Tải bản đầy đủ (.pdf) (137 trang)

Thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.03 MB, 137 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ ĐỒN KIỀU TRINH

THẾ CHẤP QUYỀN ĐỊI NỢ THEO QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM

KHÓA LUẬN CHUYÊN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP. HỒ CHÍ MINH – 07 – 2021


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP. HỒ CHÍ MINH

LÊ ĐỒN KIỀU TRINH

THẾ CHẤP QUYỀN ĐỊI NỢ THEO QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT
VIỆT NAM

GVHD: ThS. NGUYỄN TRƢƠNG TÍN

TP. HỒ CHÍ MINH – 07 – 2021


LỜI CẢM ƠN
Để hồn thành được khóa luận tốt nghiệp này, em xin gửi lời cảm ơn chân
thành đến Giảng viên hướng dẫn, Thạc sĩ Nguyễn Trương Tín – Giảng viên Khoa
Luật dân sự, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Với bề dày kiến thức, kinh
nghiệm của mình, thầy đã chỉ dẫn tận tình, chu đáo, ln ln động viên và giúp đỡ


em trong q trình hồn thành khóa luận. Em chúc thầy thật nhiều sức khỏe, ln
ln hạnh phúc và thành công hơn nữa trong sự nghiệp giáo dục.
Em cũng xin cảm ơn đến các quý thầy, cơ Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí
Minh đã tận tình dạy dỗ em trong suốt bốn năm học vừa qua. Để em có được sự tâm
huyết, kiến thức vững chắc và kỹ năng trong việc hồn thành tốt khóa luận tốt
nghiệp này.


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả tìm hiểu, nghiên cứu của
riêng tơi, được thực hiện dưới sự hướng dẫn của Ths. Nguyễn Trương Tín. Khóa
luận này đảm bảo tính trung thực và tn thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài
liệu tham khảo.
Tơi xin hồn tồn chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
TP. Hồ Chí Minh, ngày 28 tháng 6 năm 2021
Sinh viên thực hiện

Lê Đoàn Kiều Trinh


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
Chƣơng 1 ....................................................................................................................7
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI
NỢ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM .....................................................................7
1.1. Khái quát chung về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam ......7
1.1.1. Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ .............................................................7
1.1.2. Đặc điểm thế chấp quyền đòi nợ .............................................................14
1.1.3. Phân loại quyền đòi nợ ............................................................................15
1.1.4. Ý nghĩa thế chấp quyền đòi nợ ...............................................................18

1.2. Điều kiện quyền đòi nợ đƣợc thế chấp .......................................................20
1.2.1. Quyền đòi nợ phát sinh từ giao dịch hợp pháp .......................................20
1.2.2. Quyền đòi nợ thuộc quyền sở hữu của bên thế chấp ..............................21
1.2.3. Quyền địi nợ khơng bị tranh chấp ..........................................................23
1.3. Những mối quan hệ liên quan đến thế chấp quyền địi nợ .......................24
1.3.1. Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên thế chấp quyền đòi nợ ......24
1.3.2. Quan hệ giữa bên thế chấp và bên nhận thế chấp quyền địi nợ .............25
1.3.3. Quan hệ giữa bên có nghĩa vụ trả nợ và bên nhận thế chấp quyền đòi nợ
...........................................................................................................................26
1.4. Phạm vi thế chấp và xử lý quyền đòi nợ đƣợc thế chấp ...........................28
1.4.1. Phạm vi thế chấp quyền đòi nợ ...............................................................28
1.4.2. Xử lý quyền đòi nợ được thế chấp ..........................................................29
Kết luận Chƣơng 1 ..................................................................................................31
Chƣơng 2 ..................................................................................................................32
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI NỢ Ở VIỆT
NAM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN .................................................................32
2.1. Vƣớng mắc trong việc xác định phạm vi thế chấp quyền đòi nợ và giải
pháp hoàn thiện pháp luật..................................................................................32


2.1.1. Xử lý lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp .................................32
2.1.2. Thế chấp quyền địi nợ hình thành trong tương lai .................................33
2.2. Vƣớng mắc trong quy định về hình thức đối với giao dịch thế chấp
quyền địi nợ và giải pháp hoàn thiện pháp luật ..............................................35
2.3. Vƣớng mắc trong quy định về nghĩa vụ thông báo quyền địi nợ đƣợc thế
chấp và giải pháp hồn thiện pháp luật ............................................................37
2.4. Vƣớng mắc trong việc xử lý quyền đòi nợ đƣợc thế chấp và giải pháp
hoàn thiện pháp luật ...........................................................................................42
2.4.1. Phương thức xử lý quyền đòi nợ được thế chấp .....................................42
2.4.2. Thời điểm thực hiện nghĩa vụ trong thế chấp quyền đòi nợ ...................43

2.4.3. Thế chấp quyền đòi nợ trong mối quan hệ với phương tiện phòng vệ của
bên có nghĩa vụ trả nợ .......................................................................................46
Kết luận Chƣơng 2 ..................................................................................................58
KẾT LUẬN ..............................................................................................................60
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
BLDS năm 2005
BLDS năm 2015
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP

Nghị định số 11/2012/NĐ-CP

Nghị định số 21/2021/NĐ-CP

Thông tư số 08/2018/TT-BTP

Nội dung đƣợc viết tắt
Bộ luật Dân sự năm 2005
Bộ luật Dân sự năm 2015
Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29
tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm
Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22
tháng 02 năm 2012 của Chính phủ về
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng

12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch
bảo đảm
Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19
tháng 03 năm 2021 của Chính phủ về
quy định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ
Thông tư số 08/2018/NĐ-CP ngày 20
tháng 6 năm 2018 của Bộ Tư pháp
hướng dẫn về đăng ký, cung cấp thông
tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và
trao đổi thông tin về đăng ký biện pháp
bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao
dịch, tài sản của Cục Đăng ký quốc gia
giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp


LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ thời La Mã cổ đại khái niệm tài sản đã ra đời, lúc đó tài sản chỉ bao gồm
vật và quyền tài sản. Trải qua hàng ngàn thế kỉ, khái niệm tài sản với bản chất là
một khái niệm động mang một nội dung về kinh tế, xã hội, pháp lý ở thời đại đó đã
khơng ngừng vận hành và thay đổi. Cho tới thời kỳ nền kinh tế thị trường hiện nay,
với sự phát triển nhanh chóng của các nền kinh tế, sự xuất hiện như vũ bão của các
cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật, đã đem lại những thành tựu to lớn cho loài
người, làm cho các giá trị của xã hội ngày càng được nâng cao, kéo đến sự đa dạng
hóa các loại hợp đồng... đã dẫn đến sự phát sinh của những loại tài sản mới, đa dạng
hơn, phức tạp hơn và tất yếu kéo theo đó là những tài sản mới được dùng để thế
chấp, có thể kể đến là các tài sản hình thành trong tương lai, các quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng như quyền thu phí, quyền u cầu thanh tốn, quyền thuê bất động
sản mà đã trả tiền thuê trước cho cả thời hạn thuê... Trong các quyền tài sản trên,

nổi bất nhất là quyền đòi nợ.
Quyền đòi nợ là một loại tài sản, đây là loại tài sản còn khá mới trong các
giao dịch dân sự, bởi lẽ trước đây chúng ta luôn coi trọng các bất động sản và động
sản hữu hình, mà xem nhẹ vai trị của các quyền tài sản. Tuy nhiên, khi bước sang
thế kỉ XXI, khi cơ cấu nền kinh tế đã có sự chuyển dịch đáng kể, loại tài sản này
ngày càng chiếm phần lớn trong sản nghiệp của các cá nhân, tổ chức. Giao dịch thế
chấp quyền đòi nợ ngày càng được sử dụng rộng rãi với những ưu điểm không thể
phủ nhận. Việc sử dụng quyền đòi nợ để bảo đảm cho nghĩa vụ, sẽ tránh được nguy
cơ tài sản bị mất, bị hư hại, bị giảm giá trị, lại không phải chuyển giao cho bên nhận
thế chấp. Chính bởi vậy nên trong thời hạn thế chấp, bên thế chấp vẫn có quyền
bán, thế chấp tiếp hay thực hiện các giao dịch khác với tài sản thế chấp khi thỏa
mãn những điều kiện nhất định. Mặt khác, quyền đòi nợ này được lưu trữ dễ dàng
và chuyển dịch nhanh chóng, thuận tiện bằng các phương tiện điện tử. Chính sự
thuận tiện này nên quyền đòi nợ dần trở thành tài sản được lựa chọn để đảm bảo
thực hiện nghĩa vụ. Thế nhưng so với các loại tài sản khác thì quyền đòi nợ vẫn
chưa được sử dụng phổ biến, một mặt đây là loại tài sản còn khá mới mẻ, một mặt
do các quy định pháp luật điều chỉnh, bảo vệ giao dịch này cịn khá sơ lược. Chính
vì vậy mà đây sẽ là rào cản, tạo ra tâm lý dè chừng và e ngại cho các chủ thể khi xác

1


lập giao dịch và thực hiện giao dịch này. Với mục đích nghiên cứu kĩ hơn về giao
dịch bảo đảm với quyền địi nợ, cũng như mong muốn góp phần hoàn thiện pháp
luật Việt Nam về vấn đề này, tác giả đã mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thế chấp quyền
đòi nợ theo quy định pháp luật Việt Nam”, để cung cấp được cái nhìn tổng thể về
các quy định của pháp luật hiện hành về thế chấp quyền đòi nợ trong quy định pháp
luật Việt Nam, để thấy được những bất cập từ pháp luật đến thực tiễn, từ đó đưa ra
các giải pháp, kiến nghị nhằm hồn thiện hơn các quy định của pháp luật. Qua cơng
trình nghiên cứu này, tác giả mong muốn sẽ giúp cho các chủ thể dễ dàng hơn trong

việc xác lập và thực hiện giao dịch, đồng thời có những kiến nghị nhằm hoàn thiện
hơn các quy định của pháp luật về thế chấp quyền địi nợ.
2. Tình hình nghiên cứu
Qua nghiên cứu, tác giả được biết các quy định về thế chấp quyền đòi nợ đã
thu hút được sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu luật học, cũng như những
người làm cơng tác thực tiễn áp dụng pháp luật. Có thể phân loại các cơng trình
nghiên cứu này thành ba nhóm lớn sau:
 Nhóm các khóa luận, luận văn:
Luận văn thạc sỹ luật học “Pháp luật về xử lý tài sản đảm bảo là quyền đòi
nợ trong hoạt động cho vay tại các ngân hàng thương mại” của Nguyễn Thành
Luân thực hiện năm 2014 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Đề tài
này chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về xử lý tài sản đảm bảo là quyền đòi nợ.
Cơ sở pháp lý mà đề tài này nghiên cứu chủ yếu tập trung vào Bộ luật Dân sự năm
2005, Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm 2012 của
Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày
29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm, Thơng tư liên tịch số
16/2014/TTLT-BTP-BTNMT-NHNN ngày 06 tháng 06 năm 2014 của Bộ Tư pháp,
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn một số vấn đề về
xử lý tài sản bảo đảm, tuy nhiên hiện nay hầu hết các văn bản pháp luật trên đã hết
hiệu lực.
Khóa luận tốt nghiệp “Pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ trong hoạt động
cho vay của các ngân hàng thương mại” của Võ Thị Đài thực hiện năm 2011 tại
2


Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh. Khóa luận tốt nghiệp “Thế chấp
quyền đòi nợ bảo đảm nghĩa vụ thanh tốn trong hợp đồng tín dụng” của Phạm Thị
Huỳnh Như thực hiện năm 2014 tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh.
Cả hai đề tài khóa luận tốt nghiệp này đều tập trung làm rõ thế chấp quyền địi nợ

trong khn khổ hoạt động của các ngân hàng, cho thấy được những vướng mắc
trong các quy định của pháp luật và các giải pháp hoàn thiện cho loại giao dịch này
trong các hoạt động tín dụng của ngân hàng.
 Nhóm sách giáo trình, sách chun khảo:
Giáo trình pháp luật về tài sản, quyền sở hữu tài sản và quyền thừa kế của
Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 2017, cuốn sách đã
cung cấp được các kiến thức pháp lý cơ bản về quyền tài sản, tài sản vơ hình, quyền
sở hữu, tài sản hiện có, tài sản hình thành trong tương lai... trên cơ sở các quy định
của Bộ luật Dân sự năm 2015 nhằm phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy của
giáo viên và việc học tập của học viên.
Cuốn sách Luật nghĩa vụ dân sự và bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự Việt
Nam Bản án và bình luận bản án, tập 2, xuất bản lần thứ ba, năm 2017 của PGS.TS.
Đỗ Văn Đại. Cuốn sách đã đi sâu vào việc phân tích, bình luận nghĩa vụ dân sự và
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự theo Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời thông
qua các bản án mà tác giả phân tích, bình luận sẽ góp phần làm sáng tỏ hơn các quy
định của pháp luật. Hơn nữa, các kiến nghị cụ thể mà tác giả đưa ra cho từng vấn đề
sẽ là nguồn tham khảo có giá trị cho các cơng trình nghiên cứu khoa học.
Cuốn sách Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ
luật Dân sự năm 2015, xuất bản năm 2017, của TS. Vũ Thị Hồng Yến. Cuốn sách
cung cấp được những kiến thức cơ bản và chuyên sâu dưới hai khía cạnh pháp lý và
thực tiễn về tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp, đồng thời đưa ra các yêu cầu
và kiến nghị cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật cho tài sản thế chấp và xử lý tài
sản thế chấp cho tương lai.
 Nhóm các bài viết trên tạp chí:
Bài viết “Pháp luật về xử lý tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ” của tác giả Bùi
Đức Giang đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 05, năm 2013. Bài viết cho

3



thấy được các nguyên tắc chung của phương thức xử lý tài sản bảo đảm là quyền
đòi nợ, xử lý lãi phát sinh từ quyền đòi nợ được thế chấp, đồng thời cũng đã có
những bình luận, phân tích về trường hợp quyền đòi nợ đến hạn trước hoặc sau
nghĩa vụ được bảo đảm và đã đưa ra được các kiến nghị cho bất cập này.
Bài viết “Điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế chấp theo pháp luật
Việt Nam” của tác giả Lê Trọng Dũng đăng trên Tạp chí Kiểm sát, số 20, năm 2020.
Thơng qua bài viết này, tác giả đã làm rõ được khái niệm của quyền đòi nợ, thế
chấp quyền đòi nợ và đưa ra các điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế
chấp dựa trên các quy định của Bộ luật Dân sự năm 2015.
Như vậy, các nghiên cứu về thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật
Việt Nam hiện nay cịn khá ít và mang tính rải rác, các cơng trình nghiên cứu về
loại tài sản này sau khi Bộ luật Dân sự năm 2015 có hiệu lực vẫn chưa thực sự
nhiều và thiếu tính chuyên sâu. Chính vì vậy mà việc nghiên cứu một cách chi tiết
và thống nhất về loại tài sản này trong tình hình kinh tế, nhu cầu vốn hiện nay là rất
cần thiết.
3. Mục đích nghiên cứu
Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, khi nghiên cứu về vấn đề “Thế chấp
quyền đòi nợ trong quy định pháp luật Việt Nam”, tác giả tập trung nghiên cứu làm
rõ những vấn đề sau đây:
Thứ nhất, sẽ cung cấp được cái nhìn tổng thể về các quy định của pháp luật
hiện hành về thế chấp quyền đòi nợ, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý của thế
chấp quyền đòi nợ trong quy định pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, qua tìm hiểu, phân tích, so sánh sẽ thấy được những bất cập, vướng
mắc về thế chấp quyền đòi nợ trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Thứ ba, qua việc thấy được những bất cập của pháp luật Việt Nam, thấy
được thực tiễn áp dụng pháp luật trên thực tế, cũng như tiếp thu ý kiến của các nhà
nghiên cứu và học hỏi kinh nghiệm từ pháp luật nước ngoài, tác giả sẽ đưa ra những
giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật, từ
đó góp phần thúc đẩy giao dịch này trong tương lai.


4


4. Phạm vi nghiên cứu
Dựa vào cơ sở lý luận, tính cấp thiết của đề tài và các giải pháp góp phần
hồn thiện các quy định của pháp luật nhằm thúc đẩy giao dịch thế chấp quyền đòi
nợ trong tương lai, đề tài “Thế chấp quyền đòi nợ theo quy định pháp luật Việt
Nam” tập trung nghiên cứu hai nội dung chính: (1) Những vấn đề lý luận và pháp
luật về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam, (2) Vướng mắc trong các
quy định của pháp luật, trong thực tiễn áp dụng và giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Trong mỗi nội dung, tác giả đã nghiên cứu từng vấn đề trong các quy định của pháp
luật, bao gồm Bộ luật Dân sự năm 1995, Bộ luật Dân sự năm 2005, Bộ luật Dân sự
năm 2015, Bộ luật Dân sự Nhật Bản, Bộ luật dân sự Pháp, các văn bản hướng dẫn
thi hành như Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính
phủ về giao dịch bảo đảm, Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22 tháng 02 năm
2012 của Chính phủ về sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm,
Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 03 năm 2021 của Chính phủ về quy
định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ, Thông tư số
08/2018/TT-BTP của Bộ Tư pháp ngày 20 tháng 6 năm 2018 hướng dẫn về đăng
ký, cung cấp thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về
đăng ký biện pháp bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục Đăng
ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp... và đặt trong mối tương quan với
các văn bản pháp luật hiện hành như Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm
2010, Luật các tổ chức tín dụng năm 2010, Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi năm
2017, Luật phá sản năm 2014...
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài khóa luận tốt nghiệp này, tác giả đã sử dụng phối hợp các
phương pháp nghiên cứu sau đây:
Ở Chương 1, tác giả sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp. Với việc

phân chia cái toàn bộ ra thành từng bộ phận để đi sâu vào từng vấn đề, phân tích là
một phương pháp rất cần thiết cho một cơng trình nghiên cứu khoa học. Với
phương pháp này, tác giả đã phân chia thế chấp quyền đòi nợ thành nhiều nội dung
khác nhau để có thể đi sâu hơn làm rõ những vấn đề lý luận của loại giao dịch này.
Tổng hợp là phương pháp liên kết, thống nhất các bộ phận đã được phân tích nhằm
5


nhận thức cái tồn bộ, sau khi đã phân tích các nội dung, tác giả sẽ tổng hợp lại
những vấn đề đã được nghiên cứu, bình luận nhằm rút ra được một kết luận chung
cho vấn đề cần nghiên cứu. Ngồi ra, tác giả cịn sử dụng phương pháp so sánh
trong việc so sánh với Bộ luật Dân sự Pháp, Bộ luật Dân sự Nhật Bản để thấy được
những điểm khác biệt, những điểm hạn chế của pháp luật Việt Nam cũng như
những điểm tiến bộ của pháp luật nước ngồi mà Việt Nam có thể học hỏi và áp
dụng.
Ở Chương 2, bên cạnh việc sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp để làm
rõ những vướng mắc, bất cập của thế chấp quyền đòi nợ. Tác giả còn sử dụng
phương pháp thống kê với mục đích thu thập các ý kiến, quan điểm của các nhà
nghiên cứu khoa học, giúp cho tác giả tiếp cận được nhiều khía cạnh, góc nhìn của
những nhà nghiên cứu này về nội dung xử lý thế chấp quyền đòi nợ, các phương
thức xử lý thế chấp quyền địi nợ, và giải pháp hồn thiện pháp luật về giao dịch
này.
6. Cấu trúc đề tài
Nhằm thể hiện nội dung của đề tài một cách có hệ thống và khoa học, tác giả
đã xây dựng bố cục của khóa luận theo trình tự như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ theo
pháp luật Việt Nam.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về thế chấp quyền đòi nợ ở Việt Nam và giải
pháp hoàn thiện.


6


Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THẾ CHẤP QUYỀN ĐÒI
NỢ THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM
1.1. Khái quát chung về thế chấp quyền đòi nợ theo pháp luật Việt Nam
1.1.1. Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ
 Khái niệm quyền địi nợ
Hiểu nơm na quyền địi nợ là quyền yêu cầu trả nợ, người có quyền này có
quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ thanh tốn một khoản tiền hay vật nào đó.
Quyền địi nợ vừa là mối quan hệ về mặt pháp luật, đồng thời lại là một loại tài sản.
Dưới góc độ của pháp luật về nghĩa vụ dân sự, quyền đòi nợ là quyền yêu
cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện một công việc quy định tại Điều 281 Bộ luật
Dân sự năm 2015 (BLDS năm 2015). Bên có nghĩa vụ phải thanh tốn một khoản
tiền cho bên có quyền tại một thời điểm mà hai bên thỏa thuận rõ trong hợp đồng.
Bên có quyền chỉ có thể yêu cầu việc thanh tốn này từ phía có nghĩa vụ trả tiền chứ
không thể yêu cầu một bên thứ ba nào khác, bởi lẽ đây chỉ là mối quan hệ giữa bên
có quyền và bên có nghĩa vụ trả nợ mà thơi1.
Dưới góc độ của pháp luật về tài sản, quyền địi nợ là một loại quyền tài sản
quy định tại Điều 115 BLDS năm 2015 là một trong bốn loại tài sản được quy định
tại Điều 105 BLDS năm 2015. Như vậy, quyền đòi nợ là một loại tài sản.
Mặc dù BLDS năm 2015 không giữ lại quy định về bảo đảm bằng quyền tài
sản (liệt kê các quyền tài sản được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự)
như quy định tại Điều 322 của Bộ luật Dân sự năm 2005 (BLDS năm 2005) nhưng
sang đến BLDS năm 2015, đối tượng được sử dụng để bảo đảm được khẳng định tại
Điều 295 BLDS năm 2015 theo hướng là “tài sản”. Nghĩa là bất kỳ tài sản nào cũng
có thể được sử dụng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự, trong khi đó quyền địi
nợ cũng là một quyền tài sản nên quyền địi nợ hồn toàn được sử dụng để bảo đảm
thực hiện nghĩa vụ dân sự theo BLDS năm 2015.


1

Bùi Đức Giang (2013), “Khoảng trống pháp luật về quyền địi nợ”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 08,
tr. 33.

7


Mặt khác theo điểm c khoản 7 Điều 6 của Thông tư 08/2018/TT-BTP của Bộ
Tư pháp ngày 20 tháng 6 năm 2018 hướng dẫn một số vấn đề về đăng ký, cung cấp
thông tin về biện pháp bảo đảm, hợp đồng và trao đổi thông tin về đăng ký biện
pháp bảo đảm tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia
giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp (Thông tư 08/2018/TT-BTP) quy định các
quyền tài sản theo quy định tại Điều 115 BLDS 2015, trừ quyền sử dụng đất thì có
quyền địi nợ. Nghĩa là ở đây quyền đòi nợ cũng được coi là một quyền tài sản và là
tài sản được đăng ký biện pháp bảo đảm tại Trung tâm Đăng ký khi có u cầu.
Quyền địi nợ là một quyền dân sự của các chủ thể được pháp luật Việt Nam
công nhận và bảo vệ. Quyền đòi nợ này phát sinh từ các hợp đồng mua bán hàng
hóa, hợp đồng xây dựng cơng trình, hợp đồng cho th,... sau khi đã hồn thành
nghĩa vụ của mình như giao đủ số lượng, đúng chất lượng hàng hóa, đã xây dựng
xong cơng trình, hay cho th nhà,... sẽ có quyền địi nợ bên cịn lại, tức là bên có
nghĩa vụ trả nợ, đó là các khoản tiền mua hàng hóa, khoản tiền trả cho việc đã hồn
thành xây dựng cơng trình hay khoản tiền thuê nhà hằng tháng, hằng năm. Quyền
đòi nợ này là số tiền mà bên bán hàng có quyền nhận được từ bên mua hàng theo
các hợp đồng mua bán hàng hóa hay cung ứng dịch vụ. Đây cũng chính là khoản
phải thu của các cá nhân hay doanh nghiệp đang bị các tổ chức hoặc cá nhân khác
chiếm giữ mà bản thân doanh nghiệp đó phải có trách nhiệm thu hồi. Do đó quyền
địi nợ này là một tài sản vơ hình và việc thực thi quyền đối với tài sản này trước hết
phải dựa trên các căn cứ về hợp đồng nơi các tài sản này phát sinh.

Đây thực chất là một quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân, loại tài sản này
chiếm tỉ trọng ngày càng cao trong tài sản của các chủ thể của quan hệ pháp luật
dân sự. Theo đó, các chủ thể này được sử dụng quyền đòi nợ để yêu cầu các chủ thể
khác trả tài sản phát sinh từ hợp đồng hoặc theo quy định của pháp luật cho mình.
Quyền địi nợ có đối tượng là một khoản nợ, tức là một khoản tiền và khoản tiền
này sẽ được thanh toán vào một thời điểm nhất định trong tương lai. Người sở hữu
quyền này sẽ có quyền yêu cầu người có nghĩa vụ trả nợ phải thực hiện một nghĩa
vụ tài sản với bên có quyền. Ngược lại, bên có nghĩa vụ trả nợ phải có nghĩa vụ
thực hiện một nghĩa vụ tài sản với bên có quyền của mình, tức là chủ sở hữu của
khoản nợ.

8


Về mặt cấu trúc kỹ thuật, quyền địi nợ hình thành từ ba yếu tố: Trái chủ (chủ
thể có quyền), thụ trái (chủ thể có nghĩa vụ) và đối tượng là khoản nợ2. Cho đến
hiện nay, pháp luật thực định chưa đưa ra được một định nghĩa cụ thể về quyền đòi
nợ. Trước đây điểm d tiểu mục 1.1 mục 1 Phần 1 Thông tư số 04/2007/TT-BTP
ngày 17 tháng 05 năm 2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về thẩm quyền, trình tự, thủ
tục đăng ký, cung cấp thơng tin về hợp đồng mua trả chậm, trả dần, hợp đồng thuê
tài sản, hồ sơ cho thuê tài chính và hợp đồng chuyển giao đã định nghĩa quyền đòi
nợ theo hướng liệt kê gồm quyền đòi nợ phát sinh từ hợp đồng vay, hợp đồng mua
bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ hoặc phát sinh từ các căn cứ hợp pháp
khác. Tuy nhiên, danh sách này sau đó đã bị hủy bỏ theo Thông tư số 05/2011/TTBTP ngày 16 tháng 02 năm 2011 của Bộ Tư pháp hướng dẫn một số vấn đề về đăng
ký, cung cấp thông tin về giao dịch bảo đảm, hợp đồng, thông báo việc kê biên tài
sản thi hành án theo phương thức trực tiếp, bưu điện, fax, thư điện tử tại Trung tâm
Đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm thuộc Bộ
Tư pháp. Đến khi Thông tư số 08/2018/TT-BTP được ban hành, điểm c khoản 7
Điều 6 đã quy định quyền đòi nợ được coi là quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng
mua bán nhà ở, hợp đồng góp vốn xây dựng nhà ở, hợp đồng hợp tác đầu tư, hợp

đồng kinh doanh nhà ở, hợp đồng cho thuê, hợp đồng cho thuê mua nhà ở (bao gồm
cả nhà ở xã hội) giữa tổ chức với cá nhân hoặc giữa tổ chức, cá nhân với doanh
nghiệp kinh doanh bất động sản trong dự án xây dựng nhà ở theo quy định của pháp
luật về nhà ở. Việc quy định quyền đòi nợ theo hướng liệt kê như trên là chưa đầy
đủ vì quyền địi nợ khơng chỉ bó hẹp trong các giao dịch mua bán, dịch vụ, thuê tài
sản, kinh doanh bất động sản. Chính vì vậy mà đây là điểm thiếu sót của pháp luật,
làm cho các chủ thể chưa nhận thức đúng về bản chất pháp lý của quyền tài sản này,
dẫn đến chưa thúc đẩy được giao dịch này trong tương lai.
Tóm lại, qua những cơ sở lý luận đã phân tích ở trên thì chúng ta có thể rút ra
được khái niệm quyền đòi nợ như sau: Là một quyền dân sự của chủ thể, bên có
quyền được quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ thực hiện một nghĩa vụ tài sản
với mình.
 Khái niệm thế chấp tài sản

2

Lê Trọng Dũng (2020), “Điều kiện để quyền đòi nợ được làm tài sản thế chấp theo pháp luật Việt Nam”,
Tạp chí Kiểm sát, số 20, tr. 33.

9


“Thế chấp” là một từ có nguồn gốc Hán – Việt: “Thế là bỏ đi, thay cho” còn
“Chấp là cầm, giữ, bắt”3. Từ điển tiếng Việt giải thích: “Thế chấp [tài sản] dùng làm
vật bảo đảm, thay thế cho số tiền vay nếu khơng có khả năng trả đúng kì hạn”4, hay
thế chấp là “Đem ra làm tin để vay mượn (Thế chấp nhà cửa để vay tiền ngân
hàng).”5. Xuất phát từ ngữ nghĩa cơ bản của từ “thế chấp” như trên, có thể hiểu thế
chấp là một cách thức mà bên có quyền và bên có nghĩa vụ đã lựa chọn để bảo đảm
cho việc thực hiện nghĩa vụ thông qua một tài sản, giá trị của tài sản này có khả
năng thay thế cho nghĩa vụ bị vi phạm.

Thế chấp là một biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự đã xuất hiện
từ thời La Mã cổ đại. Theo các học giả La Mã, Luật về cầm cố và thế chấp là luật
thứ hai xuất hiện sau Luật về quyền dụng ích.
Khái niệm thế chấp trong BLDS năm 2005 và BLDS năm 2015 về cơ bản
không có sự thay đổi. Theo khoản 1 Điều 317 BLDS năm 2015 thì “Thế chấp tài
sản là việc một bên (sau đây gọi là bên thế chấp) dùng tài sản thuộc sở hữu của
mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia (sau đây gọi
là bên nhận thế chấp).” Khái niệm trên cho thấy BLDS năm 2015 tiếp cận thế chấp
dưới giác độ là một giao dịch dưới dạng hợp đồng dựa trên cơ sở nền tảng của lý
thuyết trái quyền, bởi chúng được sắp xếp nằm trong phần “nghĩa vụ và hợp đồng”,
tuy nhiên đặc điểm vật quyền trong quan hệ thế chấp cũng được thể hiện thông qua
quy định về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Điều 298 BLDS năm 2015.6
Về khái niệm thế chấp khi so sánh với pháp luật Anh và nhiều nước theo hệ
thống tiền án lệ, ta thấy có những điểm khác biệt là biện pháp bảo đảm thế chấp có
hay khơng việc chuyển giao quyền sở hữu. Pháp luật Việt Nam theo hướng không
phải chuyển giao quyền sở hữu. Trong khi đó pháp luật Anh và nhiều nước theo hệ
thống án lệ theo hướng chuyển giao quyền sở hữu, họ cho rằng thế chấp là một hình
thức chuyển giao quyền sở hữu, thường sẽ có hiệu lực vào ngày thế chấp, dưới hình
thức bảo đảm cho nghĩa vụ hoàn trả khoản vay. Việc chuyển giao quyền sở hữu này
thường được quy định trong hợp đồng với một điều kiện là quyền sở hữu sẽ được
3

Đào Duy Anh (2000), Từ điển Hán - Việt, Nxb. Khoa học xã hội, tr.129, tr. 788.
Viện Ngôn ngữ (2000), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, tr. 934.
5
Nguyễn Văn Xô (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Thanh niên, tr. 675.
6
Vũ Thị Hồng Yến (2017), Tài sản thế chấp và xử lý tài sản thế chấp theo quy định của Bộ luật dân sự năm
2015, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, tr. 16.
4


10


chuyển giao trả lại cho bên vay khi bên vay hồn thành nghĩa vụ hồn trả khoản vay
(lãi nếu có) và tương tự bên cho vay sẽ phải trả lại quyền sở hữu tài sản cho bên vay
khi bên vay đã hồn trả đầy đủ.
Bên cạnh đó khi so sánh các quyền và nghĩa vụ cơ bản trong một quan hệ thế
chấp, ta thấy có những điểm giống và khác nhau với Bộ luật Dân sự Pháp và Bộ
luật Dân sự Nhật Bản. Điều 2114 Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “Thế chấp là một
quyền tài sản đối với bất động sản được dùng để đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ”.
Cùng với quan điểm đó, Điều 369 Bộ luật Dân sự của Nhật Bản cũng quy định:
“Người nhận thế chấp có quyền ưu tiên so với các chủ nợ khác trong việc đáp ứng
yêu cầu của mình từ bất động sản mà bên nợ hoặc người thứ ba đưa ra như là một
biện pháp bảo đảm trái vụ và khơng chuyển giao quyền chiếm hữu nó”.
Điểm giống nhau ở chỗ tài sản thế chấp không phải chuyển giao cho bên
nhận thế chấp, bên thế chấp vẫn có quyền sở hữu đối với tài sản, có quyền xử lý tài
sản thế chấp nếu đến hạn mà nghĩa vụ được bảo đảm có sự vi phạm. Điểm khác
nhau cơ bản sau đây: Thứ nhất, theo khoản 8 Điều 320 BLDS năm 2015 thì bên thế
chấp khơng có quyền bán tài sản thế chấp nếu khơng có sự đồng ý của bên nhận thế
chấp (trừ hàng hóa luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh). Trong khi
Điều 380 Bộ luật Dân sự Nhật Bản, bên thế chấp có quyền bán tài sản thế chấp ngay
cả khi khơng có sự đồng ý của bên nhận thế chấp. Thứ hai, khoản 5 Điều 323 BLDS
năm 2015 cho phép bên nhận thế chấp có quyền xử lý tài sản thế chấp nhưng lại phụ
thuộc vào bên thế chấp có tự nguyện giao tài sản để xử lý hay không, nếu bên thế
chấp không tự nguyện giao tài sản thì bên nhận thế chấp chỉ có thể khởi kiện ra Tịa
án, u cầu Tịa án giải quyết. Trong khi đó Điều 2170 của Bộ luật Dân sự Pháp và
Điều 2171 của Bộ luật Dân sự Nhật Bản cho phép bên nhận thế chấp có quyền kê
biên đối với tài sản thế chấp mà không cần có sự đồng ý của bên thế chấp nếu đã có
hành vi vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm. Thứ ba, khoản 4 Điều 323 BLDS năm

2015 của Việt Nam quy định đăng ký thế chấp vừa là thủ tục bắt buộc, vừa là thủ
tục tự nguyện. Đăng ký sẽ là căn cứ để làm phát sinh hiệu lực của hợp đồng thế
chấp nếu pháp luật có quy định và cũng sẽ là căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên
thanh toán giữa các bên cùng nhận thế chấp. Trong khi đó theo Điều 2146, 2166 Bộ
luật Dân sự Pháp thì đăng ký thế chấp được coi là thủ tục bắt buộc, là một trong các

11


căn cứ để xác định thứ tự ưu tiên giữa bên nhận thế chấp tài sản với các chủ thể
khác.7
Như vậy, biện pháp bảo đảm thế chấp trong BLDS năm 2015 mang cả yếu tố
trái quyền và vật quyền. Điều này khác với hệ thống pháp luật về giao dịch bảo đảm
của các nước Pháp, Nhật Bản, Nga đều theo chủ thuyết vật quyền, đảm bảo quyền
lợi cho bên nhận thế chấp nhiều hơn. Theo tác giả, pháp luật dân sự Việt Nam cần
làm rõ yếu tố này để quy định pháp luật rõ ràng hơn cũng như có những quy chế để
bảo vệ tốt hơn quyền lợi cho bên nhận thế chấp, và là biện pháp răn đe với bên thế
chấp, cần cân nhắc kĩ trước khi kí hợp đồng giao dịch.
 Khái niệm thế chấp quyền đòi nợ
Quyền đòi nợ là một quyền tài sản, mà quyền tài sản này cũng thuộc vào bốn
loại tài sản theo Điều 105 BLDS năm 2015, nên quyền tài sản này cũng sẽ được sử
dụng để làm tài sản bảo đảm theo Điều 295 BLDS năm 2015. Bên cạnh đó Điều 14
Nghị định số 21/2021/NĐ-CP ngày 19 tháng 03 năm 2021 của Chính phủ về quy
định thi hành Bộ luật Dân sự về bảo đảm thực hiện nghĩa vụ (Nghị định số
21/2021/NĐ-CP) cũng đã khẳng định rõ, quyền đòi nợ là một quyền tài sản phát
sinh từ hợp đồng, và tài sản này được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Thế chấp quyền đòi nợ là giao dịch bảo đảm duy nhất đối với quyền đòi nợ
được pháp luật Việt Nam thừa nhận tại Điều 22 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP
ngày 29 tháng 12 năm 2006 của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (Nghị định số
163/2006/NĐ-CP) và Điều 33 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP. Khác với một số quốc

gia trên thế giới lại dùng biện pháp cầm cố để áp dụng cho quyền tài sản nói chung
và quyền địi nợ nói riêng. “Như ở Liên Bang Nga tồn tại loại hình cầm cố gọi là
cầm cố doanh nghiệp và tài sản cầm cố trong trường hợp này bao gồm toàn bộ tài
sản trên bảng tổng kết, bao gồm cả tài sản cố định, lưu động, các tài sản khác, toàn
bộ các khoản nợ và các quyền đối với con nợ của doanh nghiệp”8. Hay tại Bộ luật
Dân sự Nhật Bản, đối tượng của cầm cố có thể là tài sản và quyền tài sản (Điều 343,
362 Bộ luật Dân sự Nhật Bản). Cầm cố các quyền có thể thực hiện đối với các nghĩa
vụ, quyền cổ đông và các quyền khác. Trong khi đó phạm vi các loại vật sản có thể
7

Vũ Thị Hồng Yến, tlđd (5), tr. 17-18.
Lê Thị Thu Thủy (2006), Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản của các tổ chức tín dụng, Nxb.
Thành phố, tr. 122.
8

12


là đối tượng của thế chấp bị hạn chế ở các tài sản mà pháp luật quy định phải đăng
ký hoặc các phương pháp công khai khác9.
Trong hệ thống pháp luật của nước ta thì trước đây, Bộ luật Dân sự năm
1995 và Nghị định số 165/1999/NĐ-CP ngày 19 tháng 11 năm 1999 của Chính phủ
về giao dịch bảo đảm đã áp dụng chế độ cầm cố cho quyền đòi nợ. Đến khi BLDS
năm 2005 ra đời thì tiêu chí để phân biệt cầm cố và thế chấp khơng cịn ở chỗ là
động sản hay bất động sản nữa mà phụ thuộc vào việc có chuyển giao hay khơng
chuyển giao tài sản bảo đảm, nên BLDS năm 2005 đã thay thế biện pháp bảo đảm
cho quyền đòi nợ từ cấm cố sang thế chấp.
Mặc dù cầm cố và thế chấp có những điểm tương đồng như đều tồn tại dưới
hình thức hợp đồng, chỉ xử lý tài sản cầm cố, thế chấp khi bên có nghĩa vụ khơng
thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận trong hợp đồng. Nếu đặt quyền lợi của bên

nhận bảo đảm lên trên thì biện pháp cầm cố có vẻ an tồn hơn vì bên nhận cầm cố
sẽ trực tiếp chiếm giữ tài sản bảo đảm, nên nếu bên vay khơng thanh tốn được
khoản nợ thì bên cho vay đã có tài sản bảo đảm trong tay để xử lý thu hồi nợ.
Ngược lại, bên nhận cầm cố cũng có gánh nặng khi phải có trách nhiệm đối với sự
mất mát, hư hỏng của tài sản bảo đảm. Trong khi đó, biện pháp thế chấp thuận tiện
cho bên nhận thế chấp hơn khi bên thế chấp không phải giao tài sản cho bên nhận
thế chấp, vì thế mà bên nhận thế chấp khơng phải có trách nhiệm trơng coi, bảo
quản, hay giữ gìn tài sản thế chấp. Theo tác giả, trên thực tế khi Tòa án giải quyết
các vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng đều theo hướng thế chấp quyền địi nợ là
phù hợp. Thứ nhất, do quyền đòi nợ là một tài sản vơ hình, khơng nhìn thấy, cầm
nắm được nên không thể chuyển giao về mặt vật chất (đây là yếu tố để phân biệt
cầm cố và thế chấp từ BLDS năm 2005, theo đó cầm cố thì phải chuyển giao tài sản
bảo đảm cịn thế chấp thì khơng phải chuyển giao tài sản bảo đảm), và do đó quyền
địi nợ không thể trở thành đối tượng của cầm cố được. Thứ hai, bên nhận thế chấp
không thể chiếm hữu được chúng vì trong giao dịch bảo đảm, bên thế chấp thường
chỉ giao các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của bên thế chấp với khoản nợ đó,
mặt khác trong quá trình thế chấp, bên thế chấp vẫn là bên có quyền, nắm giữa tài
sản đó, vậy nên vẫn được tiếp tục khai thác, sử dụng quyền tài sản này. Thứ ba, theo
quy định của BLDS năm 2015, tài sản thế chấp bao gồm bất động sản và động sản.
9

Viện nghiên cứu khoa học pháp lý (Bộ Tư pháp) (1995), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự Nhật Bản, Nxb.
Chính trị quốc gia, tr. 289, tr. 301.

13


Chính vì vậy, thế chấp là biện pháp bảo đảm cho quyền đòi nợ là hợp lý và thuyết
phục. Theo tác giả, đây cũng là điểm cịn thiếu sót của BLDS năm 2015 khi chưa có
quy định cụ thể, rõ ràng về biện pháp bảo đảm cho quyền đòi nợ.

Pháp luật hiện tại không đưa ra khái niệm thế chấp quyền đòi nợ, tuy nhiên
qua những cơ sở lý luận, phân tích cũng như so sánh ở trên, ta có thể rút ra khái
niệm thế chấp quyền đòi nợ như sau: Thế chấp quyền đòi nợ là việc một bên (bên
thế chấp) dùng tài sản là quyền đòi nợ thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự đối với bên kia (bên nhận thế chấp) và khơng chuyển giao quyền
địi nợ đó cho bên nhận thế chấp.
1.1.2. Đặc điểm thế chấp quyền đòi nợ
Thứ nhất, thế chấp quyền đòi nợ là loại quan hệ liên quan đến ít nhất ba chủ
thể.
Đây là loại quan hệ đặc biệt, liên quan đến ba chủ thể gồm bên thế chấp, bên
nhận thế chấp và bên có nghĩa vụ trả nợ. Bên thế chấp là bên có nhu cầu vay một
khoản tiền, cũng chính là bên có quyền, chủ sở hữu của khoản nợ của bên có nghĩa
vụ trả nợ. Bên nhận thế chấp là các cá nhân, tổ chức đồng ý cho bên thế chấp vay.
Bên có nghĩa vụ trả nợ là bên nợ bên thế chấp (bên có quyền) một khoản tiền. Giữa
ba chủ thể này tồn tại ba mối quan hệ, quan hệ giữa bên thế chấp với bên nhận thế
chấp; quan hệ giữa bên thế chấp với bên có nghĩa vụ trả nợ; quan hệ giữa bên có
nghĩa vụ trả nợ với bên nhận thế chấp.
Thứ hai, biện pháp thế chấp quyền đòi nợ mang tính chất bổ sung và dự
phịng cho nghĩa vụ chính.
So với việc cho vay khơng có thế chấp bảo đảm thì bên cho vay nào cũng sẽ
ưu tiên lựa chọn cho vay có bảo đảm hơn. Vì phương thức này sẽ góp phần bảo đảm
an tồn cho bên nhận thế chấp, ổn định nguồn tiền cho chủ thể này. Đây sẽ là nguồn
thu dự phòng, đảm bảo cho khoản vay của bên nhận thế chấp, một khi bên thế chấp
không hồn thành được nghĩa vụ trả nợ của mình thì bên nhận thế chấp sẽ tiến hành
xử lý quyền đòi nợ này để bù trừ cho nghĩa vụ của bên thế chấp. Nghĩa vụ chính của
bên thế chấp vẫn là thanh toán khoản tiền mà bên thế chấp đã vay của bên nhận thế

14



chấp. Vậy nên biện pháp xử lý tài sản thế chấp vẫn là một biện pháp thứ cấp, mang
tính chất bổ sung và dự phịng cho nghĩa vụ chính.
Thứ ba giao dịch thế chấp quyền địi nợ phát sinh thơng qua sự thỏa thuận
giữa các bên.
Tôn trọng sự thỏa thuận của các bên được coi là nguyên tắc cơ bản và xuyên
suốt trong quá trình xác lập, thực hiện và xử lý hợp đồng thế chấp quyền đòi nợ.
BLDS năm 2015 nói riêng và pháp luật Việt Nam nói chung luôn đề cao sự thỏa
thuận giữa các bên, để nâng cao khả năng tự do ý chí thiết lập hợp đồng, cũng như
khuyến khích các bên hợp tác làm ăn thiện chí với nhau. Mặc dù hợp đồng thế chấp
quyền đòi nợ hầu hết do bên nhận thế chấp soạn, tuy nhiên cũng khơng vì thế mà
triệt tiêu yếu tố tự do thỏa thuận ở đây. Bởi lẽ, các bên vẫn được trao đổi, và thống
nhất ý kiến sau cùng trước khi đi đến ký kết hợp đồng. Mặt khác, các bên cần đề
cao sự thỏa thuận này để tránh nguy cơ hợp đồng bị vô hiệu do bị lừa dối, đe dọa,
cưỡng ép. Nếu điều này xảy ra, hợp đồng sẽ không được thực hiện, ảnh hưởng rất
lớn đến quyền lợi của các chủ thể, nhất là bên nhận thế chấp, bởi lẽ lúc này hợp
đồng vay có bảo đảm trở thành hợp đồng khơng có bảo đảm.
Thứ tư, mục đích của thế chấp quyền địi nợ là nâng cao trách nhiệm của các
bên trong quan hệ nghĩa vụ thanh toán tiền vay.
Để nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của bên thế chấp trong việc hoàn trả
khoản vay thì việc thế chấp quyền địi nợ là biện pháp cần thiết và hữu hiệu. Nếu
như bên thế chấp không muốn mất quyền sở hữu với khoản nợ này thì bên thế chấp
cần phải trả nợ đúng hạn và đầy đủ. Nếu khơng hồn thành được, bên thế chấp sẽ bị
ảnh hưởng quyền lợi. Thậm chí trong một số trường hợp bên thế chấp có khó khăn
về tài chính thì khoản tiền này sẽ đóng vai trị quan trọng cho bên thế chấp phục hồi
tài chính, tiếp tục kinh doanh, ổn định nội bộ, từ đó mới có thể sinh lợi nhuận, hồn
thành nghĩa vụ chính cho bên nhận thế chấp. Mặc dù đã có cam kết thực hiện,
nhưng một khi khơng có sự hợp tác, tự nguyện thực hiện nghĩa vụ hay có sự khó
khăn về tài chính thì rất khó để bên nhận thế chấp được nhận lại khoản tiền đã cho
vay. Nhưng với việc bị gây áp lực, đe dọa xử lý tài sản thế chấp, trách nhiệm của
bên thế chấp sẽ được nâng cao.

1.1.3. Phân loại quyền đòi nợ
15


Khoản 2 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP của Chính phủ về sửa đổi, bổ
sung một số điều của Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 12 năm 2006
của Chính phủ về giao dịch bảo đảm (Nghị định số 11/2012/NĐ-CP), khoản 1 Điều
8 Nghị định số 21/2021/NĐ-CP quy định tài sản bảo đảm gồm tài sản hiện có và tài
sản hình thành trong tương lai.
Thứ nhất là quyền địi nợ hiện có và quyền địi nợ hình thành trong tương lai.
Quyền địi nợ hiện có, là một khoản nợ sẽ được thanh toán vào một thời điểm
nhất định trong tương lai hoặc khi xảy ra sự kiện pháp lý trong tương lai theo quy
định tại hợp đồng hoặc thỏa thuận giữa các bên hoặc theo quy định của pháp luật.
Một khoản nợ sẽ được thanh toán trong tương lai theo quy định tại một hợp đồng đã
được ký kết là một quyền địi nợ hiện tại.
Quyền địi nợ hình thành trong tương lai, được hiểu là một loại tài sản hình
thành trong tương lai, theo khoản 2 Điều 1 Nghị định số 11/2012/NĐ-CP thì tài sản
hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất, gồm: (i) Tài sản được
hình thành từ vốn vay, (ii) Tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được
tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm, (iii) Tài sản đã hình
thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết
giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật. Có
thể thấy các tài sản hình thành trong tương lai này chỉ hướng đến các tài sản hữu
hình, chưa bao quát hết các loại tài sản có thể coi là tài sản tương lai, đặc biệt là các
quyền tài sản mà cụ thể hơn là quyền đòi nợ. Nếu dựa vào danh sách này cũng
khơng thể xác định được một quyền địi nợ nào đó có phải là quyền địi nợ trong
tương lai.
Việc thế chấp một quyền địi nợ hình thành trong tương lai làm tài sản bảo
đảm trên thực tế là rất khó và nhiều trở ngại. Bởi lẽ thực chất quyền đòi nợ trong
tương lai vẫn chưa trở thành tài sản của bên thế chấp. Quyền địi nợ này có thể còn

chưa phát sinh do giao dịch, hay sự kiện pháp lý có thể làm phát sinh quyền địi nợ
cịn chưa diễn ra. Chẳng hạn như đối với một công ty hàng không, thu nhập từ việc
bán các vé máy bay hiện còn chưa được bán nhưng sắp được bán là các quyền địi
nợ hình thành trong tương lai vì giao dịch bán chưa diễn ra. Các khoản phí thu
tương lai là các khoản phải thu phát sinh từ các hợp đồng với khách hàng của doanh

16


nghiệp mà các hợp đồng này còn chưa được ký kết10. Hoặc cũng có thể quyền địi
nợ tương lai đã tồn tại nhưng chưa thuộc tài sản của bên thế chấp.
Để đảm bảo quyền lợi cho bên nhận thế chấp, cũng như tránh khỏi những bất
cập, tranh cãi trong quá trình xác lập hợp đồng và xử lý tài sản bảo đảm, tác giả
nghĩ rằng thế chấp quyền đòi nợ hình thành trong tương lai nên được hiểu theo điểm
b khoản 2 Điều 108 BLDS 2015, khi đã có một số thông tin cụ thể, chứng minh
được tài sản này đang trong giai đoạn hoàn thành và chủ sở hữu có quyền với tài
sản đó.
Thứ hai là quyền địi nợ có kỳ hạn và quyền địi nợ có điều kiện
Quyền địi nợ có kỳ hạn theo Điều 282 BLDS năm 2015 khơng phải là một
quyền địi nợ tương lai, mà đó là một quyền địi nợ hiện tại. Ví dụ trong các trường
hợp thuê nhà để ở, để kinh doanh,... quyền đòi nợ đối với khoản tiền hàng tháng mà
bên cho thuê nhận được từ bên thuê là quyền đòi nợ có kỳ hạn. Bởi lẽ quyền địi nợ
này đã phát sinh từ một hợp đồng đã được xác lập, duy chỉ có quyền địi nợ đến hạn
là diễn ra trong tương lai mà thôi.
So với Điều 292 BLDS năm 2005, BLDS năm 2015 đã bổ sung quy định
nghĩa vụ dân sự được thực hiện theo định kỳ không chỉ theo thỏa thuận của các bên,
pháp luật có quy định mà cịn theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền.
Quyền địi nợ có điều kiện xảy ra khi sự kiện pháp lý làm phát sinh nghĩa vụ,
chính là điều kiện mà các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng phát sinh thì bên có
nghĩa vụ phải thực hiện. Điều kiện này chưa phát sinh tại thời điểm xác lập giao

dịch, cũng có thể khơng bao giờ phát sinh nên về ngun tắc có thể thấy quyền địi
nợ có điều kiện là một quyền đòi nợ tương lai. “Chẳng hạn, quyền đòi nợ phát sinh
từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ vừa là một quyền địi nợ có kì hạn (trong trường
hợp người được bảo hiểm còn sống khi hết thời hạn quy định trong hợp đồng), vừa
là một quyền địi nợ có điều kiện (trong trường hợp người được bảo hiểm chết trong
thời hạn quy định trong hợp đồng). Do việc người được bảo hiểm chết vốn là sự
kiện pháp lý có khả năng làm phát sinh quyền địi nợ bảo hiểm còn chưa diễn ra vào
thời điểm sử dụng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ làm tài sản thế chấp để bảo đảm

10

Bùi Đức Giang, tlđd (1), tr. 35.

17


khoản vay chẳng hạn, nên quyền địi nợ có điều kiện là một quyền đòi nợ tương
lai.”11
So với Điều 294 BLDS năm 2005 thì Điều 284 BLDS năm 2015 đã bổ sung
thêm quy định mới dẫn chiếu tới khoản 2 Điều 120 BLDS năm 2015, theo đó nếu
như điều kiện làm phát sinh hoặc hủy bỏ giao dịch dân sự không thể xảy ra được do
hành vi cố ý cản trở trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên thì coi như điều kiện đó đã
xảy ra, cịn nếu trường hợp có sự tác động trực tiếp hoặc gián tiếp của một bên cố ý
thúc đẩy cho điều kiện xảy ra thì coi như điều kiện đó khơng xảy ra. Điều này là
hợp lý và thuyết phục bởi lẽ một số chủ thể có thể sẽ lợi dụng vào điều kiện phát
sinh của quyền địi nợ có điều kiện này để cố tìm cách ngăn cản khơng cho điều
kiện phát sinh hoặc tác động làm cho điều kiện phát sinh, dẫn đến ảnh hưởng quyền
lợi cho các bên trong giao dịch.
1.1.4. Ý nghĩa thế chấp quyền đòi nợ
Với những ưu điểm nổi trội, biện pháp bảo đảm thế chấp quyền đòi nợ mang

lại ý nghĩa rất lớn cho sự lớn mạnh của các cá nhân, doanh nghiệp nói riêng và kinh
tế đất nước nói chung.
Thế chấp quyền địi nợ cho phép bên thế chấp được khai thác giá trị của tài
sản bảo đảm, đáp ứng nhu cầu sử dụng vốn cho kinh doanh. Với sự phát triển ngày
càng nhanh chóng, cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch, tài sản vơ hình chiếm ngày
càng lớn trong khối tài sản của các doanh nghiệp. Việc cho phép quyền đòi nợ
(quyền tài sản) được làm tài sản thế chấp đã đáp ứng nhu cầu về vốn cho kinh
doanh, sản xuất của các chủ thể. Mặt khác, với bản chất pháp lý không giao tài sản
cho bên nhận thế chấp, bên thế chấp vẫn có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản này,
nhờ vậy mà bên thế chấp vẫn sẽ khai thác được công dụng của tài sản này để phục
vụ tốt hơn cho nhu cầu kinh doanh của mình.
Bên cạnh đó, thế chấp quyền đòi nợ còn mang đến cho chủ nợ (phần lớn là
các tổ chức tín dụng) đa dạng hóa được các sản phẩm, dịch vụ, và nâng cao hiệu
quả hoạt động của mình. Thực tế so với việc cho vay khơng có tài sản bảo đảm thì
bên nhận thế chấp ưu tiên việc cho vay có tài sản bảo đảm hơn. Bởi lẽ sự bảo đảm
bằng tài sản cho nghĩa vụ trả nợ tiền vay không chỉ mang đến cho bên nhận thế chấp
11

Bùi Đức Giang, tlđd (1), tr. 36.

18


×