Tải bản đầy đủ (.pdf) (108 trang)

Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (894.38 KB, 108 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LÊ QUỲNH NHƯ

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
TỔN THẤT VỀ TINH THẦN NGOÀI HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

KHĨA LUẬN CHUN NGÀNH LUẬT DÂN SỰ

TP HỒ CHÍ MINH – THÁNG 7 – 2021


Phụ lục 2:
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
Mẫu trang phụ bìa (Khổ 210 x 297 mm)
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN LÊ QUỲNH NHƯ

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
TỔN THẤT VỀ TINH THẦN NGOÀI HỢP ĐỒNG
THEO PHÁP LUẬT DÂN SỰ VIỆT NAM

GVHD: Th.S NGUYỄN TẤN HOÀNG HẢI


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan: Khóa luận tốt nghiệp này là kết quả nghiên cứu của riêng tôi,
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải – Giảng viên


Khoa Luật dân sự, trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Khóa luận này đảm bảo
tính trung thực và tuân thủ các quy định về trích dẫn, chú thích tài liệu tham khảo.
Tơi xin chịu hồn tồn trách nhiệm về lời cam đoan này.
Tác giả khóa luận

Nguyễn Lê Quỳnh Như


LỜI CẢM ƠN
Để có thể hồn thành khóa luận tốt nghiệp, ngoài sự nỗ lực và cố gắng của bản
thân, tác giả còn nhận được sự ủng hộ, động viên khích lệ tinh thần to lớn từ phía gia
đình.
Tác giả xin gửi lời cảm ơn đến các anh chị đi trước, bạn bè đã luôn bên cạnh
giúp đỡ, hỗ trợ tác giả trong suốt thời gian thực hiện khóa luận.
Tác giả cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành đến q Thầy, cơ trường Đại học
Luật Thành phố Hồ Chí Minh đã truyền dạy những kiến thức bổ ích đến tác giả.
Đặc biệt, tác giả xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến ThS. Nguyễn Tấn Hoàng Hải.
Cảm ơn thầy đã tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tác giả trong suốt thời gian viết khóa
luận này.
Xin chân thành cảm ơn!


DANH MỤC CÁC TỪ ĐƯỢC VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT TẮT

NỘI DUNG ĐƯỢC VIẾT TẮT

BLDS năm 1995

Bộ luật Dân sự năm 1995


BLDS năm 2005

Bộ luật Dân sự năm 2005

BLDS năm 2015

Bộ luật Dân sự năm 2015

LTNBTCNN năm 2009

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009

LTNBTCNN năm 2017

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017

BTTH

Bồi thường thiệt hại

TTVTT

Tổn thất về tinh thần


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ......................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG
TỔN THẤT VỀ TINH THẦN. ................................................................................. 10

1.1. Sơ lược lịch sử, khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa trách nhiệm bồi thường tổn
thất về tinh thần..................................................................................................... 10
1.1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của trách nhiệm bồi thường tổn thất về
tinh thần .............................................................................................................. 10
1.1.2. Khái niệm của trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần ................... 15
1.1.3. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần .................... 17
1.1.4. Ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần ....................... 19
1.2. Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần................... 21
1.2.1. Có thiệt hại xảy ra trên thực tế……………………………………………….21
1.2.2. Hành vi gây thiệt hại được xác định là hành vi trái pháp luật
............................................................................................................................ 23
1.2.3. Tồn tại mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật của người gây
thiệt hại với thiệt hại xảy ra trên thưc tế ............................................................ 24
1.2.4. Lỗi không là căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại
............................................................................................................................ 26
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1.......................................................................................... 30
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG, THỰC TIỄN THỰC HIỆN TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG TỔN THẤT TINH THẦN VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN ................. 31
2.1. Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm ........ 31
2.2. Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần khi sức khỏe bị xâm phạm .... 36
2.3. Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần khi tính mạng bị xâm phạm .. 42
2.4. Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần khi danh dự, nhân phẩm, uy tín
bị xâm phạm.......................................................................................................... 50
2.5. Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần khi các quyền, lợi ích hợp pháp
khác bị xâm phạm ................................................................................................. 54
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2.......................................................................................... 56
KẾT LUẬN ............................................................................................................... 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với sự phát triển nhanh chóng về kinh tế - xã hội ngày nay, trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng là một trong những chế định quan trọng nhằm
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp; bù đắp lại những tổn thương, mất mát cho chủ thể
bị xâm phạm. Bên cạnh thiệt hại về vật chất, yếu tố tổn thất về tinh thần cũng đóng
một vai trị vơ cùng quan trọng và đáng được cân nhắc trong chế định trách nhiệm
bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bởi lẽ, tinh thần là yếu tố thuộc về cảm xúc của
con người, giữ một vai trò quan trọng, chi phối, tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại và
phát triển của một chủ thể trong xã hội.
Đối với thiệt hại vật chất chúng ta có thể tính tốn một cách chính xác bởi thiệt
hại vật chất được biểu hiện một cách khách quan, có thể dễ dàng nhìn thấy được. Tuy
nhiên, tổn thất về tinh thần là những thiệt hại “phi vật chất”, không thể nào cân đo,
đong đếm một cách chính xác được nên khó khăn trong việc xác định đúng đắn trách
nhiệm bồi thường thiệt hại. Chính vì vậy, trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
gặp rất nhiều khó khăn hơn trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất. Nó địi hỏi
chủ thể áp dụng pháp luật không những phải thật sự am hiểu pháp luật mà cịn cần có
cái nhìn sâu sắc để xem xét vụ việc một cách khách quan và công tâm nhất.
Trên thực tế, có nhiều trường hợp tổn thất về tinh thần đã xảy ra và gây thiệt hại
to lớn. Tuy nhiên, mức bồi thường tổn thất về tinh thần cho chủ thể bị xâm phạm chưa
được giải quyết thỏa đáng và hợp lý. Bên cạnh đó, do sự hiểu biết hạn chế của người
dân đối với các quy định của pháp luật và trong thực tiễn xét xử cịn có rất nhiều quan
điểm khác nhau giữa các cấp Tòa án nên chưa bảo vệ đối đa quyền lợi cho các chủ
thể bị xâm phạm.
Từ những lý do trên, với mong muốn tìm hiểu sâu hơn những quy định của pháp
luật liên quan đến vấn đề trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần. Từ đó, có thể
làm sáng tỏ những vấn đề cốt lõi nhất về trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
cũng như đề ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về trách
nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần. Tác giả đã chọn đề tài: “Trách nhiệm bồi

thường tồn thất về tinh thần ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam” làm
đề tài để thực hiện cho khóa luận tốt nghiệp cử nhân của mình.
Vì thời gian và kiến thức còn nhiều hạn chế, đối với những thiếu sót trong khóa
luận của mình, tác giả hy vọng nhận được ý kiến đóng góp từ phía Thầy, Cơ và bạn

1


đọc của đề tài “Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần ngoài hợp đồng theo
pháp luật dân sự Việt Nam” được hồn thiện hơn.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua việc nghiên cứu, tìm hiểu về đề tài, tác giả nhận thấy đề tài: “Trách nhiệm
bồi thường tồn thất về tinh thần ngoài hợp đồng theo pháp luật dân sự Việt Nam”
mà tác giả thực hiện đã được phân tích, đánh giá ở một vài khía cạnh nhất định thơng
qua các cơng trình nghiên cứu của các tác giả đi trước như sau:
(i) Tình hình nghiên cứu trong nước
❖ Giáo trình
- Trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, Đỗ Văn Đại (chủ biên), (2017), “Pháp
luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”, Nxb Hồng Đức – Hội luật
gia Việt Nam. Trong giáo trình, tác giả có đề cập đến những nội dung liên quan đến
trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần. Tuy nhiên, vì trong khn khổ giáo trình
nhằm cung cấp các kiến thức cơ bản bên trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
chỉ được tác giả thể hiện ở dạng phân tích, giải thích quy phạm mà chưa đi sâu vào
nghiên cứu một cách toàn diện các vấn đề pháp lý liên quan.
❖ Sách chuyên khảo
- Đỗ Văn Đại, (2016), “Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng Việt Nam –
Bản án và bình luận bản án”, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam. Trong cơng
trình này, tác giả đã phân tích, bình luận các khía cạnh của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại tổn thất về tinh thần bằng cách dẫn chiếu các bản án để làm sáng tỏ vấn đề.
Tác giả còn tham khảo kinh nghiệm nước ngoài, chủ yếu là kinh nghiệm của Pháp để

đưa ra một số đánh giá và kiến nghị về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng. Đây là cơng trình có chứa đựng nhiều thơng tin hữu ích để tác giả tham khảo
khi thực hiện đề tài.
- Phùng Trung Tập, (2017), “Luật Dân sự Việt Nam (Bình giải và áp dụng) –
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngồi hợp đồng”, Nxb. Cơng an nhân dân. Trong
cơng trình này, tác giả đã phân tích các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Bên cạnh đó, tác giả cịn chỉ ra, phân tích phong tục, tập quán và luật
tục về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ở một số nước. Tuy nhiên, những nội dung
trong cơng trình này chưa bình giải chun sâu về trách nhiệm bồi thường tổn thất về
tinh thần. Đây là công trình khá hữu ích để tác giả tham khảo thực hiện đề tài.
- Trương Hồng Quang, (2018), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Bộ luật dân sự năm 2015 và những tình huống thực tế”, Nxb. Chính trị

2


Quốc gia sự thật. Trong cơng trình này, tác giả đã phân tích được những trường hợp
bồi thường thiệt hại bằng cách dẫn chiếu những tình huống thực tế để làm sáng tỏ.
Tuy nhiên, đối với bồi thường tổn thất về tinh thần tác giả chỉ đề cập đến những khía
cạnh chung của vấn đề. Đây là cơng trình khá hữu ích để tác giả tham khảo thực hiện
đề tài.
- Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín, (2018), “Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm
bồi thường của Nhà nước”, Nxb Hồng Đức – Hội Luật gia Việt Nam. Trong cơng
trình này, các tác giả đã phân tích, bình luận các trường hợp được bồi thường tổn thất
về tinh thần trong từng trường hợp cụ thể và theo đối tượng bị xâm phạm bằng cách
dẫn chiếu bản án để lý giải và đánh giá vấn đề. Đây là cơng trình khá hữu ích để tác
giả tham khảo thực hiện đề tài.
- Trương Hồng Quang, (2018), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp
đồng trong Bộ luật dân sự năm 2015 và những tình huống thực tế”, Nxb. Chính trị
Quốc gia sự thật. Trong cơng trình này, tác giả đã phân tích được những trường hợp

bồi thường thiệt hại bằng cách dẫn chiếu những tình huống thực tế để làm sáng tỏ.
Tuy nhiên, đối với bồi thường tổn thất về tinh thần tác giả chỉ đề cập đến những khía
cạnh chung của vấn đề. Đây là cơng trình khá hữu ích để tác giả tham khảo thực hiện
đề tài.
- Nguyễn Văn Hợi, (2017), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tài sản gây
ra”, Nxb. Cơng an nhân dân. Trong cơng trình này, tác giả đã đánh giá những quy
định chung về bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra trong Bộ luật dân sự. Ngồi ra,
tác giả cịn chỉ ra được những ưu điểm, hạn chế và định hướng hoàn thiện trách nhiệm
bồi thường thiệt hại do tài sản gây ra. Đây là cơng trình khá hữu ích để tác giả tham
khảo thực hiện đề tài.
- Nguyễn Văn Cừ, Trần Thị Huệ, (2017), “Bình luận khoa học Bộ luật Dân sự
năm 2015 của nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam”, Nxb. Cơng an nhân dân.
Trong cơng trình này, các tác giả đã phân tích, đánh giá và chỉ ra được những điểm
mới về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng của Bộ luật dân sự năm 2015
so với Bộ luật dân sự năm 2005. Tuy nhiên, dưới góc độ là một bài bình luận những
điểm mới của Bộ luật dân sự, các tác giả chỉ mới trình bày một cách sơ lược, chưa đi
sâu vào phân tích các vấn đề liên quan đến tổn thất về tinh thần. Đây là cơng trình
khá hữu ích để tác giả tham khảo thực hiện đề tài.
❖ Bài viết tạp chí

3


- Lê Thị Thúy Hương, Nguyễn Tấn Hoàng Hải, “Một số điểm mới cơ bản của
quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo Bộ luật Dân sự
2015”, Kỷ yếu về Hội thảo “Những điểm mới của Bộ luật Dân sự 2015”, do Khoa
Luật Dân sự trường Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh tổ chức ngày 31/3/2016 tại trường
Đại học Luật TP. HCM. Trong công trình, các tác giả đi sâu phân tích cụ thể những
điểm mới của Bộ luật dân sự năm 2015 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng so với Bộ luật dân sự năm 2005. Trên cơ sở đó, tác giả có

cái nhìn rõ ràng hơn trong những trường hợp được bồi thường thiệt hại ngồi hợp
đồng. Trong khn khổ một bài viết, cơng trình này đã giúp cho tác giả có cái nhìn
mang tính định hướng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.
- Đỗ Văn Đại (2008), “Bồi thường thiệt hại về tinh thần trong pháp luật Việt
Nam”, Tạp chí Tịa án nhân dân, Số 16: Tác giả nêu quan điểm của một số tác giả về
cách xác định khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần và các quy định trong Nghị
quyết số 03 năm 2006 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về người
được bồi thường, mức bồi thường khi sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy
tín bị xâm phạm, nêu lên một số bất cập cũng như quan điểm cá nhân về vấn đề này,
đồng thời tác giả cũng kiến nghị nên đưa vấn đề bồi thường tổn thất về tinh thần khi
tài sản bị xâm phạm trong Bộ luật Dân sự.
- Đinh Văn Quế (2009), “Một số ý kiến về khoản tiền bù đắp về tinh thần do bị
xâm phạm về tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm quy định tại Bộ luật
dân sự”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 20. Trong cơng trình này, tác giả đã phân tích
và đánh giá tổn thất về tinh thần khi tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm
bị xâm phạm. Cơng trình này là tài liệu khá hữu ích để tác giả nghiên cứu tham khảo
khi thực hiện đề tài.
- Nguyễn Văn Hợi (2013), “Xác định thiệt hại về tinh thần theo quy định của
pháp luật dân sự Việt Nam hiện hành”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số chun đề
(08). Trong cơng trình này, tác giả đã chỉ ra được các trường hợp được bồi thường
tổn thất về tinh thần, từ đó tác giả đã phân tích và đánh giá việc xác định thiệt hại về
tinh thần theo pháp luật dân sự. Cơng trình này là tài liệu khá hữu ích để tác giả nghiên
cứu tham khảo khi thực hiện đề tài.
- Nguyễn Tấn Hoàng Hải (2017), “Bồi thường tổn thất tinh thần khi tài sản bị
xâm phạm – Kinh nghiệm từ pháp luật nước ngồi”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 08.
Trong cơng trình này, tác giả đã đi vào phân tích, so sánh, đối chiếu kinh nghiệm
nước ngoài về trường hợp được bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm

4



phạm Cơng trình này là tài liệu khá hữu ích để tác giả sẽ tiếp tục kế thừa, khai thác
sâu hơn trong cơng trình nghiên cứu của mình.
- Lê Văn Sua (2018), “Nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng theo
BLDS năm 2015”, Tạp chí điện tử luật sư Việt Nam. Tác giả đã đưa ra những nhận
định của mình về việc áp dụng pháp luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trên
thực tiễn của cơ quan nhà nước. Qua đó, giúp tác giả một phần có cái nhìn tổng quan
hơn về khả năng thực thi pháp luật trên thực tiễn.
- Mạc Thị Chiên (2021), “Mức bồi thường tổn thất về tinh thần khi tính mạng
bị xâm phạm”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 08. Trong cơng trình này, tác giả đã đi
vào phân tích, đánh giá mức bồi thường tổn thất về tinh thần khi tính mạng bị xâm
phạm. Bên cạnh đó, tác giả cịn chỉ ra một số điểm chưa hợp lý về mức bồi thường
này và kiến nghị đề xuất để sửa đổi. Công trình này là tài liệu khá hữu ích để tác giả
tiếp tục kế thừa, khai thác sâu hơn trong công trình nghiên cứu của mình.
❖ Luận văn, khóa luận
- Nguyễn Tấn Hoàng Hải (2017), Luận văn thạc sĩ “Bồi thường tổn thất về tinh
thần khi tài sản bị xâm phạm trong pháp luật Hoa Kỳ - Bài học kinh nghiệm cho Việt
Nam”, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh. Trong luận văn, tác giả đã phân tích, đánh giá
trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm. Ngồi ra, tác
giả cịn dẫn chứng pháp luật nước ngoài để làm sáng tỏ vấn đề và đưa ra một số kiến
nghị về trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm. Luận
văn này là tài liệu hữu ích để tác giả nghiên cứu tham khảo khi thực hiện đề tài.
- Nguyễn Tôn (2010), Luận văn thạc sĩ “Bồi thường tổn thất tinh thần do sức
khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của cá nhân bị xâm phạm”, Đại học
Quốc Gia Hà Nội. Tác giả đã phân tích, làm sáng tỏ những khía cạnh của bồi thường
tổn thất tinh thần do xâm phạm sức khỏe, tính mạng, danh sự, nhân phẩm, uy tín cá
nhân. Tác giả cũng đưa ra những kiến nghị góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, do luận văn này được thực hiện vào năm 2010, khi đó Bộ luật dân sự năm
2005 có hiệu lực nên đây được xem là nguồn tài liệu khá hữu ích để tác giả nghiên
cứu tham khảo khi so sánh đối chiếu giữa Bộ luật Dân sự năm 2005 với Bộ luật Dân

sự năm 2015 về nội dung đang được nghiên cứu.
- Võ Thị Như Thương (2015), Khóa luận tốt nghiệp “Trách nhiệm bồi thường
tổn thất về tinh thần theo pháp luật dân sự Việt Nam”, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Trong khóa luận này, tác giả đã phân tích làm rõ được các vấn đề của trách nhiệm bồi
thường thiệt hại. Tuy nhiên, do luận văn này được thực hiện vào năm 2010, khi đó

5


Bộ luật Dân sự năm 2005 có hiệu lực nên đây được xem là nguồn tài liệu khá hữu ích
để tác giả nghiên cứu tham khảo khi so sánh đối chiếu giữa Bộ luật Dân sự năm 2005
với Bộ luật Dân sự năm 2015 về nội dung đang được nghiên cứu.
- Nguyễn Thị Thơm (2011), Khóa luận tốt nghiệp “Trách nhiệm bồi thường tổn
thất về tinh thần trong pháp luật Việt Nam”, Trường Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh.
Trong khóa luận này, tác giả đã chỉ ra được điều kiện làm phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Bên cạnh đó, khóa luận cịn đi vào phân tích từng
trường hợp cụ thể được bồi thường tổn thất về tinh thần. Khóa luận này là tài liệu khá
hữu ích để tác giả tham khảo thi thực hiện đề tài.
- Nguyễn Văn Huy (2010), Khóa luận tốt nghiệp “Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng do tổn thất về tinh thần theo pháp luật hiện hành”, Trường Đại
học Luật TP. Hồ Chí Minh. Trong khóa luận này, tác giả đã chỉ ra được các trường
hợp được bồi thường tổn thất về tinh thần, ngoài ra, tác giả còn đưa ra một số kiến
nghị để sửa đổi bổ sung pháp luật. Khóa luận này là tài liệu khá hữu ích để tác giả
nghiên cứu tham khảo khi thực hiện đề tài.
Theo tác giả, ở Việt Nam đến thời điểm hiện nay, chúng ta có nhiều cơng trình
nghiên cứu về trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần theo pháp luật dân sự. Tuy
nhiên, các cơng trình chủ yếu chỉ tập trung vào một khía cạnh của trách nhiệm bồi
thường tổn thất về tinh thần, do đó, chưa đi sâu phân tích các khía cạnh cịn lại trong
trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần. Những công trình nghiên cứu trong nước
nêu trên sẽ được tác giả tham khảo, kế thừa hợp lý trong quá trình thực hiện đề tài

của mình.
(ii) Tình hình nghiên cứu ở nước ngồi
Trong khoa học pháp lý ở nước ngồi, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu liên
quan trực tiếp, gián tiếp đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Đáng
kể nhất là những cơng trình khoa học được trình bày sau đây:
❖ Giáo trình
- Mark Lunney and Ken Oliphant (2010), Tort law text and materials (Fourth
edition), Nxb. Oxford. Tiêu đề của quyển sách được dịch là Giáo trình và tài liệu về
Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Trong cơng trình này, tác giả Mark Lunney
và Ken Oliphant đã phân tích hầu hết các vấn đề liên quan đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại hợp đồng, trong đó có những nội dung liên quan đến lý luận nền tảng của
học thuyết trách nhiệm thay thế, những nội dung cụ thể của trách nhiệm bồi thường
thiệt hại tổn thất về tinh thần. Cùng với đó, các tác giả của cơng trình này đã dẫn

6


chứng một số án lệ đặc trưng ở Anh, Mỹ… Sau đó, phân tích, bình luận và đồng thời
cung cấp thêm quan điểm của một số nhà nghiên cứu pháp luật khác về những án lệ
đó. Đây là cơng trình có nhiều giá trị học thuật và có khá nhiều thơng tin hữu ích để
tác giả nghiên cứu tham khảo trong quá trình thực hiện đề tài.
❖ Sách chuyên khảo
- Emily Finch và Stefan Fafinski (2013), Law Express: Tort law, Nxb. Pearson.
Tiêu đề của quyển sách được dịch là Hiểu nhanh về luật: Luật Bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng. Cơng trình này tập trung về luật bồi thường thiệt hại, chính vì lẽ đó
hầu như tồn bộ các quy định về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng đều được đề
cập và phân tích trong cơng trình này. Chẳng hạn như bất cẩn (negligence), vi phạm
nghĩa vụ do bất cẩn, mối quan hệ nhân quả do hành vi bất cẩn gây ra... Trách nhiệm
bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần là một nội dung nhỏ của trách nhiệm dân sự
cũng đã được đề cập trong cơng trình này. Do vậy, tác giả chọn cơng trình này để

tham khảo những nội dung liên quan khi thực hiện đề tài.
Như vậy, cơng trình nghiên cứu ở nước ngồi về trách nhiệm bồi thường thiệt
hại ngồi hợp đồng, có đề cập nhiều nội dung liên quan đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại tổn thất về tinh thần. Nhiều cơng trình đã trình bày mang tính hệ thống,
chun sâu ở dạng giáo trình, sách chun khảo, bài viết tạp chí, có so sánh, đối chiếu
với pháp luật các nước trong cùng hệ thống hoặc khác hệ thống với nhau (cả dân luật
và thông luật), đã cung cấp nhiều án lệ liên quan trực tiếp đến trách nhiệm bồi thường
thiệt hại ngoài hợp đồng. Những cơng trình khoa học ở nước ngồi nêu trên sẽ được
tác giả tham khảo kinh nghiệm cho đề tài của mình tương ứng với điều kiện, pháp
luật Việt Nam.
Qua nghiên cứu các tài liệu trên, tác giả nhận thấy bồi thường thiệt hại tổn thất
về tinh thần là vấn đề trừu tượng, cịn có nhiều quan điểm khác nhau về trường hợp
bồi thường, mức bồi thường, chủ thể được bồi thường… Các tài liệu trên là nguồn tài
liệu tham khảo giúp tác giả tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu và phát triển toàn diện hơn
về mặt lý luận, pháp luật thực định và thực tiễn xét xử. Từ đó, giúp tác giả đưa ra một
số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về chế định này.
3. Phạm vi nghiên cứu
Khóa luận tập trung nghiên cứu trách nhiệm bồi thường thiệt hại tổn thất về
tinh thần thông qua việc phân tích:
Thứ nhất, nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, điều kiện, căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần.

7


Thứ hai, phân tích các trường hợp bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần
theo pháp luật dân sự. Chỉ ra được một số điểm bất cập trong việc áp dụng các quy
định pháp luật và thực tiễn xét xử. Từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục
và góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật dân sự.
4. Mục đích nghiên cứu

Quyền yêu cầu người khác bồi thường thiệt hại từ những hành vi xâm phạm
sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín của bản thân mình là một quyền cơ
bản của cơng dân. Việc bồi thường tổn thất về tinh thần mặc dù khơng thể nào bù đắp
hồn tồn thiệt hại mà người bị thiệt hại phải gánh chịu nhưng nó một phần nào giảm
bớt nỗi đau, bù đắp những mất mát. Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, thơng qua
việc nghiên cứu dựa trên cơ sở khoa học, quy định pháp luật trong nước và thực tiễn
tác giả đặt ra những mục đích sau:
Thứ nhất, phân tích làm rõ một cách toàn diện khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và căn
cứ phát sinh của bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần.
Thứ hai, phân tích, đánh giá các quy định và các trường hợp trên thực tiễn về bồi
thường thiệt hại tổn thất về tinh thần; so sánh, đối chiếu với quy định nước ngồi. Từ
đó, chỉ ra một số bất cập trong việc áp dụng pháp luật và đưa ra một số kiến nghị
nhằm góp phần hồn thiện pháp luật.
5. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng kết hợp các phương pháp nghiên cứu
thường được dùng trong khoa học pháp lý, cụ thể như sau:
- Phương pháp nghiên cứu lịch sử: là phương pháp nghiên cứu nguồn gốc, sự
hình thành, phát triển của nhà nước và pháp luật về các vấn đề liên quan đến đề tài
nghiên cứu, giúp tác giả có cái nhìn tổng thể hơn về đề tài nghiên cứu. Phương pháp
này sử dụng ở mục 1.1.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp: là phương pháp nghiên cứu các văn bản, tài
liệu lý luận về cùng một vấn đề bằng cách phân tích chúng thành từng bộ phận để
xem xét chúng một cách đầy đủ và tồn diện. Sau đó liên kết vấn đề đã được xem xét
lại để đưa ra các kết quả, kết luận. Phương pháp này được sử dụng ở toàn bộ đề tài.
- Phương pháp phân tích bản án/vụ việc: là phương pháp sử dụng các bản án/vụ
việc đã được xét xử trong thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề pháp lý cần nghiên cứu.
Phương pháp này được sử dụng ở chương 2.
- Phương pháp so sánh: là phương pháp nghiên cứu có tính hệ thống về những
quy định pháp luật và truyền thống pháp lý cụ thể trên nền tảng so sánh hoặc làm


8


sáng tỏ thông tin liên quan giữa hai hay nhiều hệ thống pháp luật. Phương pháp này
sử dụng ở chương 2.
6. Bố cục của đề tài
Đề tài: “Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần ngoài hợp đồng theo
pháp luật dân sự Việt Nam” ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, đề tài gồm hai chương:
Chương 1: Những vấn đề cơ bản về trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần;

Chương 2: Thực trạng, thực tiễn thực hiện trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh
thần và giải pháp thực hiện.

9


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG TỔN THẤT VỀ TINH THẦN.
BTTH ngoài hợp đồng là một trong những chế định trụ cột của Bộ luật Dân sự.
Khi một chủ thể gây thiệt hại cho chủ thể khác thì phải có trách nhiệm bồi thường
thiệt hại cho chính hành vi trái pháp luật của mình gây ra. Bên cạnh thiệt hại về vật
chất, TTVTT ngày càng được xem trọng. Đặc biệt trong thời đại ngày nay, khi vấn
đề bảo vệ quyền con người nói chung và bảo vệ quyền dân sự của cơng dân nói riêng
đang là vấn đề được xã hội quan tâm vì đó là tiêu chí quan trọng để đánh giá sự văn
minh, tiến bộ của một quốc gia. Chính vì thế, trong chương này khóa luận sẽ đi phân
tích q trình hình thành và phát triển của trách nhiệm bồi thường TTVTT, khái niệm
TTVTT, đặc điểm và ý nghĩa TTVTT. Bên cạnh đó, tác giả cịn chỉ ra các căn cứ làm
phát sinh trách nhiệm bồi thường TTVTT để làm sáng tỏ các vấn đề cơ bản về trách
nhiệm bồi thường TTVTT.

1.1. Sơ lược lịch sử, khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa trách nhiệm bồi
thường tổn thất về tinh thần
1.1.1. Sơ lược sự hình thành và phát triển của trách nhiệm bồi thường tổn thất
về tinh thần
Các Mác đã nói: “Xã hội là tổng hòa của các mối quan hệ đa dạng và phức tạp
giữa các cá nhân với nhau hoặc giữa cá nhân với tổ chức, với nhà nước. Mỗi con
người có các quyền và tự do của mình, nhưng con người khơng thể sống ngồi xã hội
nên phải tơn trọng quyền và tự do của các nhân khác, không được ra khỏi quy định
và cho phép của pháp luật1. Việc thi hành các quyền tự nhiên của mỗi người chỉ bị
giới hạn trong việc đảm bảo cho các thành viên của xã hội được hưởng các quyền đó.
Trên thực tế, khi một người thực hiện quyền của mình có khả năng sẽ xâm phạm
quyền và gây thiệt hại cho người khác cả về thiệt hại vật chất và TTVTT. Vì vậy,
trách nhiệm BTTH tất yếu được đặt tra trong khoa học pháp lý để bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp cho đối tượng bị xâm phạm.
Dưới triều đại phong kiến, các đạo, chiếu, lệnh và các chính sách ruộng đất của
nhà nước phong kiến Lý, Trần, Hồ được sử sách ghi chép cho thấy, lần đầu tiên trong
lịch sử nước ta, các vấn đề sở hữu hợp đồng đã được pháp luật quy định2. Tuy nhiên,

Lê Mai Anh, (2004), Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra, Nxb.
Lao động – xã hội, Hà Nội, tr. 7.
2
Trường Đại học Luật Hà Nội, (2002), Giáo trình Lịch sử nhà nước và pháp luật Việt Nam, Nxb. Công an
nhân dân, tr. 144.
1

10


pháp luật nước ta ở giai đoạn này chủ yếu điều chỉnh ở lĩnh vực hình sự. Đối với lĩnh
vực dân sự chỉ điều chỉnh ở một số vấn đề liên quan đến quyền sở hữu, hợp đồng,

thừa kế, hôn nhân gia đình. Vấn đề bồi thường TTVTT ở giai đoạn này chưa được
chú trọng và khơng có bất cứ quy định nào để điều chỉnh thiệt hại TTVTT.
Bước sang thời kì nhà Lê, bước đầu manh nha đã có các văn bản pháp luật quy
định về trách nhiệm dân sự đối với hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, uy tín của các nhân. Tiêu biểu nhất phải được nhắc đến ở đây là sự ra đời
của Bộ Quốc triều Hình Luật (hay Luật Hồng Đức)3. Sau Bộ Quốc triều Hình Luật
phải nhắc đến Bộ Hồng Việt Luật lệ4. Bộ luật này cũng chưa có sự phân định rõ ràng
giữa hình luật và dân luật. Phần lớn bộ luật chỉ tập trung quy định các chế tài của hình
luật cho nên trách nhiệm dân sự quy định lan man và không đầy đủ.
Cả hai bộ luật trên không trực tiếp đề cập đến trường hợp được bồi thường
TTVTT khi có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho chủ thể khác, nhưng khi tìm
hiểu và phân tích một số điều luật cụ thể, chúng ta thấy được sự gián tiếp thừa nhận
trách nhiệm bồi thường TTVTT của hai bộ luật này. Ví dụ, trong Quốc triều hình luật
tại Điều 472 của Bộ luật này quy định trường hợp người nào đánh các quan chức bị
thương thì ngồi tiền bồi thường thương tích, người gây thiệt hại phải đền một khoản
tiền gọi là “tiền tạ”. Hoặc theo Điều 473 quy định các trường hợp lăng mạ quan chức
cũng phải nộp tiền tạ ngồi hình phạt. Điều 474 quy định trường hợp đánh người
trong hoàng tộc cũng điều đưa ra một khoản tiền tạ ngoài khoản tiền phạt5. Vậy khoản
tiền tạ ở đây được hiểu là gì? “Tạ” là tỏ lịng xin lỗi một cách trân trọng đối với người
mà mình đã mang đến cho họ điều không may6. Thực chất “tiền tạ” là khoản tiền bù
đắp TTVTT cho các vị quan thời phong kiến, tùy theo địa vị xã hội của họ do tính
mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín của họ bị xâm phạm7. Pháp luật phong kiến đã phân
biệt rõ ràng địa vị của con người trong xã hội. Cùng với một hành vi xâm phạm,
nhưng nếu chủ thể bị xâm phạm là một người dân thường thì sẽ được coi như là việc
hết sức bình thường và khơng có trách nhiệm BTTH. Trong Điều 94 Hoàng Việt Luật
Điều 472 quy định trường hợp đánh các quan chức bị thương, thì ngồi tiền bồi thường thương tích, người
gây thiệt hại phải đền tiền tạ.
Điều 473 quy định trường hợp lăng mạ quan chức cũng phải đền tiền tạ ngoài việc chịu một khoản tiền phạt.
4
Văn bản pháp luật được pháp điển hóa và có hiệu lực pháp lý cao nhất trong hệ thống pháp luật phong kiến

Việt Nam, ra đời dưới thời vua Gia Long.
5
Nguyễn Ngọc Nhuận, Nguyễn Tá Nhí, (1995), Quốc triều hình luật, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh, tr 179 - 180.
6
Võ Thị Như Thương, (2015), Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần theo pháp luật dân sự Việt Nam,
Khóa luận tốt nghiệp, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 4.
7
Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, (2008), Một số vấn đề pháp luật dân sự Việt Nam từ thế kỉ
XV đến thời Pháp thuộc, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 180 - 181.
3

11


lệ và Điều 315 Bộ luật Hồng Đức thì sự bồi thường TTVTT còn được dự liệu trong
trường hợp từ hôn. Trường hợp cha mẹ người con gái đã nhận sính lễ trong việc gả
con, sau đó lại khơng đồng ý gả con thì phải bồi thường một khoản tiền thiệt hại về
danh dự cho gia đình nhà trai đã mang đồ sính lễ cưới hỏi8.
Ở đây, pháp luật phong kiến đã tạo nên sự bất bình đẳng trong xã hội. Đối với
trường hợp thiệt hại về vật chất thì pháp luật quy định rõ ràng và được áp dụng chung
trong mọi trường hợp. Tuy nhiên, đối với TTVTT thì chỉ có một số đối tượng như
vua, quan lại, đại thần… mới được hưởng một khoản tiền tạ. Mặc dù có sự bất bình
đẳng trong một số trường hợp đối với những chủ thể có địa vị khác nhau nhưng pháp
luật thời kì phong kiến đã bắt đầu manh nha thừa nhận trách nhiệm bồi thường
TTVTT.
Đến thời kì Pháp thuộc (từ năm 1858 đến năm 1945) do sự tiếp thu tiến bộ của
khoa học pháp lý phương Tây. Trách nhiệm dân sự đã được quy định cụ thể và tách
biệt so với trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm bồi thường TTVTT được đề cập trong
hai bộ luật: Dân luật Bắc Kỳ và Hồng Việt Trung Kỳ hộ luật. Ví dụ tại Điều 71 Dân
luật Bắc Kỳ và Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật quy định: “Bên nào bỏ lời hứa về việc

giá thú mà khơng có dun cớ chính đáng vì lỗi của bên ấy, thì phải chịu trách nhiệm
bồi thường tổn hại”9.
Trải qua nhiều năm đấu tranh giành độc lập dân tộc, Cách mạng tháng tám năm
1945 thành công rực rỡ đã đánh dấu nhiều bước tiến cho Việt Nam. Tiêu biểu phải
kể đến chính là bản Hiến pháp năm 1946 – đây là bản hiến pháp đầu tiên của nước
Cơng hịa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Do tình hình đất nước cịn nhiều rối ren, thù
trong giặc ngồi, đời sống vật chất của nhân dân cịn gặp nhiều khó khăn. Nên bản
Hiến pháp năm 1946 chỉ ghi nhận một số quyền cơ bản của công dân. Do đó, cũng
chưa có quy định nào về trách nhiệm bồi thường TTVTT được ghi nhận.
Trải qua mười bốn năm đấu tranh xây dựng đất nước. Bản Hiến pháp năm 1959
ra đời đã ghi nhận quyền được BTTH trong trường hợp bị thiệt hại vì hành vi vi phạm
của cơ quan nhà nước tại Điều 2910. Cho đến ngày 23 tháng 03 năm 1972, Tòa án
nhân dân tối cao đã ban hành thông tư 173/UBTP về việc hướng dẫn xét xử BTTH
Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, tlđd (07), tr. 180 - 181.
Bộ Tư pháp – Viện nghiên cứu khoa học pháp lý, tlđd (07), tr. 193.
10
Điều 29 Hiến pháp năm 1959: “Công dân nước Việt Nam dân chủ cộng hịa có quyền khiếu nại và tố cáo với
bất cứ cơ quan nhà nước nào về những hành vi phạm pháp của nhân viên cơ quan nhà nước. Những việc khiếu
nại và tố cáo phải được xem xét và giải quyết nhanh chóng. Người bị thiệt hại vì hành vi phạm pháp của nhân
viên cơ quan nhà nước có quyền được bồi thường”.
8
9

12


ngồi hợp đồng. Tuy nhiên, thơng tư này cũng chỉ đề cập đến việc bồi thường thiệt
hại vật chất mà không đề cập đến việc bồi thường TTVTT. Với quan niệm giá trị tinh
thần là vô giá nên thiệt hại tinh thần chỉ là khái niệm xã hội, không thể dung tiền để
chuộc hay mua được11. Nên trong một khoảng thời gian dài từ thời kì phong kiến đến

khi có sự xuất hiện của hai bản Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959 pháp
luật vẫn chưa hề thừa nhận hay đề cập đến vấn đề trách nhiệm bồi thường TTVTT.
Hiến pháp năm 1980 ra đời có quy định trách nhiệm BTTH tại Điều 7312. Tuy nhiên,
bản Hiến pháp năm 1980 cũng chưa xác định rõ là thiệt hại về vật chất hay là TTVTT.
Cho đến Điều 72 Hiến pháp năm 199213, mặc dù Điều 72 có quy định người bị thiệt
hại được phục hồi danh dự nhưng cũng chưa thực sự được quy định cụ thể và rõ ràng.
Có thể thấy rằng, mặc dù các bản Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992 ra đời
sau này có đề cập đến vấn đề trách nhiệm BTTH nhưng vẫn cịn những thiếu sót trong
quy định, đặc biệt là không quy định trách nhiệm bồi thường TTVTT. Bởi lẽ, TTVTT
là một dạng thiệt hại trừu tượng và rất khó xác định. Ngoài ra, TTVTT là sự tồn tại
về mặt tình cảm, cảm xúc, khơng thể nào quy đổi ra thành tiền nên rất khó có những
quy định cụ thể để bồi thường TTVTT. Vấn đề xây dựng các quy định pháp luật về
bồi thường TTVTT là vô cùng cần thiết bởi nó giúp bảo vệ quyền lợi cho các chủ thể
bị xâm phạm.
Trước tình hình quy phạm pháp luật khơng cịn phù hợp với tình hình xã hội đã
đặt ra vấn đề cần ban hành những quy định pháp luật mới để kịp thời đáp ứng nhu
cầu của xã hội. Tại kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa IX (ngày 28 tháng 10 năm 1995),
Quốc hội đã thông qua BLDS năm 1995 – bộ luật dân sự đầu tiên của nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lần đầu tiên, trách nhiệm bồi thường TTVTT đã được
thừa nhận và ghi nhận trong một văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao. Theo đó tại
khoản 1 Điều 310 BLDS năm 1995: “Trách nhiệm BTTH bao gồm trách nhiệm bồi
thường thiệt hại về vật chất và trách nhiệm bồi thường thiệt hại về tinh thần”. Và
theo khoản 3 Điều 310 BLDS năm 1995: “Người gây thiệt hại về tinh thần cho người
khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
Trường Đại học Luật Tp, Hồ Chí Minh, (2013), Giáo trình pháp luật về hợp đồng và bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng, Nxb. Hồng Đức – Hội luật gia Việt Nam, tr. 447.
12
Điều 73 Hiến pháp năm 1980: “Mọi hành động xâm phạm quyền lợi ích chính đáng của cơng dân phải được
kịp thời sửa chữa và xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi thường”.
13

Điều 72 Hiến pháp năm 1992: “Không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội
của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật. Người bị bắt, bị tạm giữ, bị truy tố, xét xử trái pháp luật có quyền được
bồi thường thiệt hại về vật chất và phục hồi danh dự. Người làm trái pháp luật trong việc bắt, tạm giữ, truy tố,
xét xử gây thiệt hại cho người khác phải bị xử lý nghiêm minh”.
11

13


khác thì ngồi việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai cịn phải
bồi thường một khoản tiền cho người bị thiệt hại”. Khoản tiền bù đắp cho người bị
thiệt hại giúp an ủi, động viên và phần nào đó tạo điều kiện thêm để có thể khắc phục
khó khăn, làm dịu đi nỗi đau cho chính nạn nhân hay cho thân nhân trong gia đình
họ14. Quy định tại Điều 310 BLDS năm 1995 làm chúng ta khó có thể xác định mức
BTTH là bao nhiêu, bởi lẽ BLDS năm 1995 quy định chung trong trường hợp này là
bồi thường “một khoản tiền” việc quy định như vậy làm chúng ta không biết phải
xác định như thế nào cho hợp lý. Bên cạnh đó, BLDS năm 1995 còn quy định cụ thể
các trường hợp phải chịu trách nhiệm bồi thường TTVTT trong trường hợp xâm phạm
đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác (khoản 4 Điều
613, khoản 4 Điều 614, khoản 3 Điều 615). Tuy nhiên, BLDS năm 1995 còn nhiều
kẻ hở khi không quy định cụ thể mức bồi thường, chủ thể được bồi thường là ai nên
việc áp dụng pháp luật cịn khơng thơng nhất. Để khắc phục những thiếu sót của
BLDS năm 1995, ngày 28 tháng 4 năm 2004 Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân
tối cao ban hành Nghị quyết 01/2004/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định
của BLDS năm 1995 về BTTH ngoài hợp đồng. Nghị quyết 01/2004/NQ-HĐTP đã
có những quy định về mức bồi thường TTVTT trong từng trường hợp cụ thể, xác định
chủ thể được hưởng bồi thường TTVTT. Ví dụ, tại điểm b tiểu mục 1 phần I của Nghị
Quyết 01/200415 đã làm rõ được thiệt hại TTVTT của cá nhân, TTVTT của pháp
nhân.
Mãi cho đến mười năm sau khi BLDS năm 2005 ra đời cùng với Nghị Quyết

03/2006/ NQ- HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của BLDS năm 2005 về
BTTH ngoài hợp đồng. BLDS năm 2005 đã thừa nhận mọi trường hợp có hành vi trái
pháp luật, xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, uy tín đều phải
chịu trách nhiệm bồi thường TTVTT. Đặc biệt, BLDS năm 2005 cịn quy định thêm

Tơ Quốc Kỳ, (1999), “Bồi thường thiệt hại về tinh thần trong pháp luật Bộ luật Dân sự”, Tạp chí Tịa án
nhân dân số 10, tr. 21.
15
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm
phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân
phải chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị bạn bè xa lánh do bị
hiểu nhầm... và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà họ phải chịu.
Thiệt hại do tổn thất về tinh thần của pháp nhân và các chủ thể khác không phải là pháp nhân (gọi chung là
tổ chức) được hiểu là do danh dự, uy tín bị xâm phạm, tổ chức đó bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lịng
tin... vì bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà tổ chức phải chịu.
14

14


trách nhiệm bồi thường TTVTT đối với trường hợp xâm phạm thi thể tại Điều 62816
đây là điểm mới của BLDS năm 2005 so với BLDS năm 1995.
Trên cơ sở kế thừa những tiến bộ và khắc phục những thiếu sót của BLDS năm
2005, BLDS 2015 ra đời (có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2017). BLDS năm
2015 quy định rõ ràng, cụ thể các trường hợp được BTTH TTTT và khoản tiền được
bồi thường là bao nhiêu, chủ thể nào được bồi thường, chủ thể nào có trách nhiệm
bồi thường. Với quy định tại khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015 đã khắc phục được
nhược điểm của BLDS năm 2005. Ở đây, đối tượng bị xâm phạm làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường là “tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền
và lợi ích hợp pháp của người khác”17. Đặc biệt, BLDS năm 2015 có quy định thêm

trường hợp bồi thường thiệt hại khi mồ mả bị xâm phạm tại Điều 60718.
1.1.2. Khái niệm của trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
Bồi thường TTVTT là một phạm trù khó xác định. Để tìm hiểu rõ hơn về phạm
trù này, trước hết ta phải hiểu được khái niệm của TTVTT là gì. Theo pháp luật Việt
Nam, cụ thể tại khoản 3 Điều 361 BLDS năm 2015: “Thiệt hại về tinh thần là tổn
thất về tinh thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín và các lợi ích nhân thân khác của một chủ thể”. Theo quy định trên, có thể nhận
thấy BLDS năm 2015 chỉ liệt kê các trường hợp được xem là có thiệt hại về tinh thần
chứ không nêu định nghĩa tổn thất về tinh thần là gì19. Vậy nên vấn đề được đặt ra là
cần làm rõ khái niệm TTVTT là gì?

Người xâm phạm thi thể phải bồi thường một khoản tiền theo quy định tại khoản 2 Điều này và một khoản
tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người
chết, nếu khơng có những người này thì người trực tiếp ni dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này.
Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thoả thuận; nếu không thoả thuận được thì mức tối đa
khơng q ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
17
Đỗ Văn Đại, Lê Hà Huy Phát (2016), “Những điểm mới về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng trong Bộ
luật Dân sự năm 2015”, Tạp chí Tịa án nhân dân số 7, tr. 14.
18
Khoản 3 Điều 607 BLDS năm 2015 quy định: “Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp mồ mả
của người khác bị xâm phạm phải bồi thường theo quy định tại khoản 2 Điều này và một khoản tiền khác để
bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích theo thứ tự hàng thừa kế của người chết; nếu khơng có
những người này thì người trực tiếp nuôi dưỡng người chết được hưởng khoản tiền này. Mức bồi thường bù
đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa đối với mỗi mồ mả
do bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định”.
19
Nguyễn Tấn Hoàng Hải (2017), Bồi thường tổn thất về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm trong pháp luật
Hoa Kỳ - Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật TP. Hồ Chí Minh, tr .14.
16


15


Trong cổ luật La Mã, các luật gia sử dụng danh từ “praetium doloris” (giá tiền
của sự đau thương)20 để chỉ ngạch số bồi thường trong tổn hại tinh thần. Khi lý giải
việc sử dụng thuật ngữ “tổn thất tinh thần”, các nhà làm luật cho rằng “tinh thần” là
những giá trị “phi vật chất” thuộc về yếu tố nội tâm bên trong của con người, nó gắn
liền với tâm lý, tình cảm, uy tín của cá nhân, tổ chức nên khơng thể xác định thiệt hại
một cách chính xác như “thiệt hại vật chất” mà chỉ có thể ước lượng “tổn thất” gây
ra mà thôi. Chẳng hạn, một người chết đi có thể làm một người đau buồn và suy sụp
tinh thần nhưng đối với một người khác điều này chỉ là một sự kiện bình thường. Vì
vậy, có thể nói TTVTT tồn tại một cách chủ quan tuỳ thuộc vào các đối tượng khác
nhau và khó có thể định lượng được.
“Theo từ điển Black's Law Dictionary 601 (9th ed. 2009), dựa vào định nghĩa
trong Restatement second of Torts: “tổn thất tinh thần” còn được biết đến với các tên
gọi khác nhau, chẳng hạn như “đau khổ tinh thần” (emotional distress), “đau đớn tinh
thần” (mental anguish) và “tổn thất tinh thần” (mental distress) hoặc sốc thần kinh,
hoặc tương tự. Nó bao gồm tất cả các phản ứng tinh thần rất khó chịu, chẳng hạn như
sợ hãi, kinh hồng, đau buồn, xấu hổ, nhục nhã, khó chịu, giận dữ, thất vọng, nổi
phiền muộn, lo lắng, và kinh tởm. Chỉ xuất hiện đỉnh điểm khi nghĩa vụ pháp lý xảy
ra. Toàn bộ cảm xúc thư thái thì hiếm khi đạt được trong thế giới này, và ở một mức
độ cảm xúc buồn khổ thống qua và khơng đáng kể là một phần của giá trị cuộc sống
giữa con người với nhau. Pháp luật chỉ can thiệp nơi sự đau khổ do tổn thương bị gây
ra là q nặng mà khơng có người hợp lý có thể được dự kiến sẽ chịu đựng được nó.
Cường độ và thời gian của sự đau khổ là những yếu tố được xem xét trong việc xác
định mức độ nghiêm trọng của nó. Sự đau khổ nghiêm trọng phải được chứng minh;
nhưng trong nhiều trường hợp, các cá tính quá khích và thái quá về hành vi của bị
đơn là bản chất quan trọng của bằng chứng rằng sự đau khổ đã tồn tại”21.
Còn theo từ điển Tiếng Việt thì “tổn thất” là “sự mất mát, hư hao, thiệt hại lớn”

và “tinh thần” là những ý nghĩa, tình cảm, những hoạt động thuộc về nội tâm của con
người22. Theo cách hiểu chung nhất thì TTVTT được hiểu là do sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do tính mạng bị
xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải chịu đau thương,
Võ Thị Oanh, (2017), Bồi thường tổn thất tinh thần do vi phạm hợp đồng theo pháp luật một số quốc gia
trên thế giới – Bài học kinh nghiệm cho Việt nam, Công trình nghiên cứu khoa học, Đại học Luật Tp. Hồ Chí
Minh, tr 9
21
Nguyễn Tấn Hồng Hải (2017), tlđd (19), tr. 9.
22
Nguyễn Văn Xô (Chủ biên) (2008), Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Thanh niên (tái bản lần thứ V), tr. 739 - 757.
20

16


buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị xa lánh, bị
hiểu nhầm hay nói cách khác là sự mất mát các giá trị phi vật chất gắn liền với
mỗi cá nhân 23. Tóm lại: “tổn thất về tinh thần” được hiểu chính là “sự đau thương,
buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lịng tin, bị
bạn bè xa lánh do hiểu nhầm… khi cá nhân, tổ chức bị xâm phạm đến các quyền và
lợi ích hợp pháp của mình”.
Sau khi đã biết được TTVTT là gì, một khái niệm tiếp theo chúng ta cần làm
rõ đó là trách nhiệm bồi thường TTVTT. Vậy trách nhiệm bồi thường TTVTT là gì?
BLDS năm 2015 khơng có định nghĩa rõ ràng về trách nhiệm bồi thường TTVTT.
Theo khoản 1 Điều 584 BLDS năm 2015 quy định: “Người nào có hành vi xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản, quyền, lợi ích hợp pháp
của người khác thì phải bồi thường, trừ trường hợp Bộ luật này, luật khác có liên
quan quy định khác”. Tuy nhiên dựa vào định nghĩa này cùng các quy định tại Điều
590, Điều 591, Điều 592 BLDS năm 2015 và các quy định trong Luật sở hữu trí tuệ

năm 2005 (sửa đổi bổ sung năm 2009, 2019) thì trách nhiệm BTTH TTVTT sẽ được
hiểu khi chúng ta liệt kê các trường hợp phát sinh trách nhiệm bồi thường. Như vậy,
trách nhiệm BTTH TTVT là trách nhiệm chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính
cơng khai, bồi thường khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho chủ thể bị TTVTT
mà người gây ra thiệt hại phải chịu do hành vi xâm phạm đến sức khỏe, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm, uy tín của chủ thể khác hoặc có hành vi xâm phạm thi thể, xâm
phạm mồ mả.
1.1.3. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
Tinh thần là phạm trù gắn với những biểu hiện tình cảm, tâm trạng thuộc đời
sống nội tâm của con người và gắn liền với quyền nhân thân của con người. Các nhà
lập pháp đã không sử dụng thuật ngữ “thiệt hại tinh thần” mà sử dụng thuật ngữ
“TTVTT”. Theo quan điểm của các nhà lập pháp thì “thiệt hại về tinh thần” không
thể cân đo, đong đếm chính xác như “thiệt hại vật chất” nên chỉ có thể ước lượng “tổn
thất” cho tinh thần mà thơi. Chính vì thế, trách nhiệm bồi thường TTVTT cũng có
những đặc điểm riêng của mình nhằm để phân biệt với các trách nhiệm khác.
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường TTVTT xuất phát từ việc chủ thể có hành vi
trái pháp luật xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của cá nhân, tổ chức. Một chủ thể sẽ không có TTVTT
23

Điểm b mục 1.1 mục 1 phần I Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP.

17


nếu như không bị hành vi trái pháp luật xâm phạm tới. Bởi lẽ tinh thần là hoạt động
nội tâm của con người. Một người không thể trở nên buồn bả, u uất nếu khơng có sự
tác động từ bên ngồi. Ví dụ, hành vị bơi nhọ danh dự, uy tín khiến cho cơng việc
làm ăn bị giảm sút, kinh tế trở nên khó khăn. Từ đó, dẫn đến bản thân người bị bôi
nhọ trở nên u buồn và đau khổ. Như vậy, TTVTT xuất phát từ hành vi trái pháp luật

xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể.
Thứ hai, trách nhiệm bồi thường TTVTT trong từng trường hợp bị tổn thất là
khác nhau. Bởi lẽ, TTVTT là những thiệt hại phi vật chất, không mang tính chất kinh
tế và tài sản24. Cho nên mục đích của bồi thường TTVTT chỉ mang tính chất xoa dịu
nỗi đau cho chủ thể bị thiệt hại chứ không mang tính chất bù đắp tồn bộ cho những
TTVTT. Căn cứ vào điều kiện, hoàn cảnh xảy ra hành vi xâm phạm thì trách nhiệm
bồi thường TTVTT trong từng trường hợp sẽ khác nhau. Ví dụ, cuộc sống hơn nhân
khơng hạnh phúc do ơng A ngoại tình, nên bà B là vợ của A đã tổ chức đánh ghen bà
C tại khu dân cư làm cho bà C bị mất mặt trước mọi người và xúc phạm danh dự bà
C. Cũng trong trường hợp đó, nếu bà B tổ chức đánh ghen bà C tại một nơi vắng vẻ
như tại bãi đất hoang thì mức độ TTVTT của bà C sẽ thấp hơn khi bị đánh ghen ở
khu dân cư. Cho nên, mức độ bồi thường trong hai trường hợp cũng sẽ khác nhau.
Thứ ba, trách nhiệm bồi thường TTTVTT không thể khơi phục lại hồn tồn
như tình trạng ban đầu. Những phát sinh về cảm xúc, tâm lý do TTVTT mang lại
khơng thể nào khắc phục tồn bộ được. TTVTT không thể đo đếm được bằng giá trị
vật chất, không thể dùng hình thức bồi thường vật chất là có thể khơi phục được
TTVTT25. Chính vì thế, chúng ta chỉ có thể bù đắp một khoản tiền nhằm xoa dịu một
phần nỗi đau mà người bị thiệt hại gánh chịu mà thơi. Ví dụ, đối với thiệt hại do hành
vi xâm phạm đến tính mạng, thì việc bồi thường TTVTT chỉ mang tính chất xoa dịu
nỗi đau cho gia đình mà thôi chứ không thể nào bù đắp nỗi những tổn thương mà gia
đình phải gánh chịu khi chứng kiến người thân của mình chết.
Thứ tư, bồi thường thiệt hại bằng tiền không phải là biện pháp duy nhất để khắc
phục TTVTT. Bên cạnh một khoản tiền để bù đắp TTVTT thì chúng ta cịn có thể sử
dụng nhiều biện pháp khác để khắc phục TTVTT như: xin lỗi, cải chính, cơng khai...
Trong thực tế, nhiều trường hợp các biện pháp này lại có hiệu quả cao hơn biện pháp

Võ Thị Oanh, tlđd (20), tr. 13.
Đỗ Văn Đại, (2010), Luật bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng – Bản án và bình luận bản án, Nxb. Chính
trị quốc gia, tr. 260.
24

25

18


BTTH26. Pháp luật Nhật Bản ngoài việc quy định về khoản tiền bù đắp TTVTT cũng
thừa nhận các biện pháp khôi phục lại danh dự cho người bị thiệt hại. Điều 723 Bộ
luật dân sự Nhật bản quy định: “Nếu một người gây thiệt hại cho uy tín của người
khác, thì theo u cầu của người này Tịa án buộc người gây thiệt hại tiến hành các
biện pháp cần thiết nhằm khơi phục uy tín của người bị thiệt hại hoặc vừa BTTH vừa
khơi phục uy tín”.
Thứ năm, trách nhiệm bồi thường TTVTT có thể gắn liền hoặc độc lập với trách
nhiệm bồi thường vật chất. Chẳng hạn như trong trường hợp người bị đưa vào trường
giáo dưỡng chỉ TTVTT do hành vi trái pháp luật của người thi hành cơng vụ gây ra
thì Nhà nước chỉ chịu trách nhiệm bồi thường TTVTT mà không chịu trách nhiệm
BTTH về vật chất hoặc trong trường hợp xâm phạm đến sức khỏe của người khác thì
ngồi các khoản chi phí cứu chữa, bồi dưỡng cho người chăm sóc người bị thiệt hại,
thiệt hại thực tế bị giảm sút, còn phải bồi thường một khoản tiền bù đắp TTVTT27.
1.1.4. Ý nghĩa của trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần
Thiệt hại về tinh thần ln là một đại lượng khó xác định. Đây là một vấn đề
gây ra nhiều tranh cãi bởi vì thiệt hại về tinh thần rất khó đong đếm. Khi mà xã hội
ngày càng phát triển, đời sống tinh thần con người ngày càng được chú trọng. Ở nước
ta, một đất nước ln coi trọng truyền thống đồn kết theo phương châm “lá lành đùm
lá rách” hay “một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ” là di sản tốt đẹp của mình. Vì vậy, vấn
đề bảo vệ các giá trị tinh thần của con người trước các hành vi xâm phạm luôn nhận
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Việc thừa nhận trách nhiệm bồi thường
TTVTT và quy định các điều luật để thể chế nó có ý nghĩa vô cùng quan trọng được
thể hiện qua các đặc điểm sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường TTVTT có ý nghĩa trong việc bù đắp lại một
phần thiệt hại.

Sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm và uy tín là vốn quý của con người.
Khi con người bị một chủ thể xâm phạm đến quyền trên thì người gây ra thiệt hại
phải bồi thường một khoản tiền, gọi là bồi thường thiệt hại về vật chất để khắc phục
hậu quả cho người bị thiệt hại như: chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, thu nhập thực
tế bị giảm sút, chi phí hợp lý cho việc mai táng… Tuy nhiên, không chỉ dừng lại ở
việc bồi thường thiệt hại về vật chất mà người bị thiệt hại còn bị sa sút về mặt tinh
Võ Phan Thị Ngọc Lan (2017), Trách nhiệm bồi thường tổn thất về tinh thần theo quy định của Bộ luật Dân
sự, Luận văn thạc sĩ, Đại học Luật Tp. Hồ Chí Minh, tr. 26.
27
Võ Thị Oanh, tlđd (21), tr. 20.
26

19


×