Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 75 trang )

Đề tài

ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG NHO GIA ĐẾN ĐƯỜNG
LỐI TRỊ NƯỚC QUA TÁC PHẨM “TAM QUỐC DIỄN
NGHĨA”

Sinh viên thực hiện:

Nguyễn Thị Hà

Giảng viên hướng dẫn:

TS Trần Hồng Lưu

0


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài.
Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc như Tam Quốc diễn nghĩa, Thủy Hử, Tây
du ký, Nho lâm ngoại sử, Hồng lâu mộng đã được liệt vào kho tàng văn hóa của
Trung Quốc, đồng thời cũng là tài sản văn hóa của thế giới. Tam Quốc diễn nghĩa
(thường được gọi là Tam Quốc) là một trong những tiểu thuyết ra đời sớm nhất,
phổ biến rộng rãi và được nhân dân Trung Quốc và thế giới yêu thích. Tác phẩm
xuất hiện vào cuối Nguyên đầu Minh (thế kỷ XIV). Đương thời có những nghệ
nhân chuyên đi kể chuyện ở các chợ, các phố phường. Một trong những đề tài kể
chuyện là “thuyết tam phân” (Tam Quốc). Sử sách ghi lại rẳng đời Đường (thế kỷ
VII – X) người ta đã kể những sự tích của những nhân vật như Lưu Bị, Tào Tháo,
Quan Vũ, Trương Phi, Gia Cát Lượng… Đến thời Tống Nguyên (thế kỉ X – XIV)
đã xuất hiện những chuyện dân gian và vở kịch dân gian về đề tài Tam Quốc. Dựa
vào những cuốn sử biên niên như Hậu Hán thư (Phạm Vĩ), Tam Quốc chí (Trần


Thọ), Tam Quốc chí chú (Bùi Tùng Chi) và đặc biệt là dựa vào những tác phẩm
văn học dân gian, nhà văn La Quán Trung để viết nên bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ
Tam Quốc diễn nghĩa này.
Tam Quốc là tiểu thuyết lịch sử đầu tiên của Trung Quốc. Nếu như ở tiểu
thuyết lịch sử của nhà văn anh W.Scott (1771 – 1832) lịch sử chỉ là cái nền, cịn
nhân vật là hư cấu thì ở tiểu thuyết lịch sử của La Quán Trung sự kiện và con
người đều là của lịch sử. Người ta nói Tam Quốc “bảy thực ba hư” ý nói thành
phần hư cấu rất ít. Phần hư cấu là của tác giả sáng tạo hoặc lấy từ các tác phẩm văn
học dân gian, còn phần “thực” lấy từ sử biên niên. Tam Quốc chí thơng tục diễn
nghĩa có nghĩa là diễn giảng một cách nôm na dễ hiểu về cuộc chiến tranh của ba
vương quốc Ngụy, Thục, Ngơ. Do tính bao quát cả một thời kỳ lịch sử dài với

1


nhiều sự kiện, do thể hiện được số phận của nhiều nhân vật lịch sử một cách nghệ
thuật nên giới nghiên cứu Xô viết gọi Tam Quốc là bộ tiểu thuyết sử thi đồ sộ.
Tam Quốc là bộ tiểu thuyết chương hồi đầu tiên của Trung Quốc. Phạm vi
ảnh hưởng của nó rất rộng, khơng những ở Trung Quốc mọi người đều say mê đọc,
mà bạn đọc rộng rãi ở vùng Đông Nam Á cũng rất quen thuộc. Tư tưởng chủ đạo
của La Quán Trung trong tác phẩm chủ yếu hình thành do ảnh hưởng của học
thuyết Khổng giáo kết hợp với vài yếu tố Phật giáo và Đạo giáo. Tác giả ln nói
đến mệnh trời, người nào thuận ý trời thì thành đạt, kẻ nào trái lẽ trời thì gặp tai
họa. Ông phân chia xã hội ra làm hai loại người: loại cao quý (như hoàng đế, quan
lại và các tướng tá) và loại hèn hạ (dân chúng, quân lính, những bộ lạc thiểu số thì
miêu tả thành bọn man di mọi rợ). Tất cả những sự hưng vong, những chiến thắng
và chiến bại, những cảnh điêu tàn chết chóc đều là biểu hiện của ý trời. Tuy nhiên,
ở tác phẩm này cũng biểu hiện sự xung đột giữa ý chí con người và mệnh trời. Sự
xung đột này tạo nên tính căng thẳng, mâu thuẫn và cả sự hấp dẫn trong tác phẩm.
Đây là tác phẩm văn học Trung Quốc nhưng giá trị của nó đã được khẳng

định rõ rệt và đã ăn sâu vào đầu óc của nhân dân Việt Nam từ khi được truyền bá
vào nước ta. Những nhân vật Lưu Bị, Tào Tháo, Khổng Minh, Quan Cơng, Trương
Phi, Điêu Thuyền, Lã Bố… đã có lúc trở thành thuật ngữ đời thường của nhân dân
nước Việt khi đàm luận với nhau. Chẳng hạn: nóng như Trương Phi; ba anh thợ da
thành một Gia Cát Lượng, đồ Điêu Thuyền, Tào Tháo đuổi… và nhiều vở hý kịch
liên quan đến các nhân vật này. Thông qua việc lựa chọn đề tài: “Ảnh hưởng của
tư tưởng Nho gia đến đường lối trị nước qua tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa”
chúng tơi muốn tìm hiểu rõ hơn và sâu sắc hơn về tư tưởng của Nho gia được tác
giả thể hiện trong tác phẩm. Từ đó, chúng tơi hi vọng có thể góp phần làm rõ hơn
tư tưởng này qua một thời đại từng vang bóng lẫy lừng trong lịch sử Trung Quốc –
thời Tam quốc phân tranh.

2


2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
Hơn 100 năm trôi qua, “Tam quốc diễn nghĩa” đã đóng đinh vào tâm khảm
của biết bao nhiêu thế hệ độc giả Việt với những hình tượng nhân vật mặc định
như một Tào Tháo gian hùng độc ác, một Lưu Bị nhân nghĩa xuất chúng, một Gia
Cát Lượng tính tốn như thần...
Song song với những bản Tam Quốc diễn nghĩa, ngay từ khi mới vào Việt
Nam, bộ truyện này cịn kéo theo nó hàng loạt ấn phẩm khác về các nhân vật, sự
kiện liên quan đến thời Tam Quốc, hoặc những cuốn khảo cứu về bản thân tác
phẩm Tam Quốc diễn nghĩa. Tất cả những ấn phẩm đó được các tác giả người Việt
sáng tác hoặc được dịch sang tiếng Việt để giúp cho những người u thích Tam
Quốc diễn nghĩa có thêm được những góc nhìn khác nhau về tác phẩm văn chương
bất hủ này.
Chúng ta có thể liệt kê một vài tác phẩm khảo cứu Tam Quốc như:
1. Thiện Bá – Tào Trọng Hoài (1999), Tào Tháo, tập I, Nxb. Lao động.
2. Thiện Bá – Tào Trọng Hoài (1999), Tào Tháo, tập II, Nxb. Lao động.

3. Phùng Thế Bản (2009), Thuật dùng người thời Tam Quốc, Nxb. Thanh niên.
4. Sài Vũ Cầu (1999), Mưu lược gia tinh tuyển, tập I, Nxb. Công an nhân dân.
5. Mao Tơn Cương (2011), Tam Quốc bình giảng, Nxb. Văn học.
6. Trần Văn Đức (2010), Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện, Nxb. Thời
Đại.
7. Nguyễn Phương Hòa – Nguyễn Dũng Minh (2005), Những câu chuyện mưu
lược nổi tiếng, Nxb. Công an nhân dân.
8. Nguyễn Tử Quang (1996), Tam Quốc bình giảng, Nxb. Văn học.
9. Thái Cảnh Tiên (1990), Danh nhân Trung Quốc, Nxb. Thời đại.
10.Nói chuyện Tam Quốc của Vũ Tài Lục (1998), Nxb. Thời đại.
Những công trình nghiên cứu trên có giá trị khoa học cao, đã phân tích tác
phẩm và các nhân vật ở dưới những góc nhìn khác nhau, thậm chí đối lập nhau
3


(chẳng hạn như sự đánh giá mới mẻ về vai trị và vị trí của nhân vật Tào Tháo mà
trước đây coi là xảo trá, là phản diện). Nhìn một cách tổng qt các cơng trình đó
đã giải quyết được những vấn đề, đề tài xung quanh tác phẩm. Đó là những chỉ
dẫn, gợi ý hết sức quý báu cho việc triển khai nội dung nghiên cứu của khóa luận.
Tuy vậy cho đến nay, chưa có cơng trình nghiên cứu nào có tính hệ thống về
ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia đến đường lối trị nước biểu hiện qua tác phẩm
này. Trên cơ sở những ý tưởng mà các tác giả trước đã đề cập nhưng chưa đi sâu
nghiên cứu chúng tơi sẽ tiếp tục tìm hiểu rõ thêm vấn đề này. Khố luận nhằm đưa
ra cái nhìn bao quát nhất về tư tưởng Nho gia được thể hiện trong tác phẩm này
nhất là trong đường lối trị nước.
3. Mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ nghiên cứu.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
- Làm rõ ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia trong đường lối trị nước được
thể hiện trong tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa, qua đó thấy được giá trị và hạn chế
của tư tưởng này.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Trình bày sơ bộ cuộc đời, sự nghiệp của La Quán Trung và tóm tắt nội
dung tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa.
- Nêu bật ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia trong đường lối trị nước được
thể hiện trong tác phẩm, qua các nhân vật cụ thể.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Tìm hiểu tư tưởng Nho gia và ảnh hưởng của tư tưởng này đến đường lối trị
nước qua tác phầm Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung.

4


4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Do phạm vi của khóa luận nên chỉ tập trung xem xét tư tưởng Nho gia qua
Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung nhằm mô tả rõ hơn ảnh hưởng của tư
tưởng này đến đường lối trị nước ở xã hội Trung Quốc đương thời.
5. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này chúng tôi sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
o

Phương pháp khảo sát.

o

Phương pháp thống kê.

o

Phương pháp phân tích tổng hợp.


o

Phương pháp so sánh.

o

Phương pháp đối chiếu lịch sử.

Trên cơ sở kết hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử cùng với phương pháp logic và lịch sử và các tài liệu mới nhất
được mổ xẻ dưới góc nhìn hiện đại về đề tài đang xem xét.
6. Đóng góp của đề tài.
- Nhằm mục đích hệ thống lại một cách khái quát nhất tư tưởng Nho gia được
tác giả La Quán Trung thể hiện trong tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa. Từ đó,
chúng tơi mong muốn đưa đến cho người đọc một cái nhìn tồn diện về tư tưởng
Nho gia.
- Góp phần làm rõ ảnh hưởng của học thuyết Nho giáo đến đường lối trị nước
trong tác phẩm này.
7. Bố cục khóa luận.
Ngồi phần mở đầu và phần kết luận thì phần nội dung của đề tài chúng tôi
chia là hai chương, bốn tiết.

5


B. NỘI DUNG
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM
1.1. Cuộc đời và sự nghiệp tác giả La Qn Trung.

1.1.1. Cuộc đời.
Có rất ít tư liệu nói về cuộc đời nhà văn. Ta chỉ biết tác giả tên Bản, tự là
Quán Trung, biệt hiệu Hồ Hải Tản Nhân. Ông người Sơn Tây, sau chuyển xuống
sống ở Tiền Đường thuộc thành phố Hàng Châu (Chiết Giang) – một trong những
trung tâm văn hóa thời bấy giờ. Giả Trọng Minh – bạn ơng cho biết La Qn
Trung tính tình “ít hịa hợp với mọi người, vì thời thế nhiếu nhương nhiều biến cố”
nên ông đi phiêu bạt khắp nơi, về sau “không biết đời ông kết cục ra sao”.
Tác giả La Quán Trung sống trong thế kỷ XIV. Gia đình ơng có bầu khơng
khí văn hóa nồng nàn, từ thuở nhỏ ơng thích đọc sách, đọc nhiều sách kinh sử, các
thứ này đã đặt cơ sở sáng tác tốt đẹp cho ông sáng tác văn học về sau. Thời đại La
Quán Trung sinh sống là thời đại có mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp hết
sức gay gắt phức tạp, quý tộc dân tộc Mông Cổ xây dựng chính quyền đời Nguyên,
thực thi thống trị đàn áp đối với dân tộc Hán, dẫn đến đông đảo nhân dân Hán
chống đối, các nơi đều xuất hiện quân khởi nghĩa. Các nghĩa quân không những
chiến đấu với quân đội nhà Ngun, mà cịn thơn tính nhau, mong lật đổ nhà
Ngun và thống trị cả Trung Quốc. La Quán Trung trẻ tuổi tham gia một quân
khởi nghĩa, nhậm chức tham mưu. Lúc đó, La Qn Trung ấp ủ hồi bão chính trị,
mong mình có thể lên ngơi vua quản lý đất nước trong thời buổi loạn lạc. Sau đó,
quân khởi nghĩa do Chu Nguyên Chương dẫn đầu giành được thắng lợi cuối cùng,
xây dựng vương triều nhà Minh, hồi bão chính trị của La Quán Trung bị tan vỡ,
ông bèn ở ẩn và bắt đầu sáng tác văn học.

6


1.1.2. Sự nghiệp.
Ngoài bộ Tam Quốc diễn nghĩa, tác giả La Quán Trung còn viết những tiểu
thuyết khác như Tùy Đường diễn nghĩa, Tân Đường ngũ đại sử diễn nghĩa, Bắc
Tống tam toại bình yêu truyện… Tuy nhiên, rất tiếc những tác phẩm này đều đến
với chúng ta dưới hình thức bị thay đổi và sửa chữa rất nhiều, cho nên chúng ta

khó có thể xác định tác giả thật sự của chúng. Có thuyết cịn nói rằng ơng là đồng
tác giả Thủy Hử nhưng theo ý kiến nhiều chuyên gia, nhà phê bình thì phong cách
của Thủy Hử khác hẳn Tam Quốc nên ý kiến trên khơng có căn cứ.
1.2. Vài nét về tác phẩm Tam Quốc diễn nghĩa.
1.2.1. Tóm tắt tác phẩm.
Truyện lấy bối cảnh vào thời suy vi của nhà Hán khi mà những hoàng đế
cuối cùng của nhà Hán quá tin dùng giới hoạn quan mà gạt bỏ những bề tơi trung
trực. Triều đình ngày càng bê tha, mục nát, khiến kinh tế suy sụp và an ninh bất ổn.
Đến đời Hán Linh Đế, loạn giặc Khăn Vàng nổ ra do Trương Giác, một người đã
học được nhiều ma thuật và bùa phép chữa bệnh, cầm đầu.
Hà Tiến chỉ huy các quan đại thần chẳng mấy chốc dập tắt được quân nổi
loạn. Hà Tiến là anh rể vua và nhờ đó mà được nhậm chức đại tướng quân của
triều đình. Tuy nhiên, Hà Tiến lại mắc mưu của đám hoạn quan, bị chúng lừa vào
cung và giết chết. Liền sau đó các quan đại thần nổi giận chạy vào cung giết sạch
đám hoạn quan này.
Trong số các quan lại cứu vua có Đổng Trác là thứ sử Tây Lương. Đổng
Trác nhân cơ hội này vào cung bảo vệ vua. Sau đó ơng ta phế truất Thiếu Đế và lập
Trần Lưu Vương lên làm hoàng đế, rồi làm tướng quốc nắm hết quyền triều chính
vào tay mình.
Hành vi tàn bạo, lộng quyền của Đổng Trác khiến quan lại vô cùng phẫn nộ,
họ hội quân với Viên Thiệu và lập mưu khiến Đổng Trác dời đô từ Lạc Dương về

7


Tràng An. Cuối cùng Đổng Trác bị giết bởi chính người con nuôi là Lã Bố, một
chiến binh dũng mãnh, do cùng giành giật một người con gái đẹp là Điêu Thuyền.
Trong lúc đó, trong các quan lại lục đục với nhau, Tôn Kiên – cha của Tôn
Sách và Tôn Quyền, lợi dụng lúc lộn xộn, đã lấy được ngọc tỷ triều đình. Khơng
cịn triều đình trung ương vững mạnh, các quan lại quay về địa phương của mình

và bắt đầu giao chiến với nhau, nhiều anh hùng như Tào Tháo và Lưu Bị, mặc dù
chưa chính thức được ban tước và quân, cũng bắt đầu xây dựng lực lượng riêng.
Nhân vật Tào Tháo trong Kinh Kịch. Theo truyền thống, khn mặt ơng
được tơ trắng để tượng trưng cho tính cách gian hùng. Quyền lực của Tào Tháo
ngày một mạnh lên sau một loạt những sự kiện sau đó. Trong chiến dịch quân sự
đánh Viên Thiệu, chiến thắng quyết định của Tào Tháo là tại trận Quan Độ. Thất
bại của Viên Thiệu đã đặt cơ sở cho Tào Tháo củng cố quyền lực tuyệt đối khắp
miền bắc Trung Quốc.
Cũng trong thời gian này, Lưu Bị đã lập được căn cứ ở Nhữ Nam và tự đem
quân đi tấn công Tào Tháo nhưng bị thất bại, Lưu Bị bèn tới Kinh Châu nhờ Lưu
Biểu là một người anh họ xa của Lưu Bị cho lánh nạn. Tại đó, Lưu Bị sau ba lần
đến thăm lều cỏ của Gia Cát Lượng, đã chiêu mộ được ông ta làm mưu sĩ. Hai lần
đầu tiên, Gia Cát lấy cớ đi có việc để từ chối gặp khách, chỉ có lần cuối cùng vì
cảm kích bởi sự chân thành và kiên trì của Lưu Bị mà Gia Cát Lượng mới quyết
định theo phò tá.
Chẳng may Lưu Biểu mất, để lại Kinh Châu cho hai con trai nhỏ. Sau khi
trừ được Viên Thiệu, Tào Tháo lập tức nhịm ngó về phía nam và tự đem qn đi
chiếm Tân Dã. Lưu Bị được lòng dân chúng thành Tân Dã nên trước viễn cảnh
bị xâm chiếm, toàn bộ dân trong thành một lòng xin đi theo Lưu Bị. Lưu Bị đành
đưa dân Tân Dã về thành Tương Dương của người con thứ của Lưu Biểu, tại đây
Lưu Bị bị từ chối khơng cho vào thành. Khơng cịn cách nào khác, ông phải tiếp
tục nam tiến xuống Giang Hạ, là thành của Lưu Kỳ, người con trưởng của Lưu
8


Biểu. Ở Giang Hạ, Lưu Bị cuối cùng cũng tạm có được một chỗ đặt chân để chống
lại cuộc tấn cơng dữ dội của Tào Tháo.
Cịn ở phía tây nam, Tôn Quyền vừa mới lên nắm quyền sau cái chết của
người anh là Tôn Sách, cả Tào Tháo lẫn Lưu Bị đều định liên kết với Tôn Quyền.
Tuy nhiên, Gia Cát Lượng tự mình đến quận Sài Tang và thuyết phục được Tôn

Quyền hợp tác với Lưu Bị. Liên minh này đã dẫn đến thất bại thảm hại nhất của
quân đội Tào Tháo tại trận Xích Bích.
Với ý định loại trừ Lưu Bị, người mà Tôn Quyền cho là một mối đe dọa tiềm
tàng, ông ta bày mưu gả em gái cho Lưu Bị. Sau đó, Lưu Bị sang Sài Tang để làm
lễ cưới. Tuy nhiên, Tôn Quyền rất nghe lời mẹ Ngô Quốc Thái phu nhân; bà này
rất quý Lưu Bị và không cho ai hãm hại Lưu Bị. Cũng do mưu lược của Gia Cát
Lượng mà Lưu Bị cuối cùng đã thoát được quay về Giang Hạ cùng với người vợ
mới.
Tình trạng giằng co giữa ba thế lực vẫn bế tắc cho đến khi Tào Tháo chết
vào năm 219 có lẽ do u não (Tào Tháo chết do bệnh Thiên Đầu Thống [Nguyễn
Tiến Đức]). Năm sau đó, con thứ của Tào Tháo là Tào Phi ép phế Hiến Đế và lập
ra nhà Ngụy. Đáp lại, Lưu Bị tự xưng đế Thục Hán (để chứng tỏ vẫn mang dòng
máu quý tộc nhà Hán nhưng đặt đô tại Thành Đô).
Lúc này, Tơn Quyền lại ngả về phía Ngụy, ơng chịu để Tào Phi phong
vương nước Ngô. Tôn Quyền làm việc này nhằm tập trung lực lượng chống Lưu Bị
do Lưu Bị khởi binh đánh Ngô để trả thù cho Quan Vũ bị Tôn Quyền giết chết.
Một loạt những sai lầm mang tính chiến lược do hành động nóng vội của
Lưu Bị đã dẫn đến thất bại của quân Thục Hán trong trận Hào Đình. Tuy nhiên,
Lục Tốn, qn sư phía Ngơ đã từng chĩa mũi nhọn tấn cơng về phía Thục đã ngưng
khơng tiếp tục dấn sâu về phía tây. Vì tin vào địn trừng phạt của Lục Tốn, Tào Phi
phát động một cuộc xâm lược vào nước Ngơ vì cho rằng như vậy quân Ngô vẫn

9


cịn ở ngồi nước. Cuộc tấn cơng này đã bị đè bẹp bởi sự kháng cự quyết liệt của
quân Ngô cùng với bệnh dịch bùng phát phía bên quân Ngụy.
Trong lúc đó tại nước Thục, Lưu Bị bị bệnh chết và để lại con trai Lưu
Thiện cịn nhỏ dại, phó thác cho Gia Cát Lượng chăm sóc. Nắm bắt cơ hội này,
Tào Phi gắng mua chuộc một số lực lượng, trong đó có Tơn Quyền và các bộ tộc

thiểu số để tấn công nước Thục. Một sứ giả của Thục thuyết phục được Tôn Quyền
lui quân, nhưng Gia Cát Lượng vẫn phải lo xử lý quân của các bộ tộc thiểu số.
Một trong những mưu lược tài ba cuối cùng của Gia Cát Lượng là tiến hành
chiến dịch thu phục Mạnh Hoạch, thủ lĩnh bộ tộc người Man. Gia Cát Lượng đã
bảy lần bắt sống Mạnh Hoạch, lần nào cũng cho thả ra nguyên vẹn. Mạnh Hoạch vì
cảm động bởi mưu trí và lịng nhân từ của Gia Cát Lượng nên đã thề mãi mãi gắn
bó với nhà Thục.
Trong lúc này, Tào Phi cũng lâm bệnh mà chết. Gia Cát Lượng liền nhìn
về phía bắc. Tuy thế, ơng khơng cịn sống được bao lâu nữa. Chiến thắng đáng kể
cuối cùng của ơng chống lại qn Ngụy có lẽ là chiêu hàng được Khương Duy về
phía mình, Khương Duy trước đó là một tướng bên Ngụy có tài năng quân sự.
Khương Duy tiếp tục tiến hành chiến dịch của Gia Cát Lượng chống lại Tào Ngụy
tới một kết cục khá cay đắng, ngay cả sau khi Lưu Thiện đầu hàng, Khương Duy
bày mưu kích động xung đột giữa hai tướng lớn phía Ngụy. Kế sách này đã tiến rất
gần đến thành công. Thật không may, bệnh tim bộc phát ngay giữa trận đánh cuối
cùng, ông liền dùng kiếm tự vẫn, đánh dấu sự kháng cự cuối cùng của nhà Thục
Hán.
Cuộc chiến kéo dài nhiều năm giữa Ngụy và Thục thì phía Ngụy liên tục đổi
ngôi, nhà họ Tào ngày một yếu thế. Cuối cùng, vào thời Tào Hoán, cháu đại thần
Tư Mã Ý là Tư Mã Viêm bắt Tào Hoán nhường ngôi giống như Tào Phi đã từng ép
Hiến Đế, tức là Tấn Vũ Đế. Tấn Vũ Đế sau đó lập ra nhà Tấn vào năm 265.

10


Vua cuối cùng của Ngô là Tôn Hạo đến năm 280 bị Tấn Vũ Đế chinh phục.
Cả ba vua cuối cùng của ba nước là Tào Hoán, Lưu Thiện và Tôn Hạo, được sống
cho đến tận cuối đời. Và thế là thời đại Tam Quốc cuối cùng cũng chấm dứt sau
gần một thế kỷ đầy xung đột.
1.2.2. Hệ thống nhân vật chính trong tác phẩm.

1.2.2.1. Tào Tháo.
Nói đến Tam Quốc thì trước hết phải nói về Tào Tháo. Tào Tháo xuất hiện
trong hồn cảnh vua tơi nhà Hán đang đuổi đánh giặc Khăn Vàng (quân nổi loạn
do Trương Giác cầm đầu). Tào Tháo xuất hiện được miêu tả về hình dạng: “Mình
cao bảy thước, mắt nhỏ râu dài” [18, 42]. Lúc bấy giờ Tào Tháo đang là quan kỵ
đô úy, được giới thiệu: “Người ở Tiêu Quận nước Bái, họ Tào tên Tháo, tự xưng là
Mạnh Đức” [18, 42]. Về xuất thân, cha Tào Tháo là Tào Tung, vốn xưa họ Hạ
Hầu, nhận làm con nuôi quan trung thường thị Tào Đằng, nên đổi theo họ Tào,
Tháo tiểu tự là A Man và đặt một tên nữa là Cát Lợi.
Truyện kể rằng, Tào Tháo ngay từ lúc còn trẻ chỉ thích săn bắn, ham múa
hát và “nổi tiếng là một tay cơ biến quyền mưu” [18, 42]. Người chú Tào Tháo
thấy Tháo chơi bời vô độ, giận lắm bèn mách với cha Tào Tháo là Tào Tung, Tung
trách mắng Tháo. Tháo nghĩ ngay ra kế, lúc thấy chú đến, Tháo giả tảng nằm quay
ra đất, làm như trúng phong. Chú Tháo thấy vậy cả sợ, chạy đến bảo Tào Tung,
Tung vội đến xem, thấy Tháo khơng có bệnh gì liền hỏi: “Chú mày nói mày trúng
phong đã khỏi rồi à?” Tháo điềm nhiên trả lời cha: “Thưa cha, thuở bé đến giờ con
có bệnh ấy đâu! Chẳng qua chú con ghét con cho nên đặt điều ra thế” [18, 43] Tào
Tung tưởng thật, từ đấy người chú kể tội Tháo, Tung đều không nghe nữa, nhân
thể Tháo càng được tự do phóng đãng hơn xưa. Chi tiết này cho thấy, ngay từ khi
cịn nhỏ, Tào Tháo đã có rất nhiều mưu mẹo.
Tháo lớn lên, lúc bấy giờ có người tên Kiều Huyền bảo Tháo rằng: “Thiên
hạ sắp loạn, phi có tay tài giỏi hơn đời thì khơng sao dẹp được loạn. Làm được như
11


thế có lẽ chỉ có bác” [18, 43]. Người đất Nam Dương là Hà Ngung một hôm trông
thấy Tháo cũng tán tụng rằng: “Nhà Hán sắp mất, yên được thiên hạ chắc chỉ có
người này” [18, 43]. Người đất Nhữ Nam là Hứa Thiệu có tiếng là giỏi biết người
đã nhận xét Tào Tháo: “Là năng thần của đời trị và gian hùng của đời loạn” [18,
43]. Điều đó có nghĩa là ở thời bình Tào Tháo là bầy tơi giỏi, còn ở thời loạn, Tào

Tháo là kẻ gian hùng. Các sự kiện này, một lần nữa thể hiện nhất quán tư tưởng
mệnh trời – sấm ký được tác giả tuân thủ khi báo trước sự ra đời của một nhân vật
hay sự kiện đặc biệt nào đó.
Đúng như lời nhận xét của Hứa Thiệu, trong hoàn cảnh nhà Hán suy vong
cực độ, triều đình nhiễu nhương, bọn hoạn quan lộng hành, nhân dân khắp nơi nổi
dậy làm phản… hình tượng Tào Tháo trong lịch sử được biết đến là một kẻ “gian
hùng”, “gian thần”, “gian tặc”. Nguyên nhân khiến Tào Tháo trở thành nhân vật
phản diện trong tác phẩm có rất nhiều, và nhiều nhất là chữ “gian”. Đối với người
xưa mà nói, thì thốn đoạt vương triều Hán là gian, xảo trá cũng là gian. Nhưng
điều làm cho độc giả “ác cảm” với Tào Tháo nhất là câu nói “Thà ta phụ người chứ
khơng để người phụ ta” [18, 102]. Một người thà tự mình khơng tốt với người
thiên hạ chứ quyết không để người thiên hạ không tốt với mình, người đó thật q
xấu.
Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến trái chiều về nhân vật này, Lỗ Tấn trong
lịch sử lại coi Tào Tháo là anh hùng. Trong bài Quan hệ giữa Ngụy Tấn phong độ
và văn chương với thuốc và rượu, Lỗ Tấn nói: “Tào Tháo là người rất có bản lĩnh,
chí ít cũng là một anh hùng. Tôi không cùng cánh với Tào Tháo, nhưng rất khâm
phục Tào Tháo”.
1.2.2.2. Lưu Bị.
Hình tượng Lưu Bị xuất hiện trong tác phẩm như là nhận vật lý tưởng (hay ít
ra là nhân vật trung tâm) của tác giả La Qn Trung. Vì thế, khơng như Tào Tháo
chỉ được miêu tả bằng một vài nét, Lưu Bị xuất hiện được miêu tả rất chi tiết về
12


tướng mạo: “Mình cao bảy thước rưỡi, hai tai chảy xuống gần vai, hai tay buông
khỏi đầu gối, mắt trông thấy được tai, mặt đẹp như ngọc, môi đỏ như son” [18, 35].
Lưu Bị tự Huyền Đức, được miêu tả là “dòng dõi Trung Sơn Tĩnh Vương Lưu
Thắng, cháu năm đời vua Cảnh Đế nhà Hán” [18, 35], sau này được vua Hiến Đế
nhận họ hàng, gọi Bị là Hoàng Thúc. Lưu Bị là cháu của Lưu Hùng, con trai Lưu

Hoằng. Hoằng mất sớm, Bị mồ côi cha, thờ mẹ chí hiếu, nhà nghèo, phải làm nghề
dệt chiếu, đóng dép để sinh sống.
Nhà Lưu Bị ở thơn Lâu Tang, phía đơng nam nhà có cây dâu rất lớn, cao
hơn năm trượng, ở xa trơng như chiếc lọng trên xe. Có người đi qua thấy thế từng
nói rằng: “Nhà có cây dâu này tất sinh quý tử” [18, 36]. Lưu Bị lúc cịn nhỏ, nơ
đùa với lũ trẻ trong làng, thường đứng dưới gốc cây bảo rằng: “Ngày sau ta làm
vua, cũng ngự cái xe có tán che như cây dâu này” [18, 36]. Người chú là Lưu
Nguyên Khởi nghe nói, lấy làm lạ nghĩ rằng thằng bé này hẳn là kẻ phi thường
đây, nhân thấy Huyền Đức nhà nghèo, thường tư cấp cho để ăn học, thọ giáo Trịnh
Huyền và Lưu Thực. Năm 28 tuổi, Lưu Bị kết bạn thân, lập “vườn đào kết nghĩa”
cùng Quan Vũ tự Vân Trường (Quan Công), người đất Giải Lương, Hà Đông và
Trương Phi, tự Dực Đức, người ở Trác Quận.
Trong số các nhân vật anh hùng thời Tam Quốc, Lưu Bị luôn là một câu đố,
câu đố đó giống như tên tự của Lưu Bị (Huyền Đức) – huyền bí lại càng huyền bí.
Lưu Bị xuất hiện trong tác phẩm được miêu tả với hai bàn tay trắng, vô danh, luôn
phải bôn ba khắp nơi. Ơng được ghi nhận là một người có chí anh hùng, có nghĩa
anh hùng, có hồn anh hùng, là một nhân vật chính diện vừa có tài, vừa có đức. Vì
thế đâu đâu cũng tơn trọng khoản đãi Lưu Bị, thậm chí Tào Tháo cịn cho rằng chỉ
có mình và Lưu Bị là anh hùng thực sự: “Nay anh hùng thiên hạ bây giờ chỉ có sứ
quân (tức Lưu Bị) và Tháo mà thơi” [18, 412].
Hình tượng Lưu Bị hiện lên trong tác phẩm đối lập với Tào Tháo, châm
ngơn của Lưu Bị hồn tồn khác với Tào Tháo: “Thà ta chết thì thơi, chớ khơng
13


chịu làm điều phi nghĩa” [19, 58]. Ông là một ơng vua nhân từ kiểu Nho giáo, có
hồi bão: “Trên báo nước nhà, dưới yên lê dân”. Tuy ông không có những chiến
cơng hiển hách nhưng ơng làm những việc nhân nghĩa: Ơng lấy đức dạy người chứ
khơng làm điều gì ích kỷ hại nhân. Mặc dù ơng cịn mang nặng tư tưởng chính
thống nhưng trong thời loạn lạc, Lưu Bị vẫn là ông vua tốt biết thương dân, chăm

lo đến hạnh phúc của nhân dân nên được muôn dân yêu quý. Lưu Bị là nhân vật lý
tưởng của tác giả, đồng thời cũng là ước mơ của nhân dân trong những năm tháng
nước sôi lửa bỏng, vàng thau lẫn lộn, đạo đức đảo điên.
Dù được coi là nhân vật chính thống với đức nhân nghĩa nhất quán cho cả
cuộc đời hoạt động, song vì chữ tín thái q, khi trả thù cho em kết nghĩa là Quan
Công, Lưu Bị đã không nghe lời can ngăn của Khổng Minh, dẫn đến thất bại khi
tiến đánh Đông Ngô.
1.2.2.3. Khổng Minh (Gia Cát Lượng).
Khổng Minh Gia Cát Lượng xuất hiện trong tác phẩm thông qua lời nhận
xét, giới thiệu của Từ Thứ với Lưu Bị. Về xuất thân, theo như lời Từ Thứ thì
Khổng Minh “người q ở Dương Đơ, quận Lang Nha, họ Gia Cát tên Lượng, tự
Khổng Minh; vốn là dòng dõi nhà quan Tư lệ hiệu úy Gia Cát Phong ngày xưa, cha
tên là Khuê, tự là Tử Cống, nguyên làm quận thừa ở Thái Sơn” [18, 683]. Về tài
năng, khi Lưu Bị hỏi tài đức của Khổng Minh so với Từ Thứ thế nào, Từ Thứ
khen: “Tôi (tức Từ Thứ) mà so với người đó (tức Khổng Minh), khác nào ngựa hèn
sánh với kỳ lân, quạ đen sánh với phượng hồng, người đó thường ví mình với
Quản Trọng, Nhạc Nghị. Cứ như ý tơi, Quản, Nhạc cịn kém xa. Người đó có tài
ngang trời dọc đất, thiên hạ chắc chỉ có một khơng hai” [18, 682]. Quản Trọng là
nhà chính trị nước Tề thời Xuân Thu, Nhạc Nghị là thượng tướng quân nước Yên,
thời Chiến quốc, hai người này đều là những nhà chính trị, quân sự tài ba, lỗi lạc
một thời. Từ Thứ so sánh Khổng Minh với Quản, Nhạc là có ý ca ngợi tài năng
hơn người của Khổng Minh. Khơng chỉ có Từ Thứ ca ngợi Khổng Minh, Tư Mã
14


Huy khi nói chuyện với Lưu Bị và Vân Trường cũng đã từng khen: “Khổng Minh
có thể so sánh với Khương Tử Nha làm nên cơ nghiệp tám trăm năm của nhà Chu
và Trương Tử Phòng làm nên cơ nghiệp bốn trăm năm của nhà Hán” [19, 10].
Thủy Kính tiên sinh khi được Huyền Đức hỏi kì tài ở nơi nào, ông đã trả lời: “Phục
Long, Phượng Sồ chỉ cần một trong hai người ấy cũng đủ bình định thiên hạ” [18,

662], Phượng Sồ tức là Bàng Thống, tự Sĩ Ngun, cịn Phục Long ở đây chính là
Khổng Minh Gia Cát Lượng, còn gọi là Gia Cát Vũ Hầu. Câu nói của Thủy Kính
tiên sinh có ý là chỉ cần có một trong hai bậc danh sĩ này thì bất kỳ quốc gia nào
cũng được yên ổn và hưng thịnh. Những lời nhận xét ấy giúp ta phần nào hình
dung được tài năng uyên bác của Khổng Minh. Về tướng mạo, Khổng Minh Gia
Cát Lượng được miêu tả: “Cao tám thước, mặt đẹp như ngọc, đầu đội khăn lượt,
mình bận áo cánh hạc, hình dáng thanh thốt như tiên” [19, 27].
Theo nhận xét của nhiều nhà nghiên cứu, Khổng Minh Gia Cát Lượng là
nhân vật trung tâm của tiểu thuyết, bởi lẽ, tác giả đã dành ra hơn một nửa số trang
viết để tả những sự kiện xảy ra trong 27 năm hoạt động của đời ông. Sau “ba lần
đến thăm lều cỏ” của Lưu Bị, ông đã dời nơi ẩn cư ra hoạt động giúp Lưu Bị. Gia
Cát Lượng là một nhà chính trị, nhà quân sự, học giả thơng minh và đầy bí ẩn.
Theo những nhà phê bình nổi tiếng Trung Quốc như Kim Thánh Thán hay
Mao Tôn Cương thì Gia Cát Lượng một đời làm quan mà khơng mang được đồng
lương nào cho gia đình. Nói như vậy khơng phải có ý chê Gia Cát Lượng khơng
quan tâm đến gia đình mà là ca ngợi sự trong sạch, tận tâm với đất nước của ơng.
Ơng đã trở thành bậc thầy về trí tuệ, suy đốn, dụng binh và con đường đi đến
thắng lợi. Gia Cát Lượng thuộc nằm lịng binh pháp, nhưng ơng cũng từng làm trái
ngược với binh pháp, đó là phong cách dụng binh mới tùy cơ ứng biến, khơng bó
buộc trong khn mẫu. Ngồi ra, Khổng Minh Gia Cát Lượng còn là một nhà chế
tạo phương tiện chiến đấu nổi tiếng, là tiền đề cho việc nghiên cứu xe gỗ, xe ngựa
và các loại phương tiện khác sau này. Quân đội nước Thục dưới sự chỉ huy của ông
15


đã đánh nhiều trận tuyệt hay, những trận đánh nổi tiếng như “Không thành kế”,
“Thuyền cỏ mượn tên”... đã ăn sâu vào lòng người đọc hàng mấy thế kỷ nay. Có
thể nói, ơng là người có cơng đầu trong việc dựng lên cơ đồ cho nhà Thục Hán.
Tuy vậy, ngòi bút tác giả đã cường điệu nhân vật này một cách quá mức, làm ảnh
hưởng đến tính chân thực của hình tượng. Ví dụ, ơng có thể hơ phong hốn vũ,

biến những vật vơ tri thành sinh vật có hồn như trâu, ngựa gỗ… Đó là hạn chế của
nhân vật và cũng là hạn chế của thế giới quan thần linh của tác giả.
1.2.2.4. Tôn Quyền.
Tôn Quyền được miêu tả trong tác phẩm là một vị tướng tài trẻ tuổi, biết
chiêu mộ hiền tài khắp nơi về giúp việc nước cho mình. Tướng mạo của Tơn
Quyền được miêu tả trong tác phẩm: “Tôn Quyền người cằm vuông, miệng lớn,
mắt biếc, râu tía” [18, 560]. Tương truyền phụ mẫu của Tơn Quyền khi mang thai
Tơn Sách đã nằm mơ thấy mình nuốt mặt trăng vào bụng, khi mang thai Tôn
Quyền lại nằm mơ thấy mình nuốt mặt trời vào bụng, đó đều là những điềm báo
sinh được người mang nghiệp bá vương. Sứ nhà Hán là Lưu Yển, vào nước Ngô
trông mấy anh em nhà họ Tơn, có nói chuyện với người khác: “Ta xem tướng cả
mấy anh em họ Tôn, tuy rằng người nào cũng tài khí giỏi giang khác thường nhưng
đều hưởng lộc khơng được bền. Duy chỉ có Tơn Quyền, hình dong kỳ vĩ, cốt cách
dị thường, thực là tướng đại quý, vả lại hưởng được thọ cao, các anh em không
người nào bằng” [18, 560].
Đúng như giấc mơ của phụ mẫu Tôn Quyền, người sáng lập ra nước
Ngơ trong thời kì Tam quốc ấy là Ngơ Tơn Quyền, tự là Trọng Mưu, là người
Phú Dương, quận Ngô, là con thứ hai của Tôn Kiên, em của Tôn Sách. Ơng là
người trí dũng song tồn. Trên mặt qn sự, ơng biết xem xét, đánh giá tình hình,
tuyển chọn thời cơ có lợi để tranh giành với địch mạnh, Tơn Sách trước khi chết đã
nói với thân mẫu về Tơn Quyền: “Tài em con gấp mười con, có thể gánh vác việc
lớn” [18, 559]. Tào Tháo đã từng không lúc nào ngừng than thở: “Con người sống
16


phải có mưu như Tơn Quyền”. Trên mặt chính trị, ơng là người có tài năng chính
trị phi phàm, điều này thể hiện ở việc ông ổn định cục thế Giang Đông sau khi anh
là Tôn Sách qua đời, thể hiện ở việc chiêu mộ hiền sĩ và sử dụng nhân tài…
Có thể coi Tơn Quyền như một nhân vật trung hậu, có hiếu đối với cả mẹ
ni, với chị dâu và đối xử rất tốt với các quan lại, biết nghe lời can gián. Đặc biệt

trong thế trận Tam quốc, ông luôn được coi là nhân vật “trung dung” giữa Lưu Bị
và Tào Tháo, lúc thì ơng ở phe này, lúc lại ở phe khác, làm phong phú hơn cho cục
diện phân ba, khiến cho cuộc chiến giữa hai phía Thục – Ngụy càng hấp dẫn hơn.
1.2.3. Giá trị tác phẩm.
1.2.3.1. Giá trị lịch sử.
Bộ “Tam Quốc diễn nghĩa” kể câu chuyện lịch sử phức tạp trong hơn 100
năm từ năm 184 đến năm 280 sau công nguyên. La Quán Trung thu thập nhiều tài
liệu lịch sử, tạp ký, những truyện ít ai biết đến, tiểu thuyết dã sử và truyền thuyết
dân gian về Tam Quốc, dung hợp hoài bão chính trị và sự từng trải cuộc sống chiến
tranh khi tham gia qn khởi nghĩa nơng dân của mình, tái hiện sinh động lịch sử
đấu tranh chính trị và quân sự giữa ba nước Ngụy, Thục, Ngô.
1.2.3.2. Giá trị tư tưởng.
Bộ “Tam Quốc diễn nghĩa” do La Quán Trung sáng tác khơng những có giá
trị văn học quan trọng, mà cịn là một tác phẩm kiểu bách khoa tồn thư về xã hội
phong kiến, nó miêu tả về các mặt xã hội lúc đó. Ở Trung Quốc, ngày càng nhiều
chuyên gia, học giả nghiên cứu kiệt tác “Tam Quốc diễn nghĩa”, họ nghiên cứu giá
trị văn hoá và ý nghĩa hiện thực của nó từ nhiều góc độ như sử học, nhân tài học,
tâm lý học, truyền thông quan hệ công chúng, mưu lược học, quản lý học, quân sự
học, nghệ thuật học và luân lý học…
Nhiều tư tưởng và nhân vật trong Tam quốc diễn nghĩa đã ăn sâu vào đầu óc
nhân dân ta, ngay cả Hồ Chí Minh cũng từng viết: Vầng hồng sáng mãi dạ Quan
Công, sự tích ba anh em kết nghĩa vườn đào, “Tam cố thảo lư” - ba lần Lưư Bị đi
17


cầu Khổng Minh, các tích: nóng như Trương Phi, Điêu Thuyền hý Lã Bố, người
Việt mắng nhau điêu ngoa như Điêu Thuyền, về tài trí có thuật ngữ: Ba anh thợ da
bằng một Gia Cát Lượng… Tào Tháo rượt…

18



Chương 2
TƯ TƯỞNG NHO GIA QUA TÁC PHẨM “TAM QUỐC DIỄN NGHĨA”
VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA NÓ ĐẾN ĐƯỜNG LỐI TRỊ NƯỚC.
2.1. Nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo.
2.1.1. Thuyết nhân - lễ - chính danh.
Thời đại Khổng Tử, “vương đạo suy vi, bá đạo nổi lên lấn át, vua không ra
vua, cha không ra cha, con không ra con, vợ không ra vợ, chồng không ra chồng”.
Khổng Tử chủ trương thiết lập lại trật tự xã hội của nhà Chu.
Học thuyết chính trị xã hội: Ơng xây dựng học thuyết Nhân - Lễ - Chính
danh.
“Nhân” là khái niệm trung tâm, với nội dung cơ bản:
+ Đó là lịng yêu thương người, “kỉ sở bất dục, vật thi ư nhân” – điều gì
mình khơng muốn làm cho mình thì cũng đừng nên làm cho người khác: Mình
muốn thành đạt thì nên giúp người khác cũng thành đạt như mình, mình muốn lập
thân thì phải giúp người khác lập thân.
+ “Nhân” còn là biết ghét người. Ghét kẻ bất nhân là làm điều nhân vậy.
Với những tên vua ác như Kiệt, Trụ có thể gọi bằng THẰNG, thậm chí giết những
tên vua ác đó khơng những khơng bất nhân, bất trung mà còn làm điều nhân, trừ
bớt hậu hoạ cho thiên hạ.
+ Người có “Nhân” lấy ngay thẳng, chính trực để báo oán, lấy đức để báo
ân. Quan niệm này cịn có tính đẳng cấp: Vua có “nhân”, quan phải “kính”, con
phải “hiếu”, cha mẹ phải “từ”, quan hệ giữa người trong nước phải “tín”. Khổng
Tử nói: “Ngày nay, gọi là có hiếu là có thể ni nấng, đến như chó ngựa cũng có
thể ni nấng, nếu khơng có lịng kính ở trong thì có khác gì ni chó mèo”, “sửa
mình theo lễ là nhân”.
“Lễ”: Là hình thức biểu hiện của “Nhân”. Lễ bao gồm: Nghi lễ, tế lễ, các
quy tắc, phong tục, tập quán được xã hội chấp nhận. Lễ bao hàm cả pháp luật, các
19



quy phạm đạo đức: Khơng phải lễ thì khơng nghe, khơng nói, khơng nhìn, khơng
ăn, khơng uống.
“Chính danh”: Mục đích đưa xã hội trở lại trật tự, kỉ cương theo nhà Chu.
Ai ở cương vị nào phải thực hiện đúng cương vị của mình.Vua ra vua, quan ra
quan, cha ra cha, con ra con, chồng ra chồng, vợ ra vợ, nếu đảo lộn sẽ việt vị. Danh
chính thì ngơn thuận, danh bất chính thì ngơn bất thuận.
Khổng Tử tun truyền tư tưởng “nghèo mà vui”. Tác dụng của “Lễ” là lấy
“hồ làm q”. Ơng khun người trên tơn trọng người dưới nhưng người dưới
khơng được ốn trách người trên. Tư tưởng Thượng hiền có ý nghĩa tích cực. Tư
tưởng thân thân (thương u người trong gia đình) có cả mặt tiến bộ và bảo thủ.
2.1.2. Quan niệm về các hạng người trong xã hội.
Khổng Tử coi tính người vốn gần nhau nhưng do môi trường sống, tập quán
khác nhau dẫn đến họ khác nhau. Ông dành cho giáo dục một vị trí quan trọng, ưu
tiên. Con người muốn có những đức tính: nhân, trí, dũng, cương trực… thì cần
phải học. Trước hết phải học đạo lý, sau đó mới học tri thức: “tiên học lễ, hậu học
văn”.
Vua là người không học cũng biết: thể hiện tư tưởng duy tâm tiên thiên, tiên
nghiệm.
Qn tử có học mới biết: Đây chính là mẫu người mà xã hội Nho giáo muốn
hướng tới xây dựng, quân tử luôn được đem đối lập với tiểu nhân. Qn tử có 3
đức tính: Nhân – trí – dũng, ba phẩm chất này là điều kiện cần có để người quân tử
thực hiện được lý tưởng của mình. Quân tử sợ 3 điều: Mệnh trời, bề trên, lẽ phải.
Trước uy lực không bị khuất phục, giàu sang không thể quyến rũ, nghèo hèn khơng
thay đổi ý chí, trước điều nghĩa và điều lợi, người quân tử chọn điều nghĩa. Vì chỉ
nghĩ đến điều nghĩa nên nét mặt người quân tử lúc nào cũng ung dung tự tại. Trong
một đất nước loạn lạc, người quân tử mà giàu có, đó là điều đáng hổ thẹn, ngược

20



lại trong một đất nước thanh bình người quân tử mà nghèo hèn, đó cũng là điều
đáng hổ thẹn.
Bậc đại học là người thông nho – y – lý – số, là người chính tâm, tu thân, tề
gia, trị quốc, bình thiên hạ, mục đích học là để ra làm quan, là người xuất xử đúng
lúc, đúng chỗ: Khi vua cần thì ở lại làm quan, khi vua khơng dùng thì về ở ẩn, về
làng mở trường dạy học, bốc thuốc, bói tốn, chữa bệnh…
Tiểu nhân là người có học cũng không biết. Trước điều nghĩa và điều lợi, họ
bao giờ cũng nghĩ đến điều lợi. Vì vậy, nét họ thường xuyên thay đổi. Họ là người
lao động chân tay, bị xã hội Nho giáo coi thường.
2.1.3. Quan niệm về trời và thần thánh.
Quan niệm về lịch sử: Tư tưởng chủ yếu là sùng cổ. Khổng Tử coi xã hội
Nghiêu Thuấn là mẫu mực cho các xã hội đời sau: “Thuật nhi bất tắc, ôn cố tri
tân”. Một mặt, ông thừa nhận hậu sinh khả uý, tre già măng mọc, mặt khác, ơng lại
sợ người đời sau hơn mình: “Hãy xem người đời sau, nếu đến 40 tuổi mà họ khơng
có gì hơn mình thì khơng có gì đáng sợ nữa”. Đó là quan niệm bảo thủ của ơng.
 Mạnh Tử.
Mạnh Tử tên là Kha, là học trò của cháu Khổng Tử. Ông đã phát triển học
thuyết của Khổng Tử về phía duy tâm chủ quan tiên nghiệm.
Ơng quan niệm “vạn vật có đủ trong ta”, con người là một tiểu vũ trụ:
Muốn nhận thức thế giới chỉ cần nhận thức con người là đủ. Mạnh Tử tách rời
nhận thức cảm tính với thức lý tính, coi nhận thức cảm tính là dành cho tiểu nhân,
nhận thức lý tính là cái đại thể của người quân tử.
Về tính người: Theo ông người ta sinh ra đã có sẵn “Tứ đoan”: Nhân - lễ nghĩa - trí nhưng chỉ có người quân tử là có khả năng giữ được. Con người sinh ra
là thiện, cái ác như đám cỏ dại dễ lấn lướt con đường đạo đức. Cho nên phải
thường xuyên rèn luyện để đám cỏ dị không thể lấn át được con đường.

21



Về chính trị: Ơng đưa ra thuyết nhân chính, gạt bỏ bạo lực ra khỏi con
đường trị nước, chủ trương dùng đạo đức để cai trị. Ơng đưa ra chính sách thân
dân: Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh. Trong ba điều: Lòng nhân, lương
thực, quân đội, nếu phải bỏ một điều thì trước hết bỏ quân đội, nếu phải bỏ hai điều
thì bỏ thêm lương thực nhưng lịng nhân thì phải giữ lại.
+ Ơng chủ trương khơng sợ thiếu mà chỉ sợ khơng đều.
+ Ơng là người đầu tiên đưa ra tư tưởng: “Người lao lực nuôi người lao tâm
nhưng bị người lao tâm cai trị lại”.
+ Ông chủ trương tạo cho mỗi người dân một hằng sản để họ có hằng tâm,
lúc được mùa có của ăn của để, lúc mất mùa cũng không đến nỗi chết đói. Vì thế,
dân sẽ khơng nổi loạn, khơng việt vị.
 Tuân Tử.
Tuân Tử tên là Huống, tự là Khanh - là nhà duy vật kiệt xuất trong triết học
Trung Quốc cổ đại. Ông đã phát triển tư tưởng của Khổng Tử về hướng duy vật.
Ông coi “Trời” hay giới tự nhiên vận hành theo quy luật riêng không phụ
thuộc vào con người: “Trời vẫn vận hành như thế, khơng vì Nghiêu mà cịn, khơng
vì Kiệt mà mất”, “Trời khơng vì sợ người rét mà bỏ mùa Đơng, đất khơng vì người
sợ xa mà rút lại”.
Ơng chia thế giới vật chất thành các dạng từ thể khí đến thế giới vơ sinh, hữu
sinh đến lồi cầm thú có tri giác nhưng khơng có khn phép đạo đức và con người
là giống quý nhất thiên hạ… Ông khẳng định vai trị tích cực của con người. Quan
điểm vơ thần, phủ nhận tôn giáo, thần thánh, phê phán thuật sùng bái bói tốn, mê
tín…
Về nhận thức luận: Con người có thể nhận thức được quy luật khách quan
của giới tự nhiên. Ông thừa nhận vai trò quan trọng của cảm giác và mối quan hệ
giữa nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính.

22



Quan điểm chính trị - xã hội: Trị nước cần kết hợp cả đạo đức lẫn pháp luật
(ông là tổ sư của phái Pháp gia). Chủ trương tăng cường lao động sản xuất, thực
hành tiết kiệm. Coi nông nghiệp là cơ bản, chia ra các ngành nghề (sĩ – nông –
công – thương), hạn chế nhu cầu, dục vọng, lấy lễ nghĩa làm cơ sở, khẳng định trật
tự phong kiến, trên dưới, sang hèn là hợp lý. Ông nhận thức được vai trò quan
trọng của quần chúng nhân dân lao động với tư tưởng: Vua như thuyền, dân như
nước, nước chở thuyền và cũng có thể lật thuyền.
Về đạo đức: Theo ông, con người sinh ra vốn là ác - chống lại thuyết tính
thiện của Mạnh Tử. Ơng coi bản năng con người vốn tìm cách thoả mãn dục vọng
sinh lý. Do đó, cần phải có đạo đức, lễ nghĩa và hình phạt để ngăn ngừa tính ác
bẩm sinh đó.
Trên đây là những nội dung cơ bản của Nho giáo có ảnh hưởng đến hệ thống
các nhân vật chính khi tham chiếu để xem xét, phục vụ cho những ý tưởng của đề
tài.
2.2. Ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo đến đường lối trị nước qua tác phẩm.
2.2.1. Tư tưởng về mệnh trời, ma quỷ.
2.2.1.1. Quan niệm lịch sử là sự vận động theo vòng tròn.
Theo tác giả La Quán Trung, lịch sử vận động theo vòng tròn: “Thế lớn
trong thiên hạ, cứ tan lâu rồi lại hợp, hợp lâu rồi lại tan” [18, 31], nhận thức của tác
giả không nhận thấy sự tiến bộ lịch sử. Theo La Quán Trung, cái mới bao giờ cũng
là sự lặp lại của một tình trạng đã tồn tại ngày xưa: “Cuối đời nhà Chu, bảy nước
tranh giành xâu xé nhau rồi lại hợp về nhà Tần. Đến khi nhà Tần mất, thì Hán Sở
tranh hùng rồi sau thiên hạ lại hợp về tay nhà Hán” [18, 31]. Lịch sử luôn vận động
theo một vịng trịn định mệnh và theo đó, việc hình thành cục diện chân vạc gồm
ba nước là: Ngụy – Thục – Ngơ trong thời kì Tam Quốc cũng là một định mệnh.
Đặc biệt là trước khi xuất hiện một nhân vật kiệt xuất hay một sự kiện trọng
đại nào đó thì nghiễm nhiên trong xã hội lúc đó sẽ xuất hiện một hiện tượng lạ như
23



mưa đá, gà mái hóa trống hay rồng rắn leo cung vua… như là những lời sấm ký
đầy bí ẩn của lịch sử được tác giả chú trọng mô tả.
2.2.1.2. Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.
Năm lần Khổng Minh đem quân ra Kỳ Sơn đánh Ngụy, không tiến được lại
phải kéo quân về. Rồi lại đến lần thứ sáu, Khổng Minh đem quân ra Kỳ Sơn để
chinh phạt Trung Nguyên, chiến cuộc mặt trận này lại ở thế giằng co. Trong trận
chiến này, Tư Mã Ý nhận được lệnh của vua Ngụy là Tào Duệ phải cố thủ chặt chẽ
mặt trận Kỳ Sơn, Vị Thủy không được xuất chiến. Khổng Minh thấy Tư Mã Ý
không ra đánh bèn ngày ngày cho tướng Ngụy Diên cùng quân lính đến thành của
quân Ngụy khiêu khích, khiêu chiến nhằm dụ cho quân Tư Mã Ý ra đánh, một mặt
mật sai tướng Mã Đại lập một trại ở trong hang Hồ Lô, trong đào hố sâu chứa cỏ
khô và đồ dẫn hỏa thật nhiều, xung quanh núi làm nhiều những phòng chứa cỏ,
trong ngồi đặt địa lơi phục. Rồi Khổng Minh dặn Mã Đại rằng: “Ngươi nên chặn
lấp cửa sau hang Hồ Lô cho kỹ, phục quân sẵn trong hang. Nếu Tư Mã Ý đuổi vào
cửa hang, thì phóng hỏa mà đốt cỏ và địa lơi” [20, 416].
Sau đó Khổng Minh lập mưu để phao tin cho Tư Mã Ý biết quân Thục chứa
lương trong hang Thượng Phương (vì hang này giống hình quả bầu, bên trong có
thể chứa hơn ngàn người. Sâu vào trong, hai bên núi khép hẹp lại, rồi lại phình
rộng tạo thêm một cái hang nữa, bên trong có thể chứa bốn, năm trăm người.
Trong cùng thì hai bên núi ép gần sát nhau, chỉ hở một kẽ, đi lọt một ngựa nên
hang này cịn có tên khác là hang Hồ Lô) nhằm dụ Tư Mã Ý kéo quân đế đốt lương
thực của quân Thục. Quả nhiên, Tư Mã Ý mắc mưu của Khổng Minh. Sau khi
quân Ngụy bắt được vài chục quân Thục, Ý gọi chúng (tức quân Thục) đến dưới
trướng hỏi rằng: “Khổng Minh đang ở đâu?” Mấy chục tên lính đề trả lời rằng:
“Thừa tướng tơi khơng có ở trại Kỳ Sơn, hiện ở cách mé tây hang Thượng Phương
mười dặm hạ trại. Nay hàng ngày đang vận lương để chứa trong hang” [20, 419].
Tư Mã Ý sau khi hỏi tường tận liền thả những quân lính của Thục về, đồng thời sai
24



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×