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người
bị buộc tội mà cịn nhằm giúp q trình giải quyết vụ án được diễn ra một cách
chính xác, khách quan. Bởi tính chất quan trọng của nguyên tắc này nên càng đòi
hỏi cần phải được bảo đảm thực hiện một cách chắc chắn và chính xác. Nhưng trên
thực tế vẫn cịn khá nhiều trường hợp khơng vẫn dụng đúng nguyên tắc này, dẫn
đến các vụ ép cung, tạo chứng cứ nhằm buộc nghi phạm, bị can nhận tội, từ đó xảy
ra các vụ án oan sai như vụ án của ông Huỳnh Văn Nén, ông Nguyễn Thanh
Chấn,… hoặc dẫn đến tình trạng vụ án gây nhiều tranh cãi như vụ án Hồ Duy Hải
gần đây. Vì thế cần có quy định rõ ràng cũng như nhấn mạnh tầm quan trọng của
ngun tắc suy đốn vơ tội nhằm ngăn chặn những sai phạm có thể xảy ra này.
Điều này xuất phát từ mục đích bảo đảm quyền con người nói chung và bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự (TTHS)
nói riêng, đây là nhiệm vụ trọng tâm của các thiết chế nhà nước và pháp luật dân
chủ. Một xã hội tiến bộ là xã hội mà mọi công dân được bảo vệ bởi một hệ thống
pháp luật công bằng và dân chủ. Hiện nay, vấn đề bảo đảm quyền con người và
hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực TTHS đang được các quốc gia quan tâm, trong
đó có Việt Nam. Quyền được suy đốn vơ tội là một quyền cơ bản của người bị
buộc tội trong TTHS. Việc quy định ngun tắc suy đốn vơ tội đồng nghĩa với việc
pháp luật trao cho người bị buộc tội thêm một biện pháp để họ có thể tự bảo vệ
mình trước sự buộc tội từ các cơ quan có thẩm quyền. Bên cạnh đó, các quy định về
nguyên tắc này cũng đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm thực hiện nguyên

tắc tranh tụng trong TTHS cũng như góp phần đảm bảo tính khách quan, cơng bằng
trong q trình giải quyết vụ án hình sự.
Trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) 2015, đã
có nhiều quan điểm liên quan đến vấn đề quyền được suy đốn vơ tội của người bị
bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, thu hút sự quan tâm chú ý của dư luận xã hội.


Đây là sự tiến bộ trong quy định về quyền được suy đốn vơ tội của người bị buộc
tội nhưng vẫn còn nhiều điểm nên bổ sung, thay đổi để hồn thiện hơn nữa ngun
tắc này và khắc phục tình trạng nguyên tắc này chưa được chú ý thực thi trên thực
tiễn. Đồng thời đây là một trong những nguyên tắc cốt yếu, vơ cùng quan trọng
trong tố tụng hình sự và được các nước trên thế giới thừa nhận vì vậy đề chống lại
khuynh hướng buộc tội theo tư duy “thà làm oan cịn hơn bỏ sót”, cần có sự nhìn
nhận đúng đắn về ngun tắc suy đốn vơ tội.
Ở phạm vi quốc tế, ngun tắc suy đốn vơ tội đã được ghi nhận trong nhiều
văn bản pháp lý về quyền con người, chẳng hạn Tuyên ngôn nhân quyền và dân
quyền của Pháp năm 1789, Công ước của Liên hợp quốc về các quyền Dân sự và
Chính trị 1966, Cơng ước châu Âu về Nhân quyền… Theo đó, ngun tắc suy đốn
vơ tội được coi là một cơng cụ pháp lý hữu hiệu nhằm bảo vệ đối tượng này trước
những cáo buộc từ phía Nhà nước. Tương tự, pháp luật của nhiều quốc gia trên thế
giới như Hoa Kỳ, Anh, Pháp, Canada, Nhật Bản, Ấn Độ… cũng ghi nhận nguyên
tắc này như một trong những cách thức quan trọng để bảo vệ quyền, lợi ích chính
đáng của người bị buộc tội trong TTHS.
Như vậy, có thể thấy, vấn đề bảo đảm ngun tắc suy đốn vơ tội khơng chỉ
là mối quan tâm của riêng từng quốc gia mà là vấn đề của cả quốc tế. Trong xu thế
hội nhập pháp luật, Việt Nam cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa tiến trình của cuộc cải
cách tư pháp nhằm hạn chế những bất cập còn tồn cũng như phát huy hiệu quả của
pháp luật trong cơng cuộc phịng chống tội phạm. Do đó, với mong muốn góp phần
vào việc hồn thiện pháp luật TTHS về bảo đảm quyền của người bị buộc tội, tác
giả lựa chọn đề tài “Nguyên tắc suy đốn vơ tội: nghiên cứu so sánh và kinh

nghiệm cho Việt Nam” là đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Thơng qua nghiên
cứu, phân tích pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngồi để nhìn thấy những bất
cập, thiếu sót cũng như những điểm pháp luật TTHS Việt Nam đã làm tốt trong
thực tiễn áp dụng nguyên tắc suy đốn vơ tội và đề ra một số giải pháp nhằm góp
phần hồn thiện quy định này hơn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài


Ở phạm vi thế giới, việc nghiên cứu về nguyên tắc suy đốn vơ tội trong
TTHS khơng phải là một vấn đề mới mẻ, xa lạ. Đã có rất nhiều cơng trình của các
học giả nước ngồi nghiên cứu về vấn đề này, chẳng hạn: Andrew Ashworth (2006),
Four threats to the presumption of innocence; Pamela R. Ferguson (2016), The
presumption of innocence and its role in the criminal process; Nicholas Scurich,
Kenneth D. Nguyen và Richard S. John (2015), Quantifying the presumption of
innocence; Thomas Weigend (2014), Assuming that the Defendant Is Not Guilty:
The Presumption of Innocence in the German System of Criminal Justice trong
Criminal Law and Philosophy và nhiều tác phẩm khác.
Qua đó, tác giả nhận thấy ngun tắc suy đốn vơ tội rất được quan tâm và
được hầu hết tác giả của nhiều quốc gia nhấn mạnh tầm quan trọng của nguyên tắc
này trong việc bảo đảm nhân quyền của người bị buộc tội và nâng cao tính chính
xác, đúng đắn của quá trình tiến hành tố tụng hình sự.
Trong khi đó, ở Việt Nam, quyền được suy đốn vơ tội của người bị buộc tội
trong TTHS cũng được bàn luận thơng qua nhiều bài viết, tạp chí. Tuy nhiên,
nghiên cứu về đề tài ngun tắc suy đốn vơ tội trong khóa luận cử nhân hay đề tài
luận văn Thạc sĩ hay luận án Tiến sĩ vẫn cịn rất ít và hạn chế, hầu như chỉ dừng lại
ở các bài viết được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành luật. Một số cơng trình
nghiên cứu về ngun tắc suy đốn vơ tội có thể kể đến như:
Về khóa luận cử nhân: Đề tài liên quan đến quyền được suy đoán vơ tội được
nghiên cứu bởi khóa luận cử nhân luật là: Phạm Minh Vương (2011), “Nguyên tắc
không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp

luật”. Khóa luận này đã nghiên cứu về một số vấn đề lý luận chung về ngun tắc
suy đốn vơ tội ở Việt Nam, một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về
ngun tắc này, từ đó đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện Bộ luật Tố tụng hình sự
2003. Tuy nhiên, khóa luận này được thực hiện trong thời điểm Bộ luật Tố tụng
hình sự 2003 đang có hiệu lực. Do đó, tính đến thời điểm hiện tại, một số nội dung
trong cơng trình này đã khơng cịn phù hợp với Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
Các bài viết tạp chí: Trên các tạp chí chuyên ngành luật có nhiều bài viết


nghiên cứu về ngun tắc suy đốn vơ tội trong TTHS như: Phạm Hồng Hải (1998),
“Mấy suy nghĩ về vấn đề bảo vệ quyền con người trong TTHS”, Tạp chí Nhà nước
và pháp luật, số 3/1998; Mai Thanh Hiếu (2004), “Phạm vi chủ thể có quyền suy
đốn vơ tội”, Tạp chí Luật học, số 1/2004; Bùi Tiến Đạt (2015), “Quyền giả định vô
tội và quyền im lặng - Lý thuyết và thách thức từ thực tiễn”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, Viện nghiên cứu Lập pháp, số 22/2015; Nguyễn Minh Tâm, Vũ Cơng
Giao (2015), “Quyền được suy đốn vơ tội theo Luật nhân quyền quốc tế và những
gợi mở cho việc sửa đổi Bộ luật Tố tụng Hình sự Việt Nam”, tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, số 05/2015; Hoàng Thị Tuệ
Phương (2018), “Bàn về miễn trách nhiệm hình sự theo luật hình sự Việt Nam trên
nền tảng của nguyên tắc suy đốn vơ tội”, Tạp chí Khoa hoc pháp lý, Trường Đại
học Luật Tp. Hồ Chí Minh, số 04(116)/2018… Mặc dù các bài viết này đề cập đến
một hay một số khía cạnh như: khái niệm, phạm vi, nội dung của ngun tắc suy
đốn vơ tội,... và nêu ra được một số bất cập trong thực tiễn áp dụng pháp luật tại
nước ta nhưng vẫn chưa thể tìm hiểu một cách có hệ thống và đầy đủ các nội dung
cần thiết về ngun tắc suy đốn vơ tội do dung lượng cịn hạn chế.
3. Mục đích nghiên cứu đề tài
Trong đề tài này, tác giả mong muốn thông qua việc phân tích những cơ sở lý
luận về nguyên tắc suy đốn vơ tội, là những quy định tại Hiến pháp 2013 và
BLTTHS 2015 để nắm được những nội dung mà pháp luật đã quy định về nguyên
tắc này. Đồng thời tiến hành nghiên cứu tham khảo pháp luật của một số quốc gia

khác như Cộng hòa Pháp và Nhật Bản để phân tích những điểm giống và khác giữa
pháp luật TTHS Việt Nam và các nước này từ đó nhận xét những điểm tốt và bất
cập của nước ta. Và thơng qua việc tìm hiểu thực tiễn áp dụng ngun tắc suy đốn
vơ tội, nắm bắt tình hình áp dụng quy định trên thực tế, những nhu cầu cần thiết
hiện nay, những điểm tiến bộ và những thiếu sót cần sửa đổi bổ sung.
Thực hiện đề tài này tác giả hướng đến 4 mục tiêu:
Thứ nhất, đề tài nghiên cứu và làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về
ngun tắc suy đốn vơ tội như lịch sử hình thành, đặc điểm, ý nghĩa, cơ sở hình


thành của nguyên tắc này trong TTHS.
Thứ hai, đề tài tiến hành nghiên cứu những quan điểm khoa học cũng như
những quy định pháp luật Việt Nam và pháp luật của một số quốc gia về ngun tắc
suy đốn vơ tội.
Thứ ba, tìm hiểu thực tiễn áp dụng pháp luật Việt Nam liên quan đến ngun
tắc suy đốn vơ tội.
Thứ tư, trên cơ sở so sánh quy định về nguyên tắc suy đốn vơ tội theo pháp
luật Việt Nam với pháp luật của một số quốc gia, đề tài chỉ ra những ưu điểm và
hạn chế của pháp luật Việt Nam liên quan đến vấn đề này, từ đó đề xuất những giải
pháp kiến nghị hoàn thiện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận này gồm:
- Các quan điểm khoa học của các học giả trong và ngoài nước về ngun tắc
suy đốn vơ tội.
- Những quy định của pháp luật Việt Nam, Pháp, Nhật về nguyên tắc suy
đốn vơ tội.
- Thực tiễn áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội trong q trình giải quyết vụ
án hình sự.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Về lý luận: Tập trung phân tích về các quy định trong pháp luật TTHS Việt
Nam và nghiên cứu tham khảo quy định của pháp luật quốc tế cũng như pháp luật
một số quốc gia, cụ thể là Pháp và Nhật Bản để làm rõ nội dung liên quan đến
ngun tắc suy đốn vơ tội, từ đó đánh giá những tiến bộ trong cách quy định pháp
luật của Việt Nam cũng như nhận xét về những bất cập vẫn còn tồn tại trong các
quy định ấy.
Về thực tiễn: Phân tích và đánh giá thực tiễn thực hiện ngun tắc “suy đốn
vơ tội” trong q trình tố tụng hình sự của Việt Nam hiện nay.
5. Phương pháp tiến hành nghiên cứu


Như đã đề cập, mục đích của khóa luận là nghiên cứu, so sánh pháp luật các
quốc gia về nguyên tắc suy đốn vơ tội, từ đó đưa ra những giải pháp, kiến nghị
nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về nội dung này. Để thực hiện mục đích này,
tác giả sử dụng các phương pháp chính sau đây:
Phương pháp phân tích, tổng hợp các tài liệu: Từ những thơng tin thu thập
được mà rút ra những kiến thức cần thiết phục vụ cho cơng cuộc nghiên cứu khóa
luận. Thơng qua các quy định pháp luật xác định mục đích của các nhà làm luật khi
ban hành các quy định trên.
Phương pháp so sánh được áp dụng để tìm hiểu những điểm tương đồng và
khác biệt giữa các quy định của pháp luật các quốc gia về quyền được suy đốn vơ
tội của người bị buộc tội, nắm bắt những điểm giống và khác giữa pháp luật trong
nước và quốc tế, từ đó đánh giá những ưu điểm và những hạn chế trong quy định
pháp luật Việt Nam hiện nay. Phương pháp này được áp dụng nhiều ở Chương II và
Chương III khóa luận.
6. Bố cục tổng quát của đề tài
Khóa luận bao gồm phần mở đầu, nội dung chính, kết luận chung và danh
mục tài liệu tham khảo. Trong đó, phần nội dung chính được phân thành 04 chương,
cụ thể như sau:
Chương I: Những vấn đề chung về nguyên tắc suy đốn vơ tội trong tố tụng hình sự.

Chương II: Quy định của pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam về ngun tắc suy
đốn vơ tội.
Chương III: Quy định của pháp luật một số quốc gia về nguyên tắc suy đốn vơ tội
và so sánh với pháp luật Việt Nam.
Chương IV: Thực tiễn áp dụng quy định về ngun tắc suy đốn vơ tội theo pháp
luật Việt Nam và một số kiến nghị hoàn thiện.


1

CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN TẮC SUY SỐN
VƠ TỘI TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Giới thiệu Chương I
Chương đầu tiên của đề tài nghiên cứu những khái niệm cơ bản, đặc điểm
và ý nghĩa của quyền được suy đốn vơ tội, từ đó xác định những vấn đề lý luận
cơ bản nhằm mục đích làm nền tảng cho các phân tích ở các chương sau. Việc
nghiên cứu Chương I sẽ cung cấp những kiến thức, thông tin mang tính cơ sở sẽ
là nền tảng để nghiên cứu tốt những chương tiếp theo của đề tài này.
1.1. Khái niệm suy đốn vơ tội
Thuật ngữ “Suy đốn vơ tội” được dịch xuất phát từ thuật ngữ “presumption
of innocence” thường được sử dụng trong các tài liệu khoa học pháp lý hay cụm từ
“the right to be presumed innocent” thường thấy trong các văn kiện quốc tế về
quyền con người. Điều đáng lưu ý ở đây là động từ “presume” có thể dịch sang tiếng
Việt với hai nghĩa khác nhau: 1) Suy đoán và 2) Giả định. Điều này dẫn đến việc
trong khoa học Luật TTHS, nguyên tắc “presumption of innocence” có thể được gọi
bằng hai tên gọi: nguyên tắc “suy đốn vơ tội” hoặc ngun tắc “giả định vơ tội”.
Tuy nhiên, sự ra đời của BLTTHS 2015 đã chính thức xác lập tên gọi “suy đốn vơ
tội” cho ngun tắc này khi dùng thuật ngữ trên đặt tên cho Điều 131.
Tuy nhiên, có nhiều ý kiến cho rằng tên gọi trên là chưa bám sát nội hàm của
nguyên tắc, điều này xuất phát từ cách hiểu giữa hai từ “suy đốn” và “giả định” có

những khác biệt nhất định. Theo Từ điển Tiếng Việt định nghĩa “suy đoán” là “đoán
ra điều chưa biết căn cứ vào những điều đã biết”.2 Như vậy, để có thể "suy đốn" địi
hỏi phải có thơng tin, tài liệu, chứng cứ để thơng qua đó một người tin vào (đốn ra)
một điều gì đó.3 Nếu hiểu theo đúng ý nghĩa của từ “suy đoán” như trên, sẽ rất khó
Điều 13. Suy đốn vơ tội
“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy
định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội khơng có tội.”
2
Hồng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2003, tr.875.
3
Bùi Tiến Đạt, “Quan niệm về suy đốn/giả định vơ tội ở Việt Nam: một số thảo luận về thuật ngữ”,
truy cập 01/04/2021.
1


2

để Cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) tin rằng một nghi phạm, bị can vô tội bởi
thông thường để khởi tố, truy tố bị can cần phải có các chứng cứ khiến CQTHTT tin
rằng họ có tội. Trong khi đó, khi xem xét ý nghĩa của từ “presumption”, Legal
Dictionary định nghĩa đây là “một quy tắc luật cho phép giả định một việc là đúng
cho đến khi có bằng chứng vượt trội bác bỏ hoặc phản bác hẳn giả định” hay Từ
điển tiếng Anh Longman nêu rõ trong lĩnh vực luật, “presume” được hiểu là “hành
động theo cách nghĩ một điều gì đó là đúng cho đến khi nó được chứng minh là
không đúng”. So sánh với định nghĩa “giả định” theo Từ điển Tiếng Việt, là “coi
điều nào đó là có thật, lấy đó làm căn cứ”4, rõ ràng cách hiểu “presume” nghiêng về
khái niệm giả định, giả thuyết trong tiếng Việt. Cách hiểu này cũng được ủng hộ bởi
các học giả nước ngồi, có thể kể đến như Thomas Weigend khi ông cho rằng:

“Quyền giả định vô tội khơng phải là một sự suy đốn mà là sự giả định hoặc sự giả
tưởng pháp lý (legal fiction): chúng ta làm ra vẻ (pretend) một người bị cáo buộc
thực hiện một tội phạm không thực hiện tội phạm đó. Hay nói cách khác, quyền giả
định vơ tội địi hỏi cơ quan tố tụng đối xử với nghi phạm như là người vơ tội, mặc
dù có sự nghi ngờ dựa trên những chứng cứ đáng tin cậy là người đó đã thực hiện
hành vi phạm tội.”5. Mặc dù có vẻ BLTTHS 2015 chưa gọi tên nguyên tắc này
chính xác nhất nhưng tinh thần, nội hàm của nguyên tắc được pháp luật Việt Nam
(thông qua Hiến pháp 2013 và BLTTHS 2015) nội luật hóa rất tốt, bám sát khái
niệm “presumption of innocence” của pháp luật quốc tế khi dùng từ “được coi”,
đồng nghĩa với “được giả định” trong quy định: “Người bị buộc tội được coi là
khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết
tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”6.
Như vậy, theo tác giả, việc ghi nhận tên gọi “suy đốn vơ tội” cho ngun tắc
này của BLTTHS 2015 là chưa chính xác và khơng nên hiểu bản chất của nguyên
tắc theo khái niệm của từ “suy đốn”. Do đó, ngun tắc “suy đốn vơ tội” cần

Hoàng Phê (chủ biên), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng, 2003, tr.384
Thomas Weigend (2014), Assuming that the Defendant Is Not Guilty: The Presumption of Innocence in the
German System of Criminal Justice trong Criminal Law and Philosophy, Nxb. Springer, tr. 287.
6
Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp 2013 và Điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015
4
5


3

được định nghĩa chính xác như sau:“Suy đốn vơ tội là phải coi (giả định) bị can, bị
cáo không phạm tội ngay cả khi khơng có bằng chứng, tài liệu nào để tin (suy đốn)
họ vơ tội trên thực tế, cho đến khi có sự thuyết phục, chứng minh được rằng bị cáo

đã phạm tội.”
1.2. Lịch sử hình thành và phát triển của ngun tắc suy đốn vơ tội trong
pháp luật tố tụng hình sự
Nhắc đến suy đốn vơ tội, các nhà nghiên cứu thường đề cập đến Tuyên ngôn
Nhân quyền và Dân quyền 1789 của Pháp như là văn bản ghi nhận nguyên tắc này
đầu tiên. Tuy nhiên, thực chất suy đốn vơ tội đã có mặt từ thế kỷ thứ VI, thời Lã
Mã cổ đại, khi hoàng đế La Mã Justinian đã ban hành một bản tóm lược luật La Mã
được gọi là “Digest of Justinian”, trong đó quy định “praeumptio boni viri” được
xem là nguyên tắc chung liên quan đến chứng minh với nội dung “Trách
nhiệm chứng minh thuộc về bên tố cáo, bên khẳng định chứ không phải bên phủ
định”.7 Quy định này được xem như một nguyên tắc của luật tố tụng dân sự trong
việc xác định tư cách và quyền bình đẳng của các đương sự, được áp dụng trong các
tranh chấp để buộc bên tố cáo phải đưa ra chứng cứ chứng minh, chứ không chỉ đưa
ra các yêu cầu tranh chấp. Sau đó, trong các triều đại La Mã, nguyên tắc này được
áp dụng trong quá trình xét xử hình sự và bắt đầu khẳng định nghĩa vụ chứng minh
thuộc về bên buộc tội và hệ quả tất yếu là bị cáo được coi là vô tội. Đây là nguồn
cội của nguyên tắc suy đốn vơ tội.
Tuy nhiên, ngun tắc này dần bị phai nhạt trong suốt một thời kỳ dài khi
thời kỳ phong kiến ở cả phương Đông lẫn phương Tây, pháp luật với vai trị là cơng
cụ duy trì địa vị và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị. Do đó, việc bảo vệ nhân
quyền của người dân khơng được đặt nặng, các hình phạt nghiêm khắc cùng sự răn
đe người dân phải tuân thủ pháp luật mới là mục tiêu chính của TTHS lúc bấy giờ.
Mặc dù Nhà nước đã nhận lấy trách nhiệm truy cứu người phạm tội với hệ thống
các cơ quan và người có thẩm quyền được phân công cụ thể để tiến hành các hoạt
Ban Truyền thơng, “Ngun tắc suy đốn vơ tội trong Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015”,
/>truy
cập ngày 06/11/2021.
7



4

động TTHS, nhưng suy đốn có tội vẫn là một nguyên lý tồn tại khách quan, điều
này thể hiện qua một số đặc điểm sau của TTHS phong kiến:
Thứ nhất, nghĩa vụ chứng minh hay nói cách khác nghĩa vụ cung cấp lời khai
và các chứng cứ vẫn đặt ra đối với người bị buộc tội, nếu không thực hiện nghĩa vụ
này, người bị buộc tội có thể bị dùng nhục hình một cách hợp pháp (Ví dụ như theo
Điều 669 Quốc triều hình luật thì tù phạm có thể bị tra khảo, bị đánh bằng roi, đánh
bằng trượng không quá số 100).
Thứ hai, thái độ đối xử với người bị buộc tội: người bị buộc tội vẫn bị định
kiến có tội trong tư duy chứng minh, bên buộc tội mang quyền lực hơn hẳn bên gỡ
tội (thể hiện qua việc cho phép dùng nhục hình để người bị buộc tội phải nhận tội;
gọi người bị buộc tội là tội nhân; người bị buộc tội phải quỳ dưới đất khi xét xử...).
Thứ ba, tiêu chuẩn đánh giá mức độ hoàn thành nghĩa vụ chứng minh của cơ
quan truy cứu trách nhiệm hình sự cịn rất mơ hồ, thơng thường là ý kiến chủ quan
của người có thẩm quyền xét xử.
Với sự phát triển về tri thức, con người ngày càng có ý thức về tính dân chủ
và các quyền lợi của chính mình, họ khơng cịn mặc nhiên để cho giai cấp thống trị
đàn áp, phán xét mà đã dần đứng dậy đấu tranh. Nhờ đó, các nhà nước tư sản ra đời,
đã đưa ra nhiều tư tưởng tiến bộ về quyền con người cũng như quyền công dân, một
trong những tư tưởng tiến bộ đó là suy đốn vơ tội. Đặt nền móng đầu cho tư tưởng
suy đốn vơ tội trong thời kỳ này là tác giả Cesare Beccaria, ông đã nêu ra trong
cuốn sách “Về tội phạm và hình phạt” bằng tiếng Ý năm 1764 như sau: “Khơng ai
có thể bị coi là kẻ phạm tội khi cịn chưa có bản án kết tội và xã hội khơng thể tước
của bị can sự bảo hộ của mình trước khi quyết định rằng anh ta đã vi phạm những
điều kiện mà sự tn thủ các điều kiện đó thì anh ta được bảo đảm bởi sự bảo hộ”.8
Tuy nhiên, suy đốn vơ tội chỉ chính thức được xem như một công cụ của pháp
luật một quốc gia vào thời điểm nguyên tắc này được quy định tại Điều 9 Tun
ngơn nhân quyền và dân quyền của Cộng hịa Pháp ngày 26/08/1789 trong thời gian
cách mạng tư sản Pháp như sau: “Mọi người đều được coi là vô tội cho đến khi bị

8

V.Z Lucasevich (1985), Xác định trách nhiệm hình sự trong tố tụng hình sự xơ Viết – Leningrat, tr 73.


5

tuyên bố phạm tội; nếu xét thấy cần thiết phải bắt giữ thì mọi sự cưỡng bức vượt
mức cần thiết cho việc bắt giữ đều bị luật pháp xử phạt nghiêm khắc”.
Có thể nói, sự xuất hiện của nguyên tắc suy đốn vơ tội vào cuối thế kỷ
XVIII được đánh giá là thành tựu vĩ đại của nền văn minh pháp lý trong việc bảo vệ
con người trong TTHS khi đã đặt ra những yêu cầu mới đối với nền tư pháp của các
quốc gia tư sản. Hàng loạt các quyền lợi hợp pháp của người bị buộc tội được đề ra
như quyền bào chữa, quyền im lặng,... cùng sự chuyển dời trách nhiệm chứng minh
từ người bị buộc tội sang bên buộc tội (các cơ quan mang quyền lực nhà nước
THTT). Điều này được nhận thấy thông qua sự ra đời của một số đạo luật tiến bộ
như Hiến pháp Hoa Kỳ với các tu chính án về các quyền quan trọng của người bị
buộc tội hay Đạo luật về Chứng cứ Hình sự của Anh được thơng qua năm 1898
(Theo Đạo luật này, những người bị buộc tội có quyền nhưng khơng có nghĩa vụ
phải chứng minh9). Đồng thời, thông qua sự bành trướng của đế quốc Anh, Pháp,
Mỹ vào thế kỷ XIX, pháp luật các nước tư sản này cũng có sự tác động và ảnh
hưởng mạnh mẽ đến các nước thuộc địa. Do đó, nguyên tắc suy đốn vơ tội cũng
dần được du nhập và kế thừa bởi các quốc gia phương Đơng. Bên cạnh đó, qua q
trình hội nhập pháp luật, suy đốn vơ tội cũng được nhiều quốc gia khác tiếp thu và
quy định trong pháp luật TTHS của quốc gia mình.
Khơng chỉ được ghi nhận ở một số quốc gia, nguyên tắc này đã được công
nhận và quy định trong Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền năm 1948 của
Liên hợp quốc (LHQ) là: “Một người bị buộc tội có hành vi phạm tội được coi là vô
tội cho đến khi sự phạm tội của người đó được xác định một cách hợp pháp trong
một vụ xét xử công khai, trong đó có những sự bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa

của người đó”. Sau này, tư tưởng về suy đốn vơ tội ngày càng có tính quốc tế khi
được thừa nhận trong nhiều điều ước quốc tế (ĐƯQT) mà nhiều quốc gia ký kết
hoặc gia nhập như Công ước quốc tế về quyền chính trị và dân sự của LHQ năm
1966, Công ước châu Âu về Nhân quyền...
Như vậy, có thể nói, trải qua q trình phát triển, ngày nay nguyên tắc này
Eileen Skinnider và Frances Gordon (2001), International norms and domestic realities, Sino Canadian
International conference on the ratification and implementation of human rights covenants Beijing, tr8.
9


6

được xem là một trong những quyền tự nhiên cơ bản của con người. Suy đốn vơ
tội khơng chỉ được các quốc gia quy định như một nguyên tắc quan trọng của pháp
luật TTHS nhằm bảo vệ quyền lợi của những người bị buộc tội mà còn được ghi
nhận trong nhiều văn bản pháp lý quốc tế quan trọng, trở thành giá trị chung của
toàn nhân loại.
1.3. Đặc điểm của ngun tắc suy đốn vơ tội
1.3.1 Ngun tắc suy đốn vô tội là nguyên tắc đặc trưng của pháp luật tố
tụng hình sự hiện đại
Có thể hiểu ngun tắc cơ bản của TTHS là những tư tưởng, quan điểm cơ
bản, chủ đạo, chi phối hoạt động của các chủ thể có thẩm quyền tiến hành tố tụng
(THTT), người tham gia tố tụng và các cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan
trong các hoạt động TTHS.10 Trong đó, ngun tắc suy đốn vơ tội là ngun tắc cơ
bản, đặc trưng của pháp luật TTHS hiện đại.
Nguyên tắc suy đốn vơ tội là ngun tắc đặc trưng của pháp luật TTHS bởi
vì khi xem xét pháp luật tố tụng dân sự, tố tụng hành chính, nguyên tắc này sẽ khơng
xuất hiện. Điều này là bởi suy đốn vơ tội chỉ áp dụng khi có sự buộc tội xảy ra. Nếu
các vụ án dân sự, vụ án hành chính phát sinh do tranh chấp giữa các bên khi một bên
cho rằng quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm phạm thì vụ án hình sự (VAHS)

phát sinh khi phát hiện hành vi tội phạm theo Bộ luật hình sự (BLHS), khi đó, các
chủ thể mang quyền lực Nhà nước sẽ tiến hành điều tra, truy tố, xét xử nhằm giải
quyết vụ án hình sự. Buộc tội là hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người có
thẩm quyền theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự đối với
người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội được BLHS quy định là tội phạm11.
Chính bởi có sự chênh lệch giữa hai bên buộc tội và gỡ tội trong tố tụng hình sự
cùng với việc buộc tội sẽ ảnh hưởng rất lớn đến quyền và lợi ích của chủ thể bị buộc
tội nên cần có ngun tắc suy đốn vơ tội tồn tại song song nhằm cân bằng vị thế
của “bên buộc tội” và “bên bào chữa”. Trong trường hợp khơng được suy đốn vơ
Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2016), Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, NXB Chính trị Quốc
gia Sự thật, Tr.212.
11
Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (2006), Từ điển Luật học, Nxb Từ điển Bách khoa và Nxb Tư pháp,
Hà Nội, Tr.124.
10


7

tội, người bị buộc tội sẽ bị coi là có tội ngay từ thời điểm bị tình nghi, khi đó các
quyền bào chữa, quyền tranh tụng trước Tòa án để tìm ra chân lý chỉ cịn là hư
quyền.
Ngun tắc suy đốn vơ tội chỉ tồn tại ở hệ thống pháp luật TTHS hiện đại
bởi: Khi nhìn vào lịch sử TTHS thế giới từ thời kỳ trung cổ đến thế kỷ 18, khơng
khó để thấy khuynh hướng “suy đốn có tội” tồn tại rất nhiều và hầu hết người bị
buộc tội được cho là có tội ngay từ giai đoạn điều tra mà không cần thông qua xét
xử. Mãi đến Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1789
(Declaration of Human and Civil Rights), quyền được suy đốn vơ tội mới được
khẳng định và sau đó được các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) khác công nhận như:
Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp quốc năm 1948; Công ước quốc tế về các

quyền dân sự và chính trị (UN, 1966), từ đó ngun tắc suy đốn vơ tội được chú ý
và quy định bởi ngày càng nhiều quốc gia. Tham chiếu đến pháp luật Việt Nam,
trước Hiến pháp 2013, quy định của pháp luật TTHS Việt Nam mặc dù ghi nhận ý
chí của các ĐƯQT, hướng đến bảo vệ quyền được suy đốn vơ tội của người bị
buộc tội nhưng cách truyền tải “Khơng ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi
chưa có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật” vẫn còn chưa đầy đủ và
còn nhiều hạn chế. Hiến pháp 2013 ra đời cùng BLTTHS 2015 đã có những bổ sung,
hồn thiện ngun tắc suy đốn vơ tội khơng chỉ ở Điều 13 BLTTHS mà nguyên tắc
còn tồn tại trong các quy định cụ thể của từng giai đoạn. Xuất phát từ nhận thức:
“bảo đảm quan trọng cho việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, lá chắn
quan trọng và vững chắc nhất đối với quyền con người, quyền cơng dân, nhằm
phịng ngừa và ngăn chặn những vi phạm từ phía các cơ quan tố tụng là việc thừa
nhận và ghi nhận ngun tắc suy đốn vơ tội”12. Chính vì vậy, ngun tắc suy đốn
vơ tội đã trở thành nguyên tắc đặc thù của pháp luật TTHS hiện đại.
1.3.2 Đối tượng được áp dụng nguyên tắc là người bị buộc tội
Ngun tắc suy đốn vơ tội là một trong những hành lang pháp lý vững chắc
Đào Trí Úc (2016), Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015 trong Những nội dung mới trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nxb Chính trị quốc gia
– sự thật, tr. 72
12


8

để bảo vệ các đối tượng bị buộc tội trong quá trình tố tụng. Trong khoa học pháp lý,
tồn tại nhiều quan điểm về phạm vi đối tượng của nguyên tắc suy đốn vơ tội do
cách quy định về ngun tắc này của pháp luật TTHS Việt Nam trước năm 2013.
Quan điểm thứ nhất cho rằng đối tượng có quyền được suy đốn vơ tội khơng
bị giới hạn bởi sự buộc tội vì theo Tun ngơn dân quyền và nhân quyền Pháp năm
1789 khẳng định quyền được suy đốn vơ tội được đảm bảo cho tất cả mọi người13,

điều này thể hiện thông qua thuật ngữ “tout homme” trong văn bản này có nghĩa là
“tất cả mọi người”.14 Quan điểm này đã từng được Hiến pháp 1992 và BLTTHS
2003 củng cố khi quy định “khơng ai bị coi là có tội...”, ở đây có thể thấy thuật ngữ
“khơng ai” trong quy định này có thể hiểu là bất kỳ người nào. Tuy nhiên, phạm vi
đối tượng được áp dụng nguyên tắc suy đốn vơ tội theo quan điểm này là quá rộng
đến mức dư thừa và không cần thiết. Bởi nếu khơng có sự buộc tội xảy ra, cần khẳng
định rằng tất cả mọi người đều là vô tội mà khơng cần phải “suy đốn”, do đó, cách
hiểu này là chưa phù hợp, cần phải hiểu nguyên tắc suy đoán vô tội luôn tồn tại song
hành với sự buộc tội, xuất hiện và kết thúc cùng lúc với sự buộc tội.
Quan điểm thứ hai cho rằng, sự buộc tội xuất hiện từ khi chưa có quyết định
khởi tố bị can và tồn tại cho đến khi người bị kết án chấp hành xong hình phạt hoặc
được miễn tồn bộ hình phạt hay được đại xá, ân xá15. Vì vậy phạm vi đối tượng
được suy đốn vơ tội bao gồm khơng chỉ người bị tình nghi, bị can, bị cáo mà cả
những người bị kết án nhưng chưa chấp hành xong hình phạt.
Quan điểm thứ ba thì cho rằng, đối tượng được suy đốn vơ tội bao gồm bị
can, bị cáo và họ có quyền này từ thời điểm có quyết định khởi tố bị can cho đến khi
bản án kết tội của Tịa án có hiệu lực pháp luật.16
Hai quan điểm sau đều cùng khẳng định nguyên tắc suy đoán vô tội đi cùng
với sự buộc tội, tuy nhiên lại khác nhau ở cách xác định thời điểm bắt đầu và kết
Điều 11 Tuyên ngôn nhân quyền của Liên Hợp quốc năm 1948 quy định: “Bất kỳ người nào bị buộc tội
đều được coi là vô tội cho đến khi một tịa án cơng khai, nơi người đó đã có được tất cả những bảo đảm cần
thiết để bào chữa cho mình, chứng minh được tội trạng của người đó dựa trên cơ sở pháp luật”
14
Mai Thanh Hiếu (2004), “Phạm vi chủ thể có quyền suy đốn vơ tội”, Tạp chí Luật học, số 1/2004, tr.23
15
Phạm Hồng Hải (1998), “Mấy suy nghĩ về vấn đề bảo vệ quyền con người trong TTHS”, Tạp chí Nhà
nước và pháp luật, số 3/1998, tr.18
16
Hoàng Thị Sơn (2003), Thực hiện quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, Luận án tiến sĩ
Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, tr.20.

13


9

thúc của quá trình buộc tội. Thời điểm bắt đầu và kết thúc buộc tội theo hai quan
điểm trên còn tồn tại điểm chưa chính xác. Có thể thấy sự buộc tội có thể xuất hiện
cả ở giai đoạn tiền tố tụng bởi khi một người bị bắt, tạm giữ dù chưa có quyết định
khởi tố đã cho thấy sự buộc tội đã xuất hiện. Mặc dù tại thời điểm này chưa có lời
buộc tội chính thức nhưng căn cứ tạm giữ có thể được xem là sự buộc tội khơng
chính thức đối với người bị tạm giữ. Và sự buộc tội tồn tại trong tất cả các giai đoạn:
khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử cho đến khi Tòa án chấp nhận hoặc bác bỏ việc
buộc tội của các chủ thể buộc tội bằng hình thức bản án hoặc quyết định có hiệu lực
pháp luật. Rõ ràng, sau bản án có hiệu lực pháp luật, sự buộc tội sẽ kết thúc bởi khi
ấy sự có tội của một người đã được Tòa án xác định.
Cùng với quy định của BLTTHS 2015 đã quy định rõ những đối tượng nào
được xem là “người bị buộc tội”17, như vậy, ngun tắc suy đốn vơ tội áp dụng đối
với “người bị buộc tội” bao gồm: người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị điều tra, truy
tố, xét xử (bị can, bị cáo). Tuy nhiên, trong trường hợp bản án kết tội đã có hiệu lực
pháp luật nhưng bị kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm thì người bị kết án lại được
áp dụng ngun tắc suy đốn vơ tội vì trong trường hợp này việc chứng minh tội
phạm sẽ được xem xét lại tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm.
1.3.3 Chủ thể tuân thủ nguyên tắc là toàn bộ xã hội
Việc xác định chủ thể có trách nhiệm tuân thủ ngun tắc suy đốn vơ tội mặc
dù đóng vai trò quan trọng và cần thiết trong việc đảm bảo nguyên tắc được thực thi
tuy nhiên lại chưa có quy định rõ ràng. Do đó, trên thực tế cịn có nhiều ý kiến khác
nhau về vấn đề này.
Quan điểm thứ nhất cho rằng, chủ thể có trách nhiệm tuân thủ ngun tắc suy
đốn vơ tội chỉ bao gồm các chủ thể THTT bởi trong quá trình giải quyết VAHS các
CQTHTT, người THTT được nhà nước trao cho các quyền hạn, trách nhiệm nhất

định để giải quyết vụ án. Có thể nói, CQTHTT, người THTT là chủ thể có trách
nhiệm chính trong việc đảm bảo thực hiện nguyên tắc suy đoán vơ tội. Tuy nhiên,
bắt nguồn từ ý nghĩa, vai trị của ngun tắc suy đốn vơ tội là đảm bảo nhân quyền
Điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015: “Người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị
cáo.”
17


10

của người bị buộc tội, là một trong các quyền dân sự, chính trị trong các ĐƯQT, liên
quan trực tiếp đến vận mệnh, cuộc sống của mỗi cá nhân và là cơ sở để đảm bảo các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, do đó việc chỉ các chủ thể THTT mới phải thực thi
quyền được suy đốn vơ tội của người bị buộc tội là chưa đủ nếu các chủ thể khác
không tôn trọng nguyên tắc này.
Trong khi đó, quan điểm thứ hai lại cho rằng, phạm vi chủ thể có trách nhiệm
tn thủ ngun tắc suy đốn vô tội bao gồm không chỉ các cơ quan, người THTT
mà còn đặt ra yêu cầu đối với cả các chủ thể khác như: cơ quan, tổ chức báo chí,
truyền thơng,... và tồn thể xã hội. Việc các cơ quan truyền thông và dư luận cho
rằng người bị buộc tội là người phạm tội sẽ tác động mạnh mẽ đến chính người bị
buộc tội và cả gia đình, người thân hay những người có liên quan đến người bị buộc
tội. Những phản ứng tiêu cực đến từ các cá nhân, tổ chức khác sẽ xâm phạm đến
nhân quyền của người bị buộc tội. Bởi về nguyên tắc, những người này phải được
xem là vơ tội và được đối xử bình đẳng, tơn trọng mặc dù có những nghi ngờ nhất
định. Về vấn đề này, pháp luật Liên minh châu Âu đã có những hướng dẫn khá cụ
thể. Theo đó, phát ngôn của các CQTHTT không được phép khiến cho công chúng
tin chắc rằng các nghi can chính là thủ phạm. Các cơ quan này cần tránh đưa ra
những phát ngôn báo chí có khả năng dẫn đến những thành kiến lớn, làm ảnh hưởng
đến sự cơng bằng của quy trình tố tụng.18 Các thông tin về vụ án trên các phương
tiện thông tin đại chúng cần tránh làm tổn hại đến quyền được giả định vô tội của bị

can, bị cáo.19
Như vậy, về vấn đề xác định phạm vi chủ thể áp dụng ngun tắc suy đốn vơ
tội, tác giả cho rằng quan điểm thứ hai tỏ ra thuyết phục hơn khi đã thể hiện được
tính tồn diện và đáp ứng nhu cầu cần thiết nhằm bảo vệ nguyên tắc suy đốn vơ tội
- một quyền quan trọng của người bị buộc tội.
1.4. Ý nghĩa của nguyên tắc suy đoán vô tội
1.4.1. Đảm bảo quyền con người của người bị buộc tội
Council of Europe Recommendation Rec (2003)13 on the Provision of Information through the Media,
Principle 10.
19
Council of Europe Recommendation Rec (2003)13 on the Provision of Information through the Media,
Principles 1 and 2.
18


11

Theo định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên Hiệp Quốc, quyền con người là
những quyền lợi pháp lý được cơng nhận tồn cầu, nhằm mục đích bảo vệ các cá
nhân và nhóm người chống lại những hành động hoặc không hành động gây tổn hại
đến nhân phẩm, quyền tự do cơ bản.20 Bất cứ ai cũng đều có những quyền mà khơng
ai có thể xâm phạm, kể cả người bị buộc tội. Tuy nhiên, một trong các quyền quan
trọng của người bị buộc tội thường xuyên có xu hướng bị xâm phạm là: Quyền
được suy đốn là vơ tội cho đến khi có đủ bằng chứng chứng minh là có tội.
Thơng qua ngun tắc suy đốn vơ tội, hàng loạt các quyền khác của người bị
buộc tội được bảo đảm. Có thể kể đến như: quyền sống, quyền khơng bị bắt, giam
giữ tùy tiện, độc đoán,... Như vậy, nguyên tắc suy đốn vơ tội khẳng định một người
vẫn ln có các quyền của một cơng dân theo quy định của pháp luật trừ khi họ bị
giới hạn bởi những biện pháp theo luật định hoặc bị xác định là có tội và bị tước
đoạt những quyền ấy bằng bản án có hiệu lực pháp luật. Nguyên tắc này có ý nghĩa

rất lớn nhằm hướng đến bảo vệ nhân quyền cơ bản của con người, đảm bảo quá trình
giải quyết vụ án ln khách quan, cơng bằng.
Bên cạnh đó, hoạt động TTHS không chỉ bảo vệ xã hội, chống lại hành vi
xâm hại từ phía tội phạm mà cịn ln tồn tại nhiệm vụ bảo vệ cá nhân người bị
buộc tội chống lại sự xâm hại quyền con người từ phía cơng quyền. Thơng qua
ngun tắc này, người bị buộc tội tránh được những hành vi bắt bớ vô cớ của cơ
quan tố tụng, hay sự đối xử thiếu tôn trọng, bức cung, nhục hình trong quá trình tố
tụng và có thể thực hiện các quyền con người của người bị buộc tội như quyền bào
chữa, quyền im lặng, quyền được suy đốn vơ tội,... Từ đó đem lại hành lang pháp
lý mạnh mẽ đem lại sự cân bằng hơn giữa một bên là Nhà nước với bộ máy điều tra,
truy tố, xét xử hùng mạnh và một bên yếu thế hơn là người bị buộc tội.
Do đó, cần khẳng định rằng ngun tắc suy đốn vơ tội là một trong những
nguyên tắc cơ bản, thể hiện tinh thần của các Công ước quốc tế. Việt Nam với tư
cách là một trong những quốc gia thành viên của LHQ, để thực hiện được nghĩa vụ
bảo đảm quyền của người bị buộc tội được nêu trong Tuyên ngôn nhân quyền và
United Nations, UNHCHR, Freequently Asked Questions on a Human Rights-based Approach to
Development Cooperation, New York and Geneva, 2006, tr.8.
20


12

trong Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị đã ghi nhận ngun tắc suy
đốn vơ tội thông qua Hiến pháp và BLTTHS. Nguyên tắc này giúp cơ quan có
thẩm quyền có trách nhiệm hơn đối với nhiệm vụ thực thi pháp luật của mình, thêm
vào đó, quy định này cịn giúp người bị buộc tội có thể bảo vệ mình cũng như nâng
cao hơn nữa lòng tin của nhân dân với hệ thống tư pháp.
1.4.2. Đảm bảo quá trình giải quyết vụ án được diễn ra đúng đắn, chính xác
Nhiệm vụ của tố tụng hình sự ln nhằm mục đích cao nhất là đấu tranh lại
các hành vi tội phạm xâm hại đến xã hội, trong đó việc giải quyết vụ án đóng vai trị

quan trọng. Do đó, yêu cầu quan trọng của Luật TTHS là phải giữ cho q trình này
được diễn ra chính xác, hướng đến thực hiện nhiệm vụ bảo vệ nhân dân, bảo vệ tính
đúng đắn của pháp luật.
Ở giai đoạn điều tra, khi CQĐT tiến hành bắt, tạm giữ, tạm giam một người
khi có những chứng cứ cho phép suy đốn họ gây ra tội phạm, khơng khó để thấy
tồn tại khuynh hướng “nhìn nhận bị can, bị cáo như là người đã được coi là phạm tội,
dù lỗi của họ chưa được chứng minh. Trong tâm lý học, khuynh hướng đó được gọi
là khuynh hướng buộc tội, cịn luật học thì gọi đó là suy đốn có tội”21. Điều này có
thể khiến các chủ thể THTT dễ bị sa đà trong việc tìm kiếm các chứng cứ mang tính
buộc tội mà bỏ qua các chứng cứ gỡ tội; thậm chí trong một số trường hợp, cán bộ
điều tra do quá mong muốn chứng minh tội của nghi phạm mà sử dụng đến các cách
thức tiêu cực như: ép cung, ngụy tạo chứng cứ,.... Mặc dù khuynh hướng điều tra
như trên đôi khi mang lại những hiệu quả cho quá trình giải quyết vụ án như giúp vụ
án kết thúc nhanh hơn, không hao tốn nhiều tiền bạc, nhân lực để phục vụ điều tra,...
tuy nhiên điều này cũng đi kèm với rủi ro vơ cùng lớn, đó là kết tội oan sai. Chính vì
thế, việc ngun tắc suy đốn vô tội trở thành nguyên tắc Hiến định và được
BLTTHS ghi nhận rõ ràng đã góp phần thay đổi lối suy nghĩ cũ của CQTHTT cũng
như buộc họ có trách nhiệm phải điều tra, tìm kiếm chứng cứ với cái nhìn khách
quan, khơng áp đặt người bị buộc tội là người phạm tội. Ngun tắc này cũng địi
Đào Trí Úc (2016), “Hệ thống các nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật tố tụng
hình sự năm 2015” trong Những nội dung mới của theo Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, Nguyễn Hịa Bình
(chủ biên), Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2016, Tr.72.
21


13

hỏi CQĐT nếu khơng có đủ chứng cứ chứng minh nghi phạm thực hiện tội phạm thì
phải suy đốn theo hướng có lợi cho nghi phạm. Từ đó hướng đến hạn chế những
hành vi bắt, tạm giữ, tạm giam khi chưa đủ căn cứ, đảm bảo cho giai đoạn điều tra

được thực hiện chính xác theo trình tự, thủ tục luật định.
Ở giai đoạn truy tố, VKS sau khi nhận được các tài liệu của VAHS do CQĐT
chuyển đến sẽ thực hiện các nhiệm vụ cụ thể do luật định nhằm kiểm tra lại tính hợp
pháp và có căn cứ của toàn bộ các hành vi tố tụng mà CQĐT có thẩm quyền đã áp
dụng để bảo đảm cho các quyết định của VKS được chính xác và khách quan góp
phần truy cứu trách nhiệm hình sự đúng tội, đúng người và đúng pháp luật. Ở giai
đoạn này, nguyên tắc suy đốn vơ tội một lần nữa u cầu VKS có nhiệm vụ phải
kiểm tra hoạt động điều tra liệu đã đảm bảo tính khách quan, nghi phạm liệu đã
được tơn trọng quyền được suy đốn vơ tội hay chưa. Chỉ khi có sự chắc chắn về
q trình điều tra khơng có sai phạm và các chứng cứ thu được dựa trên cách thức
hợp pháp, đúng quy định pháp luật thì VKS mới ra quyết định truy tố bị can trước
tịa bằng bản cáo trạng, cịn khi có các căn cứ nghi ngờ quá trình điều tra chưa đúng
đắn, hoặc các chứng cứ không sáng tỏ, không đủ căn cứ buộc tội cần phải trả hồ sơ
để điều tra bổ sung hoặc đình chỉ, tạm đình chỉ vụ án nếu thuộc các căn cứ luật định.
Có thể thấy, dù đã có những hồ sơ chứng cứ từ giai đoạn điều tra, VKS vẫn phải
tn theo ngun tắc suy đốn vơ tội khi thực hiện kiểm tra lại các hoạt động điều
tra cũng như chứng cứ, và chỉ tiến hành truy tố khi có những căn cứ chứng minh tội
phạm.
Cuối cùng, ở giai đoạn xét xử, ngun tắc suy đốn vơ tội một lần nữa phát
huy tính cần thiết khi địi hỏi mọi nghi ngờ về tội phạm của người bị cáo buộc phạm
tội do không đủ căn cứ để kết tội theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định thì phải
được kết luận họ khơng có tội bằng bản án hoặc quyết định của Tòa án. Điều này đòi
hỏi Tòa án phải ở vị thế trung lập, xem xét lại hồ sơ điều tra và bản cáo trạng một
cách khách quan, và khi không đủ chứng cứ chứng minh tội phạm, Tịa án cần thực
hiện nhiệm vụ của mình là tun vơ tội cho bị cáo. Điều này có thể khiến bỏ lọt tội
phạm, tuy nhiên, cũng đặt ra trách nhiệm cho CQĐT và VKS cần phải thu thập


×