Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Quyền tự do công đoàn theo hiệp định đối tác toàn diện tiến bộ xuyên thái bình dương (cptpp) và tác động đối với việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1013.69 KB, 85 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH
----------

PHAN THỊ THU CÚC

QUYỀN TỰ DO CƠNG ĐỒN THEO HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
TOÀN DIỆN & TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP)
VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM

KHĨA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HCM, tháng 7 năm 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

PHAN THỊ THU CÚC

QUYỀN TỰ DO CƠNG ĐỒN THEO HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC
TOÀN DIỆN & TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP)
VÀ TÁC ĐỘNG ĐỐI VỚI VIỆT NAM

GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: THS. LÊ NGỌC ANH

TP. HCM, tháng 7 năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, được thực hiện


dưới sự hướng dẫn khoa học của Thạc sĩ Lê Ngọc Anh - giảng viên Khoa Luật Dân
sự, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Các số liệu, thơng tin, vụ việc được đề
cập trong khóa luận là chính xác, trung thực; các dữ liệu, luận điểm có tham khảo từ
các nguồn khác nhau đều được trích dẫn đầy đủ theo đúng quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm hồn tồn về lời cam đoan này.
Người thực hiện khóa luận

Phan Thị Thu Cúc


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
STT
1
2
3

Viết tắt

Viết đầy đủ

BLLĐ

Bộ luật lao động

Công ước 87

Công ước số 87 năm 1948 về Quyền Tự do Hiệp hội và
Bảo vệ Quyền tổ chức

Công ước 98


Công ước số 98 năm 1949 về Quyền lập hội và thương
lượng tập thể

4

ĐƯQT

Điều ước quốc tế

5

FTAs

Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

Hiệp định

Hiệp định Đối tác Tồn diện và Tiến bộ xun Thái

CPTPP

Bình Dương

7

ILO

Tổ chức Lao động Quốc tế


8

NLĐ

Người lao động

9

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

10

TPP

Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương

11

VBQPPL

Văn bản quy phạm pháp luật

6


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ QUYỀN TỰ DO CƠNG ĐỒN VÀ HIỆP ĐỊNH

ĐỐI TÁC TỒN DIỆN & TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP)......9
1.1. Khái quát chung về quyền tự do cơng đồn của người lao động................... 9
1.2. Khái quát về Hiệp định Đối tác toàn diện & tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
(CPTPP)................................................................................................................12
1.3. Nội dung các quy định của Hiệp định Đối tác toàn diện & tiến bộ xuyên
Thái Bình Dương (CPTPP) về quyền tự do cơng đồn....................................... 14
1.3.1. Quyền thành lập và gia nhập cơng đồn theo sự lựa chọn của mình..15
1.3.2. Quyền tự đề ra điều lệ và quy chế của tổ chức, tự bầu ra người đại
diện và đề ra chương trình hành động của tổ chức........................................20
1.3.3. Quyền được bảo vệ chống lại việc đình chỉ hoặc giải tán tổ chức của
mình bởi cơ quan hành chính.........................................................................24
1.3.4. Quyền liên kết (quyền gia nhập hoặc trở thành hội viên của các liên
đoàn, tổng liên đồn và cơng đồn quốc tế).................................................. 25
1.3.5. Cơ chế giám sát, thi hành các quy định về quyền tự do cơng đồn
trong Hiệp định CPTPP..................................................................................26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1........................................................................................... 28
CHƯƠNG 2: TÁC ĐỘNG CỦA CÁC QUY ĐỊNH VỀ QUYỀN TỰ DO CƠNG
ĐỒN TRONG HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TỒN DIỆN & TIẾN BỘ XUYÊN THÁI
BÌNH DƯƠNG (CPTPP) ĐỐI VỚI PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM VÀ
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ................................................................................................29
2.1. Bối cảnh và những yêu cầu khi Việt Nam phê chuẩn Hiệp định Đối tác tồn
diện & tiến bộ xun Thái Bình Dương (CPTPP)...............................................29
2.1.1. Bối cảnh phê chuẩn.............................................................................. 29
2.1.2. Những yêu cầu đặt ra đối với pháp luật lao động Việt Nam...............33
2.2. Thực tiễn thực thi các cam kết về quyền tự do cơng đồn trong Hiệp định
Đối tác tồn diện & tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) tại Việt Nam.... 38
2.2.1. Những kết quả đạt được.......................................................................39
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế......................................................................... 47
2.3. Kiến nghị về việc hoàn thiện pháp luật lao động nhằm đảm bảo thực thi các
cam kết về quyền tự do cơng đồn trong Hiệp định Đối tác tồn diện & tiến bộ

xun Thái Bình Dương (CPTPP) tại Việt Nam................................................. 55
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2........................................................................................... 68
KẾT LUẬN.................................................................................................................69
PHỤ LỤC........................................................................................................................
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Quan hệ lao động là quan hệ xã hội phát sinh trong việc thuê mướn, sử dụng
lao động, trả lương giữa NLĐ, NSDLĐ, các tổ chức đại diện của các bên, cơ quan
nhà nước có thẩm quyền. Chủ thể chủ yếu trong quan hệ này là NLĐ và NSDLĐ.
Mối quan hệ này được xây dựng dựa trên cơ chế thỏa thuận, thống nhất nhưng trên
thực tế NLĐ luôn chịu sự phụ thuộc, quản lý và điều hành từ phía NSDLĐ, ln rơi
vào trạng thái yếu thế hơn so với NSDLĐ. Do đó, NLĐ thường có xu hướng liên
kết lại với nhau, tập trung sức mạnh để cải thiện vị thế của mình, hướng tới mục
tiêu chung là bảo đảm địa vị bình đẳng hơn so với NSDLĐ. Họ thường thành lập tổ
chức đại diện thay mặt số đông NLĐ để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho họ và
đây cũng là cơ sở thực tế khách quan cho sự ra đời của Tổ chức đại diện của NLĐ.
Chính vì vậy, quyền của NLĐ trong việc thành lập và gia nhập tổ chức đại diện
NLĐ tại cơ sở cần phải được tôn trọng và bảo vệ, đã và đang được ghi nhận trong
pháp luật của các quốc gia cũng như trong các văn bản pháp luật quốc tế, chẳng hạn
như Các công ước quốc tế của Liên hợp quốc1 hay trong các quy định của Tổ chức
lao động quốc tế (ILO), và trong cả các FTAs, trong đó có các cam kết về lao động
được quy định tại chương 19 Hiệp định CPTPP mà Việt Nam đã phê chuẩn vào
ngày 12/11/2018.
Ở Việt Nam, trong bối cảnh xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
hiện nay, quyền tự do cơng đồn đã và đang được Đảng, nhà nước dành sự quan
tâm thích đáng, nhất là khi Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp định CPTPP. Nếu
như trước đây nước ta không chấp nhận chế độ “đa cơng đồn”, NLĐ làm việc

trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức chỉ có quyền thành lập, gia nhập một tổ chức
đại diện của NLĐ duy nhất là tổ chức Cơng đồn Việt Nam (thuộc hệ thống Tổng
Liên đồn lao động Việt Nam) thì sau khi gia nhập Hiệp định CPTPP, NLĐ phải
được quyền tự do lựa chọn tham gia bất kỳ tổ chức đại diện tập thể NLĐ nào mà họ
cho rằng có thể bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp cho mình. Theo Hiệp định
CPTPP, đối tượng bảo đảm quyền tự do công đồn là tất cả NLĐ, khơng có sự phân
biệt dựa trên bất cứ đặc điểm nào như nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, dân tộc, quốc

Các cơng ước quốc tế của Liên hợp quốc: Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (UDHR) năm 1948,
Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm (ICCPR) năm 1966 và Cơng ước quốc tế về các quyền
kinh tế, văn hóa và xã hội (ICESCR) năm 1966.
1

1


tịch, tình trạng hơn nhân, quan điểm tơn giáo, quan điểm chính trị2… Trong khi đó,
theo quy định tại Luật Cơng đồn năm 2012, chỉ có NLĐ Việt Nam mới có quyền
gia nhập cơng đồn, cịn NLĐ là người nước ngồi khơng được gia nhập cơng đồn
Việt Nam. Có thể thấy, quyền tự do cơng đồn theo pháp luật lao động Việt Nam đã
tỏ ra “lạc hậu” so với các tiêu chuẩn lao động quốc tế trong Hiệp định CPTPP. Vì
vậy, sau khi gia nhập Hiệp định CPTPP, Việt Nam có nghĩa vụ phải “tơn trọng,
thúc đẩy và hiện thực hóa một cách có thành ý” các cam kết về quyền của NLĐ
trong việc thành lập và gia nhập tổ chức đại diện của NLĐ tại cơ sở. Do đó, yêu cầu
cấp thiết đặt ra là phải nhanh chóng nội luật hóa các quy định, tiêu chuẩn lao động
quốc tế về quyền tự do cơng đồn của NLĐ trong Hiệp định CPTPP vào pháp luật
Việt Nam nhưng vẫn phải đảm bảo sự phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, thể
chế chính trị cũng như trình độ nhận thức, đặc điểm quan hệ lao động, nền tảng văn
hóa của Việt Nam. Bên cạnh đó, cần phải hồn thiện các vấn đề pháp lý về quy
trình, thủ tục thành lập và gia nhập cơng đồn, trách nhiệm của cơ quan tổ chức

trong thành lập và gia nhập cơng đồn... để quyền tự do cơng đồn của NLĐ được
thực thi có hiệu quả trên thực tế. Do đó, ngày 20/11/2019, Quốc hội khóa XIV đã
thơng qua BLLĐ năm 2019, Bộ luật này có hiệu lực từ ngày 01/01/2021. Năm 2019
được xem là dấu mốc quan trọng trong lĩnh vực pháp luật lao động khi BLLĐ năm
2019 ra đời đáp ứng những yêu cầu mới trong thời kỳ hội nhập, nội dung của Hiệp
định CPTPP về lao động đã được chuyển hóa trong pháp luật quốc gia. Sự thay đổi
này có ý nghĩa quan trọng, song thách thức đặt ra là làm thế nào để các quy định
trong BLLĐ năm 2019 được thực thi một cách có hiệu quả trên thực tế, làm thế nào
để đảm bảo sự đồng bộ trong các văn bản pháp luật ở Việt Nam hiện nay về quyền
tự do cơng đồn. Điều đó đặt ra vấn đề cần nghiên cứu một cách chuyên sâu, toàn
diện về quyền tự do cơng đồn ở thời điểm hiện tại cũng như đề xuất những định
hướng phù hợp trong việc thực hiện cải cách pháp luật, thực thi pháp luật cho phù
hợp với các Công ước quốc tế mà Việt Nam đã phê chuẩn.
Vì các lý do trên, tác giả đã quyết định chọn đề tài “Quyền tự do công đoàn
theo Hiệp định Đối tác toàn diện & tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và
tác động đối với Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp Cử nhân Luật của mình.
Với đề tài này, tác giả hướng đến sẽ có những đóng góp về mặt lý luận cũng như
thực tiễn về các quy định của pháp luật, những đánh giá về sự tương quan giữa Hiệp
Văn phòng lao động quốc tế (2017), Tự do hiệp hội: Bộ tổng tập về các nguyên tắc và quyết định của Ủy
ban ILO về tự do hiệp hội, Nxb. Lao động Xã hội, đoạn 209.
2

2


định CPTPP và pháp luật Việt Nam về quyền tự do cơng đồn, nhận biết được
những điểm hạn chế, bất cập trong các quy định của pháp luật và đưa ra những kiến
nghị, giải pháp hữu ích hơn để hồn thiện hành lang pháp lý, đảm bảo quyền tự do
công đoàn của NLĐ theo các cam kết của Hiệp định CPTPP nhưng vẫn phù hợp với
điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam chúng ta.

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Bàn về quyền tự do công đồn và sự tương thích của các quy định này trong
pháp luật quốc gia với các cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên có khá nhiều
cơng trình nghiên cứu dưới nhiều dạng khác nhau, có thể kể đến một số cơng trình
tiêu biểu như:
Về giáo trình và sách chun khảo, khơng thể khơng kể đến Giáo trình Luật
lao động (2017) của Trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh, Nxb Hồng Đức - Hội
Luật gia Việt Nam, đặc biệt là tại Chương III của Giáo trình đã trình bày những cơ
sở lý luận và các quy định liên quan đến cơng đồn - tổ chức đại diện NLĐ. Bên
cạnh đó cịn có cuốn sách Tự do hiệp hội: Bộ tổng tập về các nguyên tắc và quyết
định của Ủy ban ILO về tự do hiệp hội (2017) của Văn phòng lao động quốc tế, Nxb.
Lao động Xã hội3. Cuốn sách đã giải thích và làm rõ các quy định, nguyên tắc theo
tiêu chuẩn của ILO về quyền tự do cơng đồn và những vấn đề liên quan; phân tích
và đưa ra các “phán quyết” mang tính khuyến nghị cho các quốc gia thành viên,
trong đó có Việt Nam trong quá trình tiếp cận và thực thi các Công ước cơ bản của
ILO. Những nguồn tài liệu này đã cung cấp những kiến thức cơ bản, trọng tâm về lý
luận và các quy định liên quan đến việc thực thi các cam kết về lao động trong Hiệp
định CPTPP.
Về các cơng trình nghiên cứu là các Khóa luận tốt nghiệp cử nhân Luật, có
cơng trình của tác giả Nguyễn Hòa Thuận (2016), Các tiêu chuẩn lao động theo
Hiệp định TPP và vấn đề áp dụng cho Việt Nam, Khóa luận tốt nghiệp cử nhân luật,
Trường Đại học Luật TP. HCM. Khóa luận này đã phân tích về các tiêu chuẩn lao
động cơ bản của ILO trong Hiệp định TPP (tự do hiệp hội và công nhận hiệu quả
của quyền thương lượng tập thể; xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức và bắt
buộc; xóa bỏ lao động trẻ em; xóa bỏ phân biệt đối xử trong việc làm và nghề
Bản gốc của ấn phẩm này do Văn phòng Lao động Quốc tế xuất bản dưới tựa đề: “Tự do Hiệp hội: Bộ
Tổng tập về các nguyên tắc và quyết định của Ủy ban ILO về Tự do Hiệp hội” (Freedom of Association:
Digest of decisions and principles of the Freedom of Association Committee of the Governing Body of the
ILO), tái bản có sửa đổi lần thứ năm, năm 2006.
3


3


nghiệp) và đưa ra các kiến nghị để đảm bảo các tiêu chuẩn lao động cơ bản đó được
áp dụng một cách có hiệu quả tại Việt Nam.
Về các cơng trình nghiên cứu khoa học sinh viên, cho đến nay, hầu như có
rất ít nghiên cứu chun sâu bàn về vấn đề quyền tự do cơng đồn của NLĐ trong
Hiệp định CPTPP cũng như trong pháp luật lao động Việt Nam mà chủ yếu bàn
chung về các tiêu chuẩn lao động, cách thức bảo đảm và thực thi quyền của NLĐ
trong các FTAs. Trong đó, có thể kể đến các cơng trình nghiên cứu sau:
- Nguyễn Thị Thảo An, Lương Thị Trà My, Ngơ Đặng Lộc, Nguyễn Bích
Chi (2019), Quyền tự do lập hội của NLĐ theo pháp luật lao động Quốc tế - Kinh
nghiệm đối với Việt Nam, Công trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh viên cấp
trường lần thứ XXII năm học 2018-2019, trường Đại học Luật TP Hồ Chí Minh. Đề
tài phân tích những vấn đề lý luận về quyền tự do lập hội của NLĐ quy định trong
các văn bản pháp luật quốc tế cũng như trong pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới và đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về quyền tự do lập hội của NLĐ. Từ
đó đưa ra những kiến nghị để hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam.
- Trần Thị Diện, Nguyễn Thị Khánh Hà, Nguyễn Thị Thu Hiền, Phạm Thị
Bảo Ngân, Phan Hồng Hạnh (2019), Thực hiện cam kết về lao động trong các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới - Nghiên cứu pháp luật nước ngoài và kinh
nghiệm cho Việt Nam, Cơng trình dự thi nghiên cứu khoa học sinh viên cấp trường
lần thứ XXIII năm học 2018-2019, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Đề tài
nghiên cứu đồng thời ba vấn đề: quyền tự do hiệp hội và tổ chức đại diện, thương
lượng tập thể và xóa bỏ lao động cưỡng bức trong các cam kết lao động trong các
FTAs, đặc biệt là CPTPP và EVFTA, cũng như trong pháp luật lao động Việt Nam
và pháp luật Nhật Bản, Đức. Từ đó, làm rõ một số điểm hạn chế trong các quy định
pháp luật lúc bấy giờ về vấn đề này và đưa ra những đề xuất nhằm hoàn thiện các
quy định của pháp luật để tăng cường hiệu quả trong quá trình thực thi cam kết về

lao động trong FTAs.
Ngồi các cơng trình nghiên cứu chun sâu nêu trên, liên quan đến những
góc độ nhất định của đề tài, có một số bài viết, bài nghiên cứu trên các tạp chí, các
diễn đàn pháp lý như:
- Nguyễn Thanh Huyền (2020), “Hoàn thiện pháp luật lao động nhằm bảo
đảm quyền của NLĐ trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, Tạp chí
Nhà nước và Pháp luật, số 1. Bài viết giới thiệu về FTAs và yêu cầu đối với việc
hoàn thiện pháp luật lao động theo các tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản. Trên cơ

4


sở đánh giá sự tương thích của pháp luật lao động Việt Nam và các tiêu chuẩn quốc
tế cơ bản, bài viết đề xuất một số khuyến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật lao động,
đảm bảo quyền của NLĐ trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới.
- Nguyễn Thị Hồng Yến, Lã Minh Trang (2020), “Tác động của các hiệp
định thương mại tự do thế hệ mới đến quy định về quyền tự do lập hội của Việt
Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học cấp bộ: Những
vấn đề lý luận hiện đại về nhà nước. Bài viết tập trung làm rõ các quy định của pháp
luật quốc tế và Việt Nam về quyền tự do lập hội, quy định về quyền tự do lập hội
trong các FTAs và những tác động đến Việt Nam. Từ đó đưa ra những đề xuất
nhằm hoàn thiện pháp luật về quyền tự do lập hội đáp ứng các yêu cầu của FTAs.
- Nguyễn Anh Đức (2019), “Quyền tự do lập hội, hội họp của người lao động
Việt Nam trước yêu cầu từ các hiệp định thương mại tự do”, Tạp chí Luật học, số 8.
Bài viết bàn về quyền tự do lập hội, hội họp của NLĐ, chỉ ra những thách thức đối
với Việt Nam trong việc bảo đảm các quyền này trên cơ sở thực thi các FTAs.
- Đào Mộng Điệp (2019), “Hoàn thiện pháp luật về quyền tự do liên kết và
thương lượng tập thể của người lao động khi thực thi CPTPP”, Tạp chí Nghiên cứu
Lập pháp, số 5. Bài viết phân tích, chỉ ra một số điểm chưa phù hợp trong pháp luật
lao động Việt Nam so với Hiệp định CPTPP về quyền tự do liên kết và thương

lượng tập thể. Đồng thời, chỉ ra những cơ hội để bảo vệ tốt hơn quyền lợi của NLĐ
cũng như nhiều thách thức mà Hiệp định CPTPP đặt ra trong quá trình thực thi. Từ
đó, đưa ra các giải pháp hồn thiện pháp luật về quy định này.
- Lê Thị Hoài Thu (2019), “Thực trạng pháp luật lao động Việt Nam hiện
nay dưới góc nhìn tham chiếu với Hiệp định Đối tác tồn diện và tiến bộ xun Thái
Bình Dương”, Tạp chí Luật học, số 3. Bài viết chỉ ra sự tương thích giữa pháp luật
lao động Việt Nam so với Hiệp định CPTPP. Từ đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện
pháp luật lao động nhằm đảm bảo sự phù hợp với quy định của Hiệp định CPTPP.
- Mạc Thị Hoài Thương, Trần Thị Thu Thủy (2018), “Những tác động của
hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đến việc bảo đảm quyền con người tại Việt
Nam”, Tạp chí Dân chủ & Pháp luật, số 12. Bài viết đã phân tích những tác động
tích cực, tiêu cực và đề xuất các giải pháp để khai thác triệt để các lợi ích, hạn chế
tối đa những yếu tố bất lợi trong FTAs tới việc bảo vệ, thúc đẩy quyền con người
nói chung chứ khơng tập trung nghiên cứu chun sâu về quyền tự do cơng đồn.
Như vậy, những cơng trình nghiên cứu trên đa phần tập trung nghiên cứu các
quy định về quyền tự do cơng đồn của NLĐ trong pháp luật lao động Việt Nam

5


trước khi nội luật hóa các cam kết trong Hiệp định CPTPP, cụ thể là các quy định
trong Luật công đoàn năm 2012, Bộ luật lao động năm 2012 và một số văn bản có
liên quan. Đồng thời, chỉ phân tích ở mức độ khái qt, vĩ mơ mà chưa đi sâu vào
phân tích về quyền tự do cơng đồn theo Hiệp định CPTPP và tác động đối với Việt
Nam. Dù vậy, chúng ta có thể dựa vào những tài liệu trên để định hướng nghiên cứu,
tìm ra cơ sở lý luận để xây dựng pháp luật về quyền tự do cơng đồn phù hợp với
Hiệp định CPTPP cũng như với tình hình và điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội của
Việt Nam sau khi BLLĐ năm 2019 có hiệu lực.
Có hiệu lực kể từ ngày 01/01/2021, quyền tự do cơng đồn được quy định
trong BLLĐ năm 2019 đã có sự thay đổi lớn, đáp ứng những yêu cầu mới trong thời

kỳ hội nhập. Đây là một vấn đề mới, cần được quan tâm nghiên cứu để tuân thủ
Hiệp định CPTPP, để quyền tự do cơng đồn của NLĐ thực sự được bảo đảm, để
cơng đồn thực sự là tổ chức đại diện cho ý chí, tâm tư và nguyện vọng của NLĐ.
Trên cơ sở phân tích những quy định của pháp luật lao động hiện nay về quyền tự
do cơng đồn, sự tương thích của pháp luật lao động Việt Nam so với Hiệp định
CPTPP để đề xuất những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật, từng bước nâng cao
hiệu quả trong việc áp dụng pháp luật và quản lý nhà nước có liên quan đến vấn đề
này. Do đó, có thể khẳng định đề tài “Quyền tự do cơng đồn trong Hiệp định Đối
tác tồn diện & tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và tác động đối với Việt
Nam” vẫn có tính mới, khơng trùng lặp với các đề tài nghiên cứu trước đây và sẽ là
nguồn tư liệu hữu ích cho nghiên cứu và ứng dụng.
3. Đối tượng, phạm vi, mục đích nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu: khóa luận nghiên cứu những vấn đề lý luận và các
quy định liên quan đến Quyền tự do cơng đồn trong Hiệp định CPTPP và mức độ
nội luật hóa các quy định này vào pháp luật lao động Việt Nam.
Về phạm vi nghiên cứu: phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào những
vấn đề lý luận và pháp lý liên quan đến Quyền tự do cơng đồn của NLĐ. Cụ thể:
(1) Nghiên cứu các quy định của Hiệp định CPTPP liên quan đến Quyền tự
do cơng đồn của NLĐ (thể hiện trong Tun bố năm 1998 của ILO);
(2) Nghiên cứu các quy định của pháp luật lao động Việt Nam liên quan đến
Quyền tự do cơng đồn (trong BLLĐ năm 2019, Luật Cơng đồn năm 2012 và các
văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan).
(3)

Ngoài ra, để phong phú hơn nội dung nghiên cứu, đồng thời tham khảo

làm cơ sở cho những đề xuất, kiến nghị về việc hoàn thiện các quy định pháp luật

6



lao động Việt Nam trong quá trình thực thi các cam kết tại Hiệp định CPTPP, tác
giả có nghiên cứu thêm quy định pháp luật của một số quốc gia khác về quyền tự do
cơng đồn.
Về mục đích nghiên cứu:
Thứ nhất, nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề lý luận và pháp lý về quyền
tự do cơng đồn trong hiệp định CPTPP và tác động của những quy định đó đến
Việt Nam sau khi Việt Nam chính thức gia nhập Hiệp định CPTPP.
Thứ hai, tìm hiểu mức độ nội luật hóa của các quy định về quyền tự do cơng
đồn trong Hiệp định CPTPP vào pháp luật lao động Việt Nam.
Thứ ba, thông qua việc nghiên cứu các quy định pháp luật lao động Việt
Nam hiện nay về quyền tự do cơng đồn của NLĐ để phân tích, đánh giá những kết
quả đạt được, phát hiện những bất cập, hạn chế trong các quy định của pháp luật
trong việc bảo vệ quyền, lợi ích của NLĐ. Từ đó, đề xuất hướng hoàn thiện các quy
định pháp luật lao động về quyền tự do cơng đồn của NLĐ ở Việt Nam, trong đó
có các quy định để tổ chức đại diện NLĐ được thành lập và hoạt động một cách
hiệu quả, bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ trong quan hệ lao
động; đồng thời, tăng cường hiệu quả trong quá trình thực thi cam kết về lao động
trong Hiệp định CPTPP về quyền tự do cơng đồn của NLĐ.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Khóa luận được nghiên cứu dựa theo phương pháp luận là phép duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm cơ
sở để nghiên cứu, xem xét, đưa ra những phân tích, đánh giá. Cùng với đó, trong
q trình nghiên cứu, khóa luận sử dụng kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu
khác nhau. Cụ thể như sau:
- Phương pháp phân tích được sử dụng ở mục 1.3 và 2.2 để phân tích các vấn
đề lý luận cũng như quy định của pháp luật liên quan đến quyền tự do cơng đồn
của NLĐ trong Hiệp định CPTPP và trong pháp luật lao động Việt Nam (BLLĐ
năm 2019, Luật Cơng đồn năm 2012 và các văn bản có liên quan).
- Phương pháp so sánh, đối chiếu được sử dụng chủ yếu ở mục 2.2.1 và 2.2.2

để so sánh và đánh giá những kết quả đạt được cũng như những bất cập, hạn chế
trong quá trình thực thi các cam kết về quyền tự do cơng đồn của NLĐ theo Hiệp
định CPTPP.
- Phương pháp tổng hợp được sử dụng để tổng kết thông tin, kiến thức truyền
tải trong nội dung từng chương của khóa luận, qua đó đưa ra những kiến nghị để

7


hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện quyền tự do cơng đồn cho
NLĐ ở Việt Nam tại mục 2.3. Bên cạnh đó, phương pháp tổng hợp cịn được sử
dụng trong việc tìm kiếm, lựa chọn tài liệu, thông tin phù hợp với đề tài nghiên cứu.
Các phương pháp trên được kết hợp với nhau để cùng giải quyết các vấn đề
của khóa luận, làm sáng tỏ nội dung nghiên cứu của đề tài.
5. Ý nghĩa nghiên cứu
5.1. Về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của khóa luận góp phần làm sáng tỏ các vấn đề lý luận
về quyền tự do cơng đồn của NLĐ theo Hiệp định CPTPP cũng như theo pháp luật
lao động Việt Nam.
5.2. Về thực tiễn
Sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu, kết quả nghiên cứu của khóa luận sẽ
đóng góp thêm nhiều giá trị về mặt thực tiễn cụ thể:
Thứ nhất, trên cơ sở phân tích các quy định của Hiệp định CPTPP về quyền
tự do cơng đồn của NLĐ để so sánh, đối chiếu với quyền này trong các quy định
của pháp luật lao động Việt Nam hiện hành. Từ đó chỉ ra những điểm tương thích,
cũng như những hạn chế, bất cập, vướng mắc trong quy định của pháp luật lao động
Việt Nam để có những đề xuất, đóng góp về việc sửa đổi, hoàn thiện quy định pháp
luật về quyền tự do cơng đồn của NLĐ cho tương thích và phù hợp hơn với các
cam kết trong Hiệp định CPTPP.
Thứ hai, thông qua việc nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn, giúp

NLĐ có thêm các hiểu biết về cơ sở, căn cứ bảo đảm quyền thành lập và gia nhập
cơng đồn của mình.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo
để nghiên cứu trong các cơ sở đào tạo cho các cá nhân, tổ chức muốn tìm hiểu về
quyền tự do cơng đồn của NLĐ trong pháp luật lao động Việt Nam cũng như trong
Hiệp định CPTPP.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngồi phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung khóa luận gồm 2 chương:
Chương 1: Khái quát về quyền tự do cơng đồn và Hiệp định Đối tác tồn
diện & Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP).
Chương 2: Tác động của Hiệp định Đối tác toàn diện & Tiến bộ xuyên Thái
Bình Dương (CPTPP) đối với pháp luật lao động Việt Nam và một số kiến nghị.

8


CHƯƠNG 1: KHÁI QT VỀ QUYỀN TỰ DO CƠNG ĐỒN VÀ
HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN & TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH
DƯƠNG (CPTPP)
1.1. Khái quát chung về quyền tự do cơng đồn của người lao động
Trong bối cảnh tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, vấn đề
bảo đảm quyền con người nói chung và quyền của NLĐ nói riêng ngày càng được
coi trọng trong q trình xây dựng và phát triển đất nước. Trong đó, quyền tự do
cơng đồn của NLĐ được xem là một bộ phận cấu thành trong hệ thống quyền của
NLĐ trong quan hệ lao động, là quyền cơ bản của công dân, là quyền hiến định
thuộc phạm trù các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Theo Đại từ điển Tiếng Việt,
“tự do” là một phạm trù triết học chỉ khả năng biểu hiện ý chí, hành động theo ý
muốn của mình trên cơ sở nhận thức quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội.
Theo Oxford English Dictionary, tự do là “thực tế của việc khơng bị kiểm sốt bởi

một thế lực đối với số phận, ý chí tự do”4. Như vậy, có thể hiểu, tự do là quyền được
sống và hoạt động theo ý nguyện của mình mà khơng bị cấm đốn, ràng buộc, xâm
phạm bởi các yếu tố bên ngồi. Cịn cơng đồn (nghiệp đồn, liên đồn lao động) là
“một hiệp hội của những người làm công ăn lương có mục đích duy trì hay cải thiện
các điều kiện thuê mướn họ, hoặc là nghiệp đoàn của những người cơng nhân”5.
Như vậy, quyền tự do cơng đồn là quyền của NLĐ được tự do thành lập, gia nhập
và hoạt động ở bất kỳ tổ chức đại diện nào mà họ cho rằng sẽ bảo vệ tốt nhất quyền
và lợi ích hợp pháp của mình mà khơng bị cản trở, hạn chế từ bất kỳ tổ chức, cá
nhân nào. Liên quan đến thuật ngữ “quyền tự do công đồn”, chúng ta cịn bắt gặp
một thuật ngữ khác đó là thuật ngữ “quyền tự do hiệp hội” (“Freedom of
Association/Right to organize”), theo David Macdonald và Caroline Vardenabeele:
“Quyền tự do hiệp hội là quyền nhóm họp cơng khai hoặc họp riêng của con người
với mục đích cùng tham gia vào sự nghiệp chung và cùng nhau liên kết nhằm đạt
được một mục tiêu cụ thể. Trong quan hệ lao động, quyền tự do hiệp hội là quyền

Nguyên văn Tiếng Anh: “The fact of not being controlled by or subject to fate; freedom of will”, Oxford
English Dictionary.
5
Theo Wikipedia, truy cập ngày
03/4/2021.
4

9


của NLĐ và NSDLĐ được tổ chức và gia nhập các tổ chức cơng đồn và các tổ
chức của NSDLĐ theo sự lựa chọn của riêng họ để đại diện cho quyền lợi của họ”6.
Như vậy, đối chiếu các cách định nghĩa trên, có thể thấy rằng quyền tự do
cơng đồn của NLĐ cũng chính là nội dung của quyền tự do hiệp hội trong quan hệ
lao động, là quyền của NLĐ được tự do thành lập, gia nhập và hoạt động ở một

hoặc nhiều cơng đồn khác nhau trong một cơ sở lao động để bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của mình; được tự do hoạt động, tiếp cận nguồn quỹ và các nguồn lực
khác; được tự do liên kết mà không bị ngăn cản, giới hạn hay xâm phạm bởi các cơ
quan nhà nước hay bởi bất kì tổ chức và cá nhân nào. Quyền tự do cơng đồn là
quyền đặc biệt của NLĐ, là loại quyền phát sinh, gắn liền với quan hệ lao động
nhằm cân bằng vị thế của tập thể lao động và NSDLĐ. Thơng qua việc NLĐ có
quyền thành lập tổ chức của mình và được trang bị các cơng cụ, phương tiện để bảo
vệ và thúc đẩy cho lợi ích của các thành viên trong tổ chức mình, quyền tự do cơng
đồn là một bộ phận cấu thành cơng bằng xã hội và là một phương thức chính để
bảo đảm và duy trì hịa bình. Khi quyền tự do cơng đồn được ghi nhận và đảm bảo
thực thi trên thực tế thì quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ cũng được bảo đảm. Ở
đó, NLĐ khơng bị NSDLĐ áp đặt, các mối quan tâm, tiếng nói của NLĐ sẽ được
đưa ra một cách khách quan và hiệu quả hơn cho mục đích thương lượng tập thể
nhằm thúc đẩy các hướng giải quyết, giải pháp có ý nghĩa và phản ánh đúng nhu
cầu của nền kinh tế. Đồng thời, thông qua việc thành lập các tổ chức đại diện, các
cá nhân liên kết lại cùng nhau bảo vệ, thực thi nhiều quyền dân sự, văn hóa, kinh tế,
chính trị, xã hội khác như quyền sống, quyền an toàn thân thể, quyền tự do ngơn
luận… Bên cạnh đó, một hệ thống cơng đồn và quan hệ lao động tốt sẽ góp phần
ổn định chính trị và xã hội bằng cách truyền tải tiếng nói của NLĐ vào q trình
hoạch định chính sách tác động tới việc làm và NLĐ. Quyền tự do cơng đồn cũng
đóng vai trị quyết định trong việc hình thành và phát triển của các xã hội dân chủ
khi chúng là một kênh cho phép sự đối thoại cởi mở nơi mà quan điểm thiểu số
hoặc bất đồng được tôn trọng7.

David Macdonald and Caroline Vardenabeele, 1996, Glossary of Industrial Relation and Related Term
(Theo Trung tâm Hỗ trợ Phát triển quan hệ lao động (CIRD) – Cục Quan hệ lao động và Tiền lương (2018),
“Quyền tự do hiệp hội”, Trang thông tin điện tử Trung tâm Hỗ trợ Phát triển quan hệ lao động,
truy cập ngày 10/4/2021.
7
Nguyễn Thị Hồng Yến, Lã Minh Trang (2020), “Tác động của các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới

đến quy định về quyền tự do lập hội ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra hiện nay”, Kỷ yếu Hội thảo khoa học
cấp bộ: Những vấn đề lý luận hiện đại về nhà nước, tr. 327 - 334.
6

10


Chính vì những lợi ích trên, quyền tự do cơng đồn đã được các văn bản
pháp lý mang tính quốc tế cũng như hệ thống pháp luật của các quốc gia thừa nhận
và đảm bảo thực hiện trên thực tế. Trên phạm vi tồn cầu, quyền tự do cơng đồn
của NLĐ được đề cập trong nhiều văn kiện pháp lý quan trọng như Hiến chương
Liên hiệp quốc năm 19458, Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người (UDHR) năm
19489, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 196610 và
Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa và xã hội (ICESCR) năm 196611.
Ngồi Bộ luật nhân quyền quốc tế của Liên hợp quốc, quyền tự do cơng đồn của
NLĐ cũng ln là tâm điểm được bảo vệ bởi ILO. Trong lời nói đầu của Hiến
chương ILO năm 1919, tự do cơng đồn được đề cập như là một trong những
phương tiện cải thiện các điều kiện lao động và đảm bảo hịa bình. Năm 1944,
Tuyên bố Philadelphia khẳng định “tự do ngôn luận và lập hội là rất cần thiết để
tiến bộ bền vững”. Hay trong Tuyên bố về các quyền lao động cơ bản của ILO tại
nơi làm việc năm 1998, quyền tự do cơng đồn của NLĐ được thể hiện trong Công
ước 8712; Công ước 98…Trong phạm vi quốc gia, tùy thuộc vào tình hình phát triển
kinh tế - xã hội, thể chế chính trị, trình độ văn hóa và nhận thức của các quốc gia
khác nhau mà mức độ công nhận và phạm vi thực hiện quyền tự do công đoàn của
NLĐ sẽ khác nhau. Theo thống kê của ILO, quyền tự do cơng đồn đã được ghi
nhận trong 142 bản Hiến pháp của các nước13. Nhìn chung, thường theo hai hướng
sau: (i) các quốc gia không ủng hộ đa cơng đồn thường chỉ tồn tại một tổ chức duy
nhất đại diện cho NLĐ (như Trung Quốc, Malaysia); (ii) các quốc gia ủng hộ đa
cơng đồn thường có nhiều loại tổ chức khác nhau đại diện cho những nhóm NLĐ
khác nhau (Senegal, Angieria, Đức, Bỉ, Áo, Singapore, Campuchia14...). Hiện nay,

Điều 55 Hiến chương 1945: “Sự tôn trọng và tuân thủ triệt để các quyền và các tự do cơ bản của tất cả mọi
người không phân biệt chủng tộc nam nữ, ngôn ngữ hay tôn giáo”.
9
Khoản 4 Điều 23 UDHR: “Tất cả mọi người đều có quyền, cùng với người khác, thành lập các cơng đồn
hay gia nhập vào các cơng đồn để bảo vệ lợi ích của mình”.
10
Khoản 1 Điều 22, ICCPR: “Mọi người có quyền tự do hiệp hội với những người khác, kể cả quyền lập và
gia nhập các cơng đồn để bảo vệ lợi ích của mình”.
11
Khoản 1 Điều 8 ICESCR: “Các quốc gia thành viên của Công ước cam kết đảm bảo quyền của mọi người
được thành lập và gia nhập cơng đồn mà mình lựa chọn, để thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích kinh tế và xã hội
của mình, với điều kiện là chỉ phải tuân theo quy chế của tổ chức cơng đồn đó”.
12
Điều 2 Cơng ước số 87: “Tất cả người lao động và NSDLĐ đều có quyền thành lập và gia nhập các tổ
chức theo sự lựa chọn của họ với điều kiện tuân thủ Điều lệ của các tổ chức đó”.
13
Phạm Thị Thúy Nga (2016), “Quyền tự do lập hội của người lao động theo pháp luật quốc tế và yêu cầu
đặt ra đối với Việt Nam”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 10 (342), tr. 70 – 78.
14
Theo Điều 266 Luật Lao động 1997 của Campuchia quy định: “Người lao động và người sử dụng lao
động, không phân biệt và không cần phải xin phép trước, có quyền thành lập các tổ chức theo sự lựa chọn
của mình nhằm mục đích duy nhất là nghiên cứu, thúc đẩy các lợi ích và bảo vệ các quyền, cũng như là các
lợi ích tinh thần và vật chất, của tập thể và cá nhân những người được vị thế của tổ chức đó điều chỉnh. Các
8

11


Việt Nam cũng đã và đang trong q trình hồn thiện các quy định pháp luật theo
hướng thừa nhận chế độ “đa cơng đồn”. Có thể thấy rằng mặc dù có nhiều cách

quy định khác nhau nhưng hầu hết các quốc gia đều hướng đến việc đảm bảo quyền
tự do cơng đồn theo quy định trong các Cơng ước quốc tế của Tổ chức lao động
thế giới cũng như của Liên hợp quốc.
1.2. Khái quát về Hiệp định Đối tác tồn diện & tiến bộ xun Thái
Bình Dương (CPTPP)
Với cách tiếp cận NLĐ là người trực tiếp làm ra các sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ trong thương mại quốc tế nên trước hết họ phải được hưởng thành quả của
quá trình này, năm 1998, ILO đã ra Tuyên bố về những nguyên tắc và quyền cơ bản
trong lao động. Đây cũng là cách tiếp cận của các FTAs và đang trở thành xu thế
trên tồn cầu, trong đó có Hiệp định CPTPP. Hiệp định CPTPP được xem là hiệp
định thương mại tự do “thế hệ mới” chất lượng cao, tiêu chuẩn cao, toàn diện và cân
bằng của thế kỷ XXI với mục tiêu thiết lập một mặt bằng tự do chung cho các nước
khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, hỗ trợ tạo ra và
duy trì việc làm; tăng cường đổi mới, năng suất, sức cạnh tranh; nâng cao mức sống,
giảm khoảng cách giàu nghèo ở các nước thành viên; đồng thời, thúc đẩy hoạt động
quản lý hiệu quả, minh bạch, bảo vệ NLĐ và bảo vệ môi trường. Hiệp định này
khởi nguồn từ Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) - một
hiệp định được đàm phán từ tháng 3/2010 với 12 nước thành viên bao gồm Hoa Kỳ,
Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Úc, Nhật Bản, Singapore, Brunei,
Malaysia và Việt Nam; sau đó, được ký kết tháng 4/6/2016 tại New Zealand. Tuy
nhiên, đến tháng 1/2017, khi Tổng thống Hoa Kỳ Donald Trump đắc cử, Hoa Kỳ đã
tuyên bố rút khỏi hiệp định này, khiến TPP khơng thể có hiệu lực như dự kiến vào
năm 2018. Ngày 11/11/2017, trong khuôn khổ Hội nghị thượng đỉnh Diễn đàn hợp
tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương tổ chức tại Việt Nam, các nước thành viên
còn lại của TPP đã đạt được thỏa thuận cơ bản cho Hiệp định TPP-11, đồng thời đã
ra Tuyên bố chung thống nhất đổi tên TPP thành CPTPP và tiếp tục ký kết CPTPP
vào ngày 08/3/2018 tại thành phố San-ti-a-gơ, Chile để CPTPP có hiệu lực mà
khơng có Hoa Kỳ.

tổ chức chun biệt của người lao động được gọi là “cơng đồn của người lao động”. Các tổ chức chuyên

biệt của người sử dụng lao động được gọi là “hiệp hội của người sử dụng lao động” (Theo Trung tâm Hỗ trợ
Phát triển quan hệ lao động (CIRD) – Cục Quan hệ lao động và Tiền lương (2018), tlđd (6)).

12


Đối với Việt Nam, ngày 12/11/2018, tại Kỳ họp thứ 6, Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định CPTPP cùng các văn kiện
liên quan với 100% đại biểu có mặt tán thành. Theo quy định, 60 ngày kể từ khi các
nước thông báo cho New Zealand (nước lưu chuyển hiệp định) về việc phê chuẩn
Hiệp định CPTPP, hiệp định này sẽ có hiệu lực với quốc gia đó. Như vậy, với thơng
báo tới New Zealand từ 15/11/2018, kể từ ngày 14/01/2019, Hiệp định CPTPP
chính thức có hiệu lực với Việt Nam.
Về cơ bản, Hiệp định CPTPP giữ nguyên nội dung của Hiệp định TPP (gồm
30 chương và 9 phụ lục) nhưng cho phép các nước thành viên tạm hỗn 20 nhóm
nghĩa vụ15 để bảo đảm sự cân bằng về quyền lợi và nghĩa vụ của các nước thành
viên trong bối cảnh mới - Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định TPP. Về nội dung, CPTPP
thực hiện tự do hóa ở cấp độ sâu rộng, phạm vi các vấn đề điều chỉnh bao trùm lên
nhiều lĩnh vực, không chỉ đề cập tới các cam kết ưu đãi về thương mại truyền thống
như cắt giảm thuế quan đối với hàng hóa, mở cửa thị trường dịch vụ, sở hữu trí tuệ,
hàng rào kỹ thuật liên quan đến thương mại… mà còn xử lý những vấn đề mới, phi
truyền thống như lao động, môi trường, mua sắm của Chính phủ, doanh nghiệp Nhà
nước, chống tham nhũng thương mại, đầu tư, phát triển bền vững và quản trị tốt…
nổi bật là vấn đề nhân quyền. Các quy định về nhân quyền đóng vai trị ngày càng
quan trọng trong các FTAs, không dừng lại ở những “tuyên bố” mà được xây dựng
như một phần thống nhất trong chiến lược phát triển thương mại toàn cầu với các
quy định chặt chẽ và hướng tới cơ chế thực thi mang tính ràng buộc cao16. Hiệp
định CPTPP tập trung bảo vệ quyền và lợi ích của NLĐ, nhưng khơng đưa ra tiêu
chuẩn cụ thể mà áp dụng theo các tiêu chuẩn lao động đã được nêu trong Tuyên bố
năm 1998 về Những nguyên tắc và quyền cơ bản trong lao động của ILO. Các tiêu

chuẩn này đều được các nước thành viên tôn trọng, thúc đẩy và thực thi, thể hiện
trong 8 Công ước cơ bản, bao gồm:
(1) Quyền tự do liên kết và thương lượng tập thể của NLĐ và NSDLĐ (theo
Công ước số 87 về tự do hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức và Công ước số 98 năm
1949 về quyền tổ chức và thương lượng tập thể);
20 nhóm nghĩa vụ tạm hỗn này bao gồm 11 nghĩa vụ liên quan tới Chương Sở hữu trí tuệ, 2 nghĩa vụ liên
quan đến Chương Mua sắm của Chính phủ và 7 nghĩa vụ còn lại liên quan tới 7 Chương là Quản lí hải quan
và Tạo thuận lợi Thương mại, Đầu tư, Thương mại dịch vụ xuyên biên giới, Dịch vụ Tài chính, Viễn thơng,
Mơi trường, Minh bạch hóa và Chống tham nhũng.
16
Ngơ Quốc Chiến (2019), “Vấn đề nhân quyền trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới”, Tạp chí
Nhà nước và pháp luật, Số 2 (370), tr. 47 – 62, tr. 74.
15

13


(2) Xóa bỏ lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc (theo Cơng ước số 29
năm 1930 về xóa bỏ lao động cưỡng bức và Công ước số 105 năm 1957 về xóa bỏ
lao động cưỡng bức);
(3) Cấm sử dụng lao động trẻ em, xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi
tệ nhất (theo Công ước số 138 năm 1973 về độ tuổi tối thiểu trong lao động; Cơng
ước số 182 năm 1999 về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất);
(4) Xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử về việc làm và nghề nghiệp (theo
Công ước số 100 năm 1951 về trả cơng bình đẳng giữa lao động nam và lao động
nữ; Công ước số 111 năm 1958 về chống phân biệt đối xử trong công việc).
Hiện nay, Việt Nam đã phê chuẩn 07/08 cơng ước này17, cịn Cơng ước 87
dự kiến sẽ phê chuẩn vào năm 2023.
1.3. Nội dung các quy định của Hiệp định Đối tác toàn diện & tiến bộ
xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) về quyền tự do cơng đồn

Quyền con người là một trong những giá trị cốt lõi để hình thành nên các quy
định trong ILO, thể hiện trong lời nói đầu của Hiệp định CPTPP: “Thiết lập một
hiệp định khu vực tồn diện có thể thúc đẩy hội nhập kinh tế nhằm tự do hóa
thương mại và đầu tư đem lại tăng trưởng kinh tế và lợi ích xã hội, tạo ra những cơ
hội mới cho NLĐ và doanh nghiệp, góp phần nâng cao mức sống, mang lại lợi ích
cho người tiêu dùng, giảm nghèo và thúc đẩy tăng trưởng bền vững”. Trong các
quyền con người, quyền tự do cơng đồn được quy định tại chương 19 của hiệp
định CPTPP nhưng không đặt ra những tiêu chuẩn mới mà yêu cầu các quốc gia
thành viên phải tuân thủ Tuyên bố ILO 1998 về các nghĩa vụ và quyền cơ bản trong
lao động, đặc biệt là Công ước 87 và Công ước 98 của Tổ chức lao động thế giới
(ILO). Không dừng lại ở việc nhắc lại cam kết của các bên trong Tuyên bố ILO,
CPTPP cịn quy định các nước thành viên phải tơn trọng, thúc đẩy và thực thi các
quyền đã được ghi nhận trong Tuyên bố năm 1998 của ILO vào trong pháp luật, thể
chế và thơng lệ quốc gia, trong đó có quyền tự do cơng đồn của NLĐ18. Từ đó, đòi
hỏi các nước thành viên phải sửa đổi hoặc ban hành các văn bản pháp luật để tạo
điều kiện cho việc thực thi các nội dung cam kết đó.
Việt Nam đã phê chuẩn 7/8 Công ước cơ bản, bao gồm: Công ước số 100 và Công ước số 111 vào năm
1997, Công ước số 182 vào năm 2000, Công ước số 138 vào năm 2003, Công ước số 29 vào năm 2007, Công
ước số 98 năm 2019, Công ước số 105 vào năm 2020.
18
Điều 19.3 Hiệp định CPTPP:
“1. Mỗi bên sẽ thơng qua và duy trì các đạo luật và quy định, và thực hiện các đạo luật và quy định đó ở
nước mình, các quyền sau đây như đã được yêu trong Tuyên bố ILO:
(a) Quyền tự do hội họp và ghi nhận có hiệu quả quyền thương lượng tập thể.”
17

14


Theo Công ước 87 và Công ước 98 của ILO, quyền tự do cơng đồn của

NLĐ bao gồm các quyền cơ bản sau:
(1) Quyền thành lập và gia nhập công đồn theo sự lựa chọn của mình;
(2) Quyền tự đề ra điều lệ và quy chế của tổ chức, tự bầu ra người đại diện
của tổ chức và đề ra chương trình hành động của tổ chức;
(3) Quyền được bảo vệ chống lại việc đình chỉ hoặc giải tán tổ chức của
mình bởi cơ quan hành chính;
(4) Quyền liên kết, theo đó, tổ chức đại diện NLĐ có quyền gia nhập hoặc
trở thành hội viên của các liên đoàn, tổng liên đồn, cơng đồn quốc tế.
1.3.1. Quyền thành lập và gia nhập cơng đồn theo sự lựa chọn của mình
Quyền tự do thành lập và gia nhập các cơng đồn theo sự lựa chọn của mình
là quyền cốt lõi trong quyền tự do cơng đồn của NLĐ, được ILO thúc đẩy mọi
quốc gia thành viên phải tôn trọng. Điều 2 Công ước 87 quy định: NLĐ tại một
doanh nghiệp đều có quyền được tự do thành lập và gia nhập các tổ chức cơng đồn
để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình (có thể thành lập nhiều hơn một tổ
chức của NLĐ trong một doanh nghiệp) với một điều kiện duy nhất là phải tuân thủ
các quy định của tổ chức đó mà khơng phải xin phép trước, khơng bị các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền hay bất kì tổ chức, cá nhân nào can thiệp, hạn chế, cản trở
việc thực hiện các quyền đó.
1.3.1.1. Đối tượng được bảo vệ quyền thành lập và gia nhập cơng đồn
Theo quy định của ILO thì quyền thành lập và gia nhập cơng đồn thuộc về
mọi cơng dân của các quốc gia mà “khơng có bất kỳ sự phân biệt nào”. Thuật ngữ
“khơng có bất kỳ sự phân biệt nào” đã được Ủy ban về tự do hiệp hội của ILO giải
thích chính thức19, theo đó đối tượng áp dụng Cơng ước là tất cả NLĐ, khơng có sự
phân biệt dựa trên bất cứ đặc điểm nào như nghề nghiệp, giới tính, tuổi tác, nguồn
gốc xuất thân, dân tộc, quốc tịch, tình trạng hơn nhân, quan điểm tơn giáo, quan
điểm chính trị… Cụ thể:
Về quốc tịch và nơi cư trú, NLĐ có quyền tự do thành lập và tham gia các tổ
chức cơng đồn mà khơng phụ thuộc quốc tịch hay nơi cư trú của họ. Theo Điều 6,
Công ước 97 về người lao động di trú năm 1949 của ILO: “Các quốc gia thành viên
của Công ước cam kết áp dụng, không phân biệt về quốc tịch của NLĐ (…) về

quyền tham gia cơng đồn và thừa hưởng những lợi ích về thoả ước lao động tập
19

Văn phịng lao động quốc tế (2017), tlđd (2), đoạn 209.

15


thể”. Như vậy, NLĐ di trú20 trên lãnh thổ của quốc gia thành viên cũng được đảm
bảo quyền tự do cơng đồn giống như NLĐ là cơng dân nước sở tại, ở đó, họ được
tự do thành lập và gia nhập các tổ chức đại diện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của mình mà khơng cần dựa trên nguyên tắc “có đi có lại” trong Luật quốc tế.
Tuy nhiên, để được hưởng chế độ không phân biệt nói trên, NLĐ di trú phải cư trú
hợp pháp trên lãnh thổ của quốc gia sở tại21.
Về quan điểm chính trị, theo Ủy ban về tự do hiệp hội của ILO22, NLĐ có
quyền thành lập, tham gia cơng đồn mà họ thấy cần thiết theo sự lựa chọn của
mình mà không bị phân biệt đối xử dựa trên quan điểm chính trị, bất kể họ ủng hộ
hay khơng ủng hộ mơ hình kinh tế, xã hội của Chính phủ, mơ hình chính trị của đất
nước.
Về nghề nghiệp, khơng chỉ NLĐ làm việc trong khu vực tư nhân của nền
kinh tế mà NLĐ làm việc trong lĩnh vực công như công chức, viên chức cũng có
quyền tự do thành lập hoặc gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của chính họ để
thúc đẩy và bảo vệ các lợi ích nghề nghiệp của mình mà khơng bị bất kỳ sự phân
biệt nào và không cần cho phép trước. Quy định này cịn được ghi nhận trong Điều
9 của Cơng ước 151 của ILO: “Cũng như những người lao động khác, cơng chức
phải được các quyền dân sự và chính trị thiết yếu cho việc thực thi bình thường
quyền tự do cơng đồn”. Do đó, các quốc gia thành viên khơng được quy định danh
sách giới hạn các nghề nghiệp được cơng nhận có quyền thành lập tổ chức để đảm
bảo nguyên tắc mọi NLĐ không bị bất kỳ sự phân biệt nào, đều có quyền thành lập
và gia nhập tổ chức theo sự lựa chọn của chính họ.

Cần lưu ý Khoản 1 Điều 9 Công ước 8723 quy định không phải tất cả mọi
công dân của các quốc gia đều được hưởng quyền tự do cơng đồn, mà các quốc gia
đã phê chuẩn Cơng ước có quyền đặt ra các quy định hạn chế quyền nêu trên đối
với những người đang phục vụ trong lực lượng vũ trang hoặc cảnh sát. Tùy thuộc
vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, trình độ văn hóa, thể chế chính trị… mà mỗi
quốc gia sẽ quy định mức độ hạn chế khác nhau. Và tất cả các trường hợp ngoại lệ
Khoản 1 Điều 2 Công ước quốc tế về bảo vệ quyền của tất cả những người lao động di trú và các thành
viên gia đình họ năm 1990: “Thuật ngữ “người lao động di trú” để chỉ một người đã, đang và sẽ làm một
cơng việc có hưởng lương tại một quốc gia mà người đó khơng phải là cơng dân”.
21
Điều 10 Công ước số 143 về người lao động di trú năm 1975: “Người lao động di trú phải được hưởng
quyền bình đẳng về cơ hội và đối xử, nhất là trong các quyền liên quan đến cơng đồn, tự do cá nhân và tập
thể khi họ cư trú hợp pháp trên lãnh thổ của quốc gia tiếp nhận”.
22
Văn phòng lao động quốc tế (2017), tlđd (2), đoạn 212, 213.
23
Khoản 1 Điều 9 Công ước 87: “Mức độ áp dụng những bảo đảm quy định trong Công ước này cho các lực
lượng vũ trang và cảnh sát sẽ do pháp luật hoặc quy định quốc gia xác định”.
20

16


trên phải được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật quốc gia để đảm bảo thực
hiện và thi hành có hiệu quả. Sở dĩ có quy định như vậy là do những người trong
lực lượng vũ trang, cảnh sát là những người có nhiệm vụ bảo vệ đất nước trước các
thế lực thù địch; bảo vệ chủ quyền quốc gia, an ninh trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ
các quyền và tự do của người khác. Chính vì vậy, họ cần có sự trung lập, tránh bị
lơi kéo vào các xung đột mang tính tập thể.
1.3.1.2. Điều kiện thành lập cơng đồn

Theo Điều 2 Cơng ước 87 của ILO, NLĐ có quyền tự do thành lập và tham
gia tổ chức cơng đồn với một điều kiện duy nhất là phải tuân theo điều lệ của chính
tổ chức đó. Tuy nhiên, trên thực tế, các quốc gia thường quy định các điều kiện
cơng đồn phải thỏa mãn để được thành lập, các căn cứ để dựa vào đó cán bộ đăng
ký cơng đồn có thể từ chối hoặc hủy bỏ việc đăng ký. Điều này không bị xem là vi
phạm Điều 2 Công ước 87 nếu như các điều kiện đó khơng làm trì hỗn hoặc ngăn
cản việc thành lập các tổ chức cơng đồn. Tùy vào từng điều kiện cụ thể mà mỗi
quốc gia sẽ quy định về các điều kiện thành lập khác nhau. Chẳng hạn:
(1) Điều kiện về số lượng thành viên tối thiểu để một tổ chức cơng đồn có
thể được thành lập, Hiệp định CPTPP không quy định về số lượng thành viên tối
thiểu mà cơng đồn cần phải đáp ứng khi thành lập nhưng theo Ủy ban về tự do
hiệp hội của ILO thì con số tối thiểu cụ thể khi thành lập cơng đồn phải được ấn
định một cách hợp lý để không gây cản trở việc thành lập tổ chức cơng đồn. Việc
xác định con số cụ thể nào là hợp lý có thể khác nhau ở mỗi nơi, tùy thuộc vào điều
kiện cụ thể, vào quy mô doanh nghiệp, quy mơ tổ chức cơng đồn. Có một số quốc
gia quy định một tổ chức cơng đồn phải có tối thiểu 50 NLĐ, theo quan điểm của
ILO, con số này là quá cao, dẫn tới tình trạng hạn chế việc thành lập nhiều hơn một
tổ chức cơng đồn trong một ngành nghề, một doanh nghiệp, đặc biệt là doanh
nghiệp vừa và nhỏ24. Số lượng tối thiểu 30 NLĐ là có thể chấp nhận được đối với
trường hợp thành lập công đoàn ngành, song yêu cầu tối thiểu này phải được giảm
xuống đối với các doanh nghiệp nhỏ, các cơng đồn chủ yếu được tổ chức theo mơ
hình cơng đồn doanh nghiệp.
(2) Về quy định một số thủ tục thành lập tổ chức cơng đồn, trong Báo cáo
tại Hội nghị Lao động Quốc tế năm 1948, Ủy ban về Tự do hiệp hội và Quan hệ lao
động đã tuyên bố: “Nhà nước có thể tự do đưa ra các quy định của luật về thủ tục
24

Phạm Thị Thúy Nga (2016), tlđd (13), tr. 70 – 78.

17



thành lập tổ chức một cách phù hợp nhằm bảo đảm cho sự hoạt động bình thường
của các tổ chức nghề nghiệp”25. Do đó, các quốc gia thành viên có quyền đặt ra các
quy định về thủ tục liên quan đến việc thành lập cơng đồn để đảm bảo cơng khai,
minh bạch với điều kiện là các quy định đó không đặt ra yêu cầu “xin phép trước"
hoặc giúp cho các cơ quan chức năng tùy ý từ chối việc thành lập tổ chức cơng đồn
cũng như khơng làm suy yếu, gây khó khăn, cản trở việc thực hiện quyền tự do
cơng đồn của NLĐ được quy định trong Cơng ước 87. Đối với các quốc gia quy
định việc thành lập cơng đồn phải đăng ký thì pháp luật quốc gia cần quy định thời
hạn tối đa để các cơ quan có thẩm quyền phải có trách nhiệm hành động ngay lập
tức để phúc đáp việc nộp đơn, tránh trường hợp các thủ tục đăng ký quá phức tạp và
kéo dài sẽ làm cản trở, trì hỗn việc thành lập cơng đồn của NLĐ và dẫn đến sự
phủ nhận đối với quyền thành lập tổ chức mà không phải xin phép trước. Theo Ủy
ban về tự do hiệp hội của ILO, thời gian đăng ký 01 tháng là vừa phải, hợp lý.
(3) Về hệ thống tổ chức cơng đồn, theo quy định tại Điều 2 Công ước 87
của ILO, NLĐ có “quyền được tổ chức và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn
của mình”, có nghĩa là NLĐ có thể tự do lựa chọn gia nhập một trong các tổ chức
đã được thành lập hoặc thành lập thêm các tổ chức mới. Từ đó, dẫn đến khả năng
nhiều tổ chức cơng đồn có thể cùng tồn tại trong một doanh nghiệp. Trên thực tế,
có quốc gia chỉ có một hệ thống cơng đồn thống nhất, có quốc gia lại tồn tại hình
thức “đa cơng đồn” - có nhiều tổ chức cơng đồn cấp cơ sở. Cần chú ý là việc tồn
tại một hệ thống tổ chức cơng đồn duy nhất được xác định là không trái với Công
ước 87 chỉ khi việc lựa chọn cơng đồn đó được thực hiện một cách tự do và tự
nguyện, NLĐ không có nguyện vọng thành lập một tổ chức cơng đồn khác. Tuy
nhiên, NLĐ vẫn có quyền thay đổi và lựa chọn một cơng đồn khác hoặc thành lập
một tổ chức cơng đồn mới độc lập, hiệu quả hơn. Nói cách khác, mặc dù nội dung
của Công ước không quy định các quốc gia bắt buộc phải có nhiều tổ chức cơng
đồn, song nó u cầu sự đa dạng cần được duy trì để có thể xảy ra trong mọi
trường hợp, có nghĩa là việc một tổ chức cơng đồn đã được thành lập không thể là

rào cản cho việc ra đời một tổ chức cơng đồn khác, cả ở cấp doanh nghiệp và các
cấp cao hơn26. Hiện tượng cơng đồn độc quyền, thống nhất do bị áp đặt một cách

Văn phòng lao động quốc tế (2017), tlđd (2), đoạn 275.
Lê Thị Hoài Thu (2018), “Hoàn thiện pháp luật về tổ chức đại diện lao động khi Việt Nam gia nhập Hiệp
định Đối tác toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương”, Tạp chí Luật học, số 4, tr. 33.
25
26

18


trực tiếp hoặc gián tiếp của Nhà nước, đặc biệt là sự can thiệp thông qua các công
cụ luật pháp là trái với Điều 2 và Điều 11 Công ước 87.
1.3.1.3. Các quy định nhằm đảm bảo quyền thành lập và gia nhập cơng
đồn
Theo Ủy ban của ILO về tự do hiệp hội, bất cứ sự trì hỗn nào gây ra bởi cơ
quan có thẩm quyền trong việc đăng ký cơng đồn đều cấu thành sự vi phạm Điều 2
Cơng ước 87. Cơ quan hành chính khơng được trì hỗn vơ thời hạn hoặc từ chối
đăng ký cơng đồn vì bất cứ lý do gì, kể cả khi cho rằng tổ chức đó có thể vượt q
hoạt động cơng đồn thơng thường hoặc tổ chức đó khơng có khả năng thực hiện
các chức năng của nó. Một quy định theo đó việc đăng ký cơng đồn có thể bị từ
chối nếu cơng đồn đó “có ý định tham gia” vào các hoạt động có thể gây ra sự đe
dọa nghiêm trọng đối với an tồn hoặc trật tự cơng cộng có thể dẫn đến sự lạm dụng
nên quy định đó phải được áp dụng với sự thận trọng đặc biệt.
Bên cạnh đó, nhằm mục tiêu bảo đảm quyền tự do cơng đồn được tn thủ
triệt để, Hiệp định CPTPP và Cơng ước 87 cũng có các quy định bảo vệ tổ chức của
NLĐ không bị NSDLĐ can thiệp và phân biệt đối xử nhằm vơ hiệu hóa hoặc làm
suy yếu khả năng đại diện, bảo vệ cho quyền và lợi ích của NLĐ. Điều này đã được
Công ước 98 cụ thể hóa tại Khoản 1 Điều 1: “NLĐ phải được hưởng sự bảo vệ thích

đáng trước mọi hành vi phân biệt đối xử chống lại cơng đồn trong việc làm của
họ”. Cơ quan công quyền và NSDLĐ phải kiềm chế không thực hiện bất cứ sự can
thiệp hay phân biệt đối xử làm hạn chế hoặc ngăn cản việc NLĐ thực hiện các
quyền hợp pháp của họ.
Ngoài ra, sự phân biệt giữa các tổ chức cơng đồn theo quy định của luật
quốc gia hoặc của các cơ quan nhà nước có thể dẫn đến hậu quả gián tiếp là hạn chế
sự tự do của NLĐ trong việc thành lập và gia nhập các tổ chức theo sự lựa chọn của
chính mình được quy định tại Điều 2 Cơng ước 8727. Theo đó, các cơ quan cơng
Văn phịng lao động quốc tế (2017), tlđd (2), đoạn 339: “Lý do để Ủy ban có quan điểm như trên là: Với
tư cách là một quy định chung, khi chính phủ có thể trao lợi thế cho một tổ chức cụ thể hoặc có thể lấy đi lợi
thế của một tổ chức trong khi thiên vị đối với một tổ chức khác, thì sẽ có một rủi ro, thậm chí đó khơng phải
là ý định của chính phủ, là một cơng đồn sẽ được đặt vào vị trí bất lợi hoặc có lợi một cách không công
bằng trong mối quan hệ với các tổ chức khác, và như vậy là đã cấu thành sự phân biệt đối xử. Một cách
chính xác hơn, bằng cách đặt một tổ chức vào vị trí có lợi hoặc bất lợi trong mối quan hệ với các tổ chức
khác, một chính phủ có thể, hoặc là gián tiếp hoặc là trực tiếp, có ảnh hưởng tới sự lựa chọn của người lao
động về tổ chức nào họ có ý định tham gia, bởi vì khơng thể phủ nhận được rằng người lao động sẽ muốn
tham gia tổ chức có khả năng bảo vệ, phục vụ họ tốt nhất, trong khi nếu để lựa chọn một cách tự nhiên thì có
thể họ đã lựa chọn tham gia tổ chức khác vì lý do nghề nghiệp, tơn giáo, chính trị hoặc những lý do khác. Sự
tự do của các bên trong việc lựa chọn là một quyền được thể hiện rõ ràng trong Công ước số 87”.
27

19


quyền bị xem là đã có quan điểm, thái độ thiên vị hoặc phân biệt đối xử chống lại
một hoặc nhiều tổ chức cơng đồn khi thực hiện một trong các hành vi sau:
(1) Áp lực đối với NLĐ bởi các tun bố cơng khai của các cơ quan có thẩm
quyền;
(2) Phân bổ khơng cơng bằng giữa các cơng đồn các khoản trợ cấp, hoặc
cấp cho một tổ chức công đoàn trụ sở để tổ chức các cuộc họp, triển khai các hoạt

động, thay vì là bình đẳng cho các tổ chức khác;
(3) Từ chối công nhận lãnh đạo của một số tổ chức nhất định trong việc thực
hiện các hoạt động hợp pháp của họ;
(4) Cấp quyền sử dụng trụ sở, tài sản cho một tổ chức cụ thể, hoặc lấy lại trụ
sở, tài sản của một tổ chức mà họ đã và đang quản lý để trao cho một tổ chức khác,
kể cả trong trường hợp khơng có chủ đích.
Vì vậy, nếu chính phủ các quốc gia, NSDLĐ muốn tạo ra những điều kiện,
phương tiện thuận lợi cho các tổ chức cơng đồn, thì phải tạo điều kiện, phương tiện
thuận lợi đó một cách bình đẳng cho tất cả các cơng đồn, khơng được đưa ra sự đối
xử thiên vị hoặc thành kiến đối với một tổ chức cụ thể so với các tổ chức khác làm
ảnh hưởng tới sự lựa chọn của NLĐ về tổ chức công đồn sẽ đứng ra bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của họ.
1.3.2. Quyền tự đề ra điều lệ và quy chế của tổ chức, tự bầu ra người đại
diện và đề ra chương trình hành động của tổ chức
Quyền tự do cơng đồn là quyền cơ bản của NLĐ, tự nguyện thiết lập, tham
gia các tổ chức dựa trên sự lựa chọn của chính bản thân họ và cịn có nghĩa là tổ
chức đó có quyền thực hiện những hoạt động trong sự tự do mà không bị can thiệp28.
Theo Điều 3 Cơng ước 87, tổ chức cơng đồn của NLĐ được tự mình quyết định về
các nguyên tắc, quy định nhằm quản trị tổ chức của mình như được quyền tự chủ
trong việc soạn thảo điều lệ, lập ra quy tắc, cách thức bầu đại diện, cơ cấu tổ chức
Điều hành và duy trì hoạt động của các tổ chức đại diện.
(1) Quyền lập ra Điều lệ và quy chế tổ chức.
Theo Ủy ban Tự do Hiệp hội của ILO, tổ chức cơng đồn của NLĐ được
quyền tự do xây dựng bản Điều lệ riêng của tổ chức mình, khơng chịu sự kiểm sốt,
chi phối của tổ chức ở cấp cao cũng như không cần phải được tổ chức ở cấp cao hơn
Nguyễn Thị Báo (2017), “Quyền công đồn và việc bảo đảm quyền cơng đồn ở Việt Nam hiện nay”, Tạp
chí Lý luận chính trị, truy cập ngày 25/4/2021.
28

20



×