Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (811.25 KB, 67 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
KHOA LỊCH SỬ
*****

Đề tài:

ẢNH HƢỞNG PHẬT GIÁO TRONG NGHỆ
THUẬT CẢI LƢƠNG NAM BỘ

SVTH: Ngô Thị Kim Hạnh
Lớp 10SLS, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng
GVHD: PGS.Ts Lưu Trang
Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Đà Nẵng

- Đà Nẵng , 05/2014 -


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài ..................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...................................................................................2
3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................4
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu .........................................................4
5. Đóng góp của đề tài .............................................................................................5
6. Bố cục đề tài ........................................................................................................5
NỘI DUNG ................................................................................................................ 6
CHƢƠNG 1. VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO VÀ NGHỆ THUẬT CẢI LƢƠNG ... 6
1.1. Khái quát chung về Phật giáo và Phật giáo ở Việt Nam ..................................6
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Phật giáo ........................................................................6
1.1.2. Giáo lý Phật giáo .......................................................................................6


1.1.3. Phật giáo ở Việt Nam...............................................................................10
1.1.3.1. Vài nét về quá trình du nhập truyền bá Phật giáo vào Việt Nam.....10
1.1.3.2. Đặc điểm Phật giáo ở Việt Nam ......................................................12
1.1.3.3. Phật giáo ở Nam Bộ .........................................................................15
1.1.3.4. Những điểm tương đồng giữa Phật giáo và văn hóa truyền thống con
người Việt Nam .............................................................................................19
1.2. Nghệ thuật cải lương ......................................................................................22
1.2.1 Hồn cảnh ra đời .......................................................................................22
1.2.2. Q trình hình thành và phát triển ...........................................................23
1.2.3. Đặc điểm của nghệ thuật cải lương .........................................................27
CHƢƠNG 2. NHỮNG ẢNH HƢỞNG CỦA PHẬT GIÁO TRONG NGHỆ
THUẬTCẢI LƢƠNG NAM BỘ ............................................................................ 30
2.1. Vài nét về vùng đất Nam Bộ và tính cách con người Nam Bộ ......................30
2.1.1. Vùng đất Nam Bộ ....................................................................................30
2.1.2. Tính cách con người Nam Bộ ..................................................................37


2.2. Cải lương Nam Bộ tiếp nhận nội dung tư tưởng Phật giáo ............................39
2.2.1. Tứ trọng ân...............................................................................................39
2.2.2. Tinh thần từ, bi, hỉ, xả ..............................................................................43
2.2.3. Quy luật nhân quả ....................................................................................44
2.2.4. Tính giáo dục ...........................................................................................45
2.3. Âm nhạc Phật giáo trong âm nhạc cải lương .................................................47
2.4. Sự kết hợp giữa ngôn từ trong Phật giáo và ca từ cải lương ..........................54
2.5. Ý nghĩa của Phật giáo trong nghệ thuật cải lương Nam Bộ ...........................56
2.6. Vai trò của Phật giáo và nghệ thuật cải lương trong đời sống, xã hội ...........57
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 59
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 61



1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam là quốc gia nhiều dân tộc cùng chung sống hòa thuận. Trong quá
trình lao động, người Việt đã sản sinh ra những giá trị văn hóa của dân tộc mình.
Cùng với quy luật phát triển của xã hội loài người, trải qua những lần giao lưu, tiếp
biến văn hóa. Việt Nam đã biết chọn lọc các giá trị văn hóa và sáng tạo để chúng trở
thành những nét văn hóa gần gũi, dễ tiếp nhận hơn đối với người Việt. Một trong
những tư tưởng tiêu biểu đó là Phật giáo. Phật giáo đã được truyền vào Việt Nam từ
khi lập nước, trải qua hàng ngàn năm, Phật giáo đã chung sống hòa bình với dân tộc
Việt và đã có những ảnh hưởng rộng rãi trên các lĩnh vực xã hội, giáo dục, văn
hóa...
Từ thực tiễn được thể hiện qua đạo lý nhân quả, luân hồi, nghiệp báo, v.v...
những giáo lý của Phật giáo có giá trị thiết thực trong đời sống con người, hiện nay
khơng chỉ giới tri thức mà giới bình dân cũng để tâm tìm hiểu về đạo Phật. Mọi
người đến với đạo Phật không phải để thỏa mãn tri thức mà là nhằm tìm ra phương
hướng giải tỏa những khúc chiết trong đời sống, cân bằng trạng thái tâm sinh lý, tìm
đến sự thanh thản bình yên của tâm hồn và tạo nền tảng phúc lành cho tương lai.
Chính do những nhân tố trên nên từ ngữ Phật giáo được phổ cập rộng rãi trong các
giới.
Vì thế, nếu như trước đây, Phật giáo chỉ xuất hiện trong trong các bài giảng
kinh, trong từng lời ren dạy thì hơm nay đã được vận dụng trong nhiều thể loại văn
hóa nghệ thuật. Trong đó, nổi bật là nghệ thuật cải lương. Cải lương Việt Nam tiếp
nhận những tư tưởng, giáo lý nhà Phật và làm cho nó trở thành những lời ca vọng
cổ ngọt ngào, thấm đượm tinh thần dân tộc, chứa đựng nhiều triết lý nhân sinh. Mà
nổi bật nhất là vùng cải lương Nam Bộ. Cải lương Nam Bộ mang những giai điệu
dân ca mang đậm tính cách của những người dân Nam Bộ cần cù trong lao động,
hào sảng trong chí khí anh hùng nhưng cũng giàu lịng nhân hậu kết hợp với từng



2

câu chữ nơi nhà Phật đã tạo nên một vẻ đẹp mới cho cải lương Nam Bộ, một hình
thức giải trí bác học. Đồng thời Phật giáo cũng từ đó, gần gũi hơn với con người…
Với những yếu tố trên, tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng Phật giáo trong nghệ
thuật cải lương Nam Bộ” làm đề tài khóa luận của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ảnh hưởng Phật giáo đến các lĩnh vực trong đời sống đã được đề cập nhiều
trong các tác phẩm, các cơng trình nghiên cứu. Tuy nhiên, hầu hết các cơng trình
nghiên cứu chủ yếu nói về tiến trình du nhập, sự phát triển của Phật giáo và sự ảnh
hưởng của Phật giáo đến đạo đức, lối sống. Về sự ảnh hưởng của tôn giáo này đến
lĩnh vực văn hóa, mà ở đây là loại hình cải lương thì chưa có cơng trình nào chun
sâu.
- Trong tác phẩm “Lịch sử cải lương” của Tuấn Giang, là cơng trình viết về
lịch sử sân khấu cải lương, là đề tài lần đầu tiên có tính hệ thống các giai đoạn lịch
sử hoạt động sân khấu cải lương, nêu bật những bước phát triển cải lương với
những nhận định mới, quan điểm mới về một cách lý giải lịch sử, có văn phong lịch
sử khá thống nhất về một bút pháp viết sử sân khấu. Những đóng góp khoa học của
cơng trình làm nổi bật lên: Q trình hình thành sân khấu cải lương có tính hiện
thực khoa học, về một thể loại sân khấu dân tộc, bản địa Nam Bộ. Nêu lên quá trình
phát triển sân khấu cải lương có những hoạt động nổi bật về tác phẩm kịch, đội ngũ
diễn viên, tác giả cải lương... qua các giai đoạn lịch sử. Khẳng định những giá trị
văn hoá tinh thần dân tộc, bản địa của sân khấu cải lương, góp phần xây dựng đời
sống xã hội, đó là ý nghĩa bài học lịch sử ra đời, phát triển cải lương trên mọi miền
đất nước. Tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ được vai trò, ảnh hưởng, tác động của Phật
giáo tới sự phát triển của nghệ thuật cải lương, nhất là trong thời đại ngày nay.
- “Ảnh hưởng Phật giáo trong đời sống Việt” của Thích Nguyên Tạng nói về
sự du nhập Phật giáo truyền vào Việt Nam và ảnh hưởng đến các lĩnh vực trong đời

sống của người Việt như về tư tưởng, đạo lý,…về sự dung hịa giữa Phật giáo và
các tín ngưỡng, tơn giáo bản địa. Đồng thời cịn ảnh hưởng qua góc độ nhân văn và
xã hội và các loại hình nghệ thuật như nghệ thuật sân khấu và nghệ thuật tạo hình.


3

Bài viết đưa ra những nhận định để làm rõ sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với đời
sống Việt nhưng chưa nhấn mạnh sự ảnh hưởng sâu sắc của Phật trong nghệ thuật
cải lương. Tuy nhiên, đây cũng là một nguồn tư liệu quý giá trong quá trình nghiên
cứu.
- “100 năm nghệ thuật cải lương” của Hoàng Chương. Với những tư liệu dày
dặn, phong phú, được sưu tầm công phu, kỹ lưỡng và chuẩn xác qua sách, báo, qua
phỏng vấn hàng loạt các nghệ sĩ gạo cội, tìm hiểu những yếu tố kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội để tìm ra sự hình thành sân khấu cải lương, cuốn sách đã mang đến
một cái nhìn tồn cảnh, tổng thể về lịch sử phát triển 100 năm của nghệ thuật cải
lương trên khắp các vùng, miền của cả nước với những vở diễn nổi tiếng, những
nghệ sĩ tài năng bên cạnh việc hình thành phong cách cải lương của hai miền nam,
bắc. Nghiên cứu về góc độ âm nhạc, nghệ thuật biên kịch cải lương, mỹ thuật sân
khấu…Trong khi phân tích những giá trị tinh túy của nghệ thuật cải lương, cơng
trình nghiên cứu cũng chỉ ra mặt yếu kém, hạn chế của nó trong bối cảnh hiện nay,
nhất là việc xa rời hoặc làm sai lệch cái nền truyền thống. Sân khấu cải lương ngày
càng thiếu những tác giả cải lương dẫn đến hiện tượng thiếu vắng kịch bản cải
lương hay, buộc các đơn vị nghệ thuật phải tìm cách lấy những kịch bản kịch nói
chuyển thể thành kịch bản cải lương. Cơng trình nghiên cứu 100 năm nghệ thuật cải
lương Việt Nam đã bám sát quá trình hình thành và phát triển của nghệ thuật cải
lương gần một thế kỷ qua, vừa tổng kết thực tiễn một cách khoa học, vừa lấy lý luận
soi rọi cho thực tiễn đã mang tính ứng dụng cao. Cơng trình khơng chỉ giúp ích cho
những nhà hoạt động thực tiễn đi sáng tác, đạo diễn, biểu diễn mà còn giúp cho việc
đào tạo bộ môn cải lương ở các trường nghệ thuật sân khấu trong cả nước cũng như

phục vụ cho đơng đảo cơng chúng muốn tìm hiểu về bộ mơn đặc sắc này.
Ngồi ra, cịn có những cơng trình nghiên cứu về Phật giáo và các bài viết về
cải lương của các tác giả. Tuy chưa có cơng trình nào chuyên sâu về sự ảnh hưởng
của Phật giáo trong nghệ thuật cải lương ở Nam Bộ nói riêng và cải lương Việt
Nam nói chung. Nhưng đây là những tài liệu cần thiết để tơi có thể vận dụng vào đề
tài khóa luận của mình.


4

3. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài “Ảnh hưởng Phật giáo trong nghệ thuật cải lương Nam
Bộ”để thấy được sự tiếp nhận Phật giáo trong nghệ thuật cải lương qua từng tư
tưởng, đạo lý, ngơn từ, nhạc điệu. Từ đó, đưa ra những nhận xét, đánh giá, làm rõ
được tầm ảnh hưởng vai trò của Phật giáo trong xã hội ngày nay.
3.2. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những tư tưởng, giáo lý của Phật giáo, chủ
yếu là Phật giáo Tiểu thừa và nghệ thuật cải lương Nam Bộ. Qua đó, tìm ra được
những ảnh hưởng, tác động của Phật giáo đến loại hình nghệ thuật này..
3.3. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đề tài chủ yếu nghiên cứu về sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với nghệ thuật
cải lương Nam Bộ. Ngồi ra đề tài cịn mở rộng phạm vi nghiên cứu về lịch sử hình
thành Phật giáo ở Nam Bộ, văn học Phật giáo cũng như con người Nam Bộ, lịch sử
hình thành loại hình nghệ thuật cải lương ở Việt Nam.
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tƣ liệu
Để phục vụ hiệu quả cho việc nghiên cứu đề tài, tôi dựa vào các nguồn tư liệu
chủ yếu sau:
- Các bài viết trong các tạp chí nghiên cứu văn hóa, lịch sử…

- Các cơng trình nghiên cứu khoa học, khóa luận, luận văn có liên quan đến đề
tài
- Các cơng trình chun khảo về lĩnh vực lịch sử, văn hóa, các sách có liên
quan đến đề tài được lưu trữ trong các trường Đại Học và các Thư viện Tổng hợp..
- Các nguồn tài liệu trên các trang báo điện tử, các bài viết, tư liệu trên các
webside.
4.2. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài này chúng tôi sử dụng tổng hợp nhiều phương pháp nghiên cứu.Tôi
đứng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí


5

Minh và quan điểm đường lối của Đảng.
Trong quá trình nghiên cứu, tôi sử dụng kết hợp nhiều phương pháp, trong đó
phương pháp lịch sử và phương pháp logic. Đây là hai phương pháp được sử dụng
chủ yếu trong thực hiện đề tài này. Ngồi ra, chúng tơi cịn sử dụng các phương
pháp so sánh, đối chiếu, tổng hợp, phân tích nhằm mở thơng tin và làm phong phú
thêm nguồn tư liệu để nghiên cứu và biên soạn.
5. Đóng góp của đề tài
Nghiên cứu về đề tài của tơi góp phần làm sáng tỏ về sự ảnh hưởng của tư
tưởng Phật giáo đến loại hình nghệ thuật truyền thống của Việt Nam, đó là nghệ
thuật cải lương Nam Bộ. Đồng thời cho thấy sự giao thoa giữa bản sắc văn hóa Việt
Nam và loại hình tơn giáo được du nhập từ bên ngồi vào, thấy được sự gần gũi
giữa tơn giáo và con người, giữa tôn giáo và nghệ thuật truyền thống của người việt.
Trải qua hàng ngàn năm, không những không mất đi mà cộng hưởng vào nhau để
cũng tồn tại, phát triển.
Thành công của đề tài cũng đồng thời làm sáng tỏ thêm một số vấn đề về vai
trò, tác động của Phật giáo mối quan hệ với người dân Nam Bộ cũng như với loại
hình nghệ thuật cải lương ở Nam Bộ.

6. Bố cục đề tài
Đề tài của chúng tơi ngồi phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục
thì nội dung gồm có 2 chương :
Chương 1: Vài nét về Phật giáo và nghệ thuật cải lương
Chương 2: Những ảnh hưởng của Phật giáo trong nghệ thuật cải lương Nam
Bộ


6

NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: VÀI NÉT VỀ PHẬT GIÁO VÀ NGHỆ THUẬT CẢI LƢƠNG
1.1. Khái quát chung về Phật giáo và Phật giáo ở Việt Nam
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Phật giáo
Phật giáo xuất hiện ở miền Bắc Ấn Độ cổ đại (nay thuộc Nêpan) vào cuối thế
kỷ VI trước Công nguyên. Khi ấy trong xã hội Ấn Độ rơi vào tình trạng phân chia
đẳng cấp rất khắc nghiệt. Sự ra đời của Phật giáo thể hiện tinh thần phản kháng của
những người nghèo, chống lại thuyết bốn đẳng cấp của đạo Bà la mơn, tìm con
đường giải thốt con người khỏi nổi khổ triền miên trong xã hội nô lệ Ấn Độ.
Người sáng lập Phật giáo là Thích Ca Mâu Ni (nghĩa là ông thánh hay nhà
hiền triết của tộc người Thích Ca). Đây là tên gọi khi thành đạo. Tên thật của Thích
Ca Mâu Ni là Siddhartha (Tất đạt đa) nghĩa là “người thực hiện được mục đích”, họ
là Gautama (Cù Đàm), vốn là con đầu vua Tịnh Phạn. Thích Ca Mâu Ni sinh ngày 8
tháng 4 năm 563 TCN, mất năm 483TCN. Năm 29 tuổi, ông quyết định từ bỏ cuộc
đời vương giả của một thái tử để đi tu, tìm đường diệt khổ cho chúng sinh. Sau 6
năm, ơng đã “ngộ đạo” và trở thành Thích Ca Mâu Ni (35 tuổi). Khi ấy ông lấy
hiệu là Buddha có nghĩa là “người giác ngộ” (Trung Quốc dịch là Phật). Người ta
gọi ông là Sakya-muni (Trung Quốc dịch là Thích Ca Mâu Ni - nhà hiền triết xứ
Sakya).
1.1.2. Giáo lý Phật giáo

Những nguyên lý cơ bản của Phật giáo được thể hiện trong giáo lý. Hệ thống
giáo lý của Phật giáo là một hệ thống rất đồ sộ nằm chủ yếu trong Tam tạng kinh
điển, gồm Kinh tạng (ghi lời Phật dạy), Luật tạng (các giới luật) và Luận tạng (các
bài kinh, tác phẩm luận giải, bình chú về giáo pháp của các cao tăng và học giả sau
này).
Về bản thể luận: Phật giáo đưa ra tư tưởng “vô ngã”, “vô thường”.
- Vô ngã: Tất cả sự vật, hiện tượng cũng như chính bản thân ta là khơng có
thực. Thế giới (nhất là thế giới hữu hình - con người) là do sự hợp lại của các yếu tố


7

vật chất (Sắc) và tinh thần (Danh ). Đó là 5 yếu tố (Ngũ uẩn )
+ Sắc (vật chất )
+ Thụ (cảm giác)
+ Tưởng (ấn tượng )
+ Hành (Tư duy nói chung )
+ Thức (ý thức )
Nhưng Danh và Sắc chỉ tụ hội trong thời gian ngắn rồi chuyển sang trạng thái
khác, do vậy “khơng có cái tơi” (vơ ngã - natman).
- Vô thường: Bản chất sự tồn tại của thế giới là một dịng biến chuyển khơng
ngừng (vơ thường). Khơng thể tìm ra ngun nhân đầu tiên, do vậy khơng có ai tạo
ra thế giới và cũng khơng có gì vĩnh hằng. Sự biến hiện của thế giới theo chu trình:
sinh - trụ - dị - diệt theo luật nhân quả.
Về thế giới quan và nhân sinh quan:
- Phật giáo tiếp thu tư tưởng luân hồi và nghiệp của Upanisa là bộ phận kinh
Veda của đạo Bà la môn phần nói về tri thức. Theo Phật giáo, sự vật mất đi ở chỗ
này là để sinh ra ở chỗ khác. Q trình thác sinh ln hồi đó do nghiệp chi phối theo
nhân quả.
- Theo quan niệm của đạo Phật, để đến được sự giải thoát, mọi người phải

nhận thức Bốn chân lý thiêng liêng tuyệt diệu (Tứ diệu đế).
Đó là:
+ Khổ đế: Phật giáo cho rằng đời là bể khổ. Cái khổ ấy khơng ngồi 8 nỗi khổ:
Sinh, lão, bệnh, tử, thụ biệt ly (yêu mà phải xa), oán tăng hội (ghét mà phải ở gần),
sở cầu bất đắc (muốn mà khơng được), thủ ngũ uẩn (khổ vì có sự tồn tại của thân
xác).
+ Tập đế (Nhân đế): Mọi nỗi khổ đều có nguyên nhân. Phật giáo đưa ra “Thập
nhị nhân duyên” để chỉ ra nguyên nhân của sự khổ. Đó là: vơ minh, hành, thức,
danh sắc, lục căn, xúc, thụ, ái, thủ, hữu, sinh, lão, tử.
+ Diệt đế: Phật giáo khẳng định có thể tiêu diệt nỗi khổ và chấm dứt luân hồi.
+ Đạo đế: Con đường giải thốt, diệt khổ thực chất là tiêu diệt vơ minh (sự
tăm tối, không sáng suốt), gồm 8 con đường (Bát chính đạo).


8

Đó là:
Chính kiến : hiểu biết đúng.
Chính tư duy: suy nghĩ đúng.
Chính ngữ: giữ lời nói chân chính.
Chính nghiệp: Nghiệp có hai loại là tà nghiệp và chính nghiệp. Tà nghiệp phải
sửa, chính nghiệp phải giữ. Nghiệp có thân nghiệp (do hành động gây ra), khẩu
nghiệp, ý nghiệp. Chính mệnh: tiết chế dục vọng, giữ điều răn. Chính tinh tiến: hăng
hái truyền bá chân lý của Phật.
Chính niệm: hằng nhớ Phật, niệm Phật. Chính định: tĩnh tâm, tập trung tư
tưởng nghĩ về Tứ diệu đế, vô ngã, vô thường…
Theo Bát chính đạo, con người có thể diệt trừ vơ minh, giải thoát, nhập vào
cõi niết bàn - Nirvana. Niết Bàn là trạng thái yên tĩnh, sáng suốt, chấm dứt sinh tử,
luân hồi. Như vậy Phật giáo có tư tưởng biện chứng, mang tính duy tâm chủ quan.
Bát chính đạo cịn gọi là Tam học: Tuệ (chính kiến, chính tư duy, chính ngữ),

Giới (chính nghiệp, chính mệnh), Định (chính tinh tiến, chính niệm, chính định)
- Đặc điểm của Phật giáo là không đề cập vị thần sáng tạo thế giới và con
người. Đây là nét độc đáo trong thế giới quan Phật giáo. Về nhân sinh quan, Phật
giáo đề cao vai trò của con người trong cuộc sống hiện thực.
Giáo luật của Phật giáo
Kinh luật tạng trình bày những phép tắc, giới luật. Về cơ bản, đạo Phật có hai
giới luật quan trọng là ngũ giới và thập thiện, quy định những điều mà những người
theo đạo phải tuân theo:
- Ngũ giới:
+ Giới sát (không sát sinh).
+ Giới đạo (không trộm cắp).
+ Giới dâm (không tà dâm).
+ Giới vọng ngữ (không được nói điều sai trái).
+ Giới tửu (khơng uống rượu).
- Thập thiện :
+ Về thân: Không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm.


9

+ Về khẩu: khơng nói dối, khơng nói hai chiều, không ác khẩu, không thêu
dệt.
+ Về ý: Không tham lam, khơng giận dữ, khơng tà kiến.
- Ngồi những quy định trên, người tu hành còn phải thực hiện một số điều
cấm khác. Các vị sư từ Đại đức trở lên phải theo giới luật nghiêm hơn:
+ Hàng Tỳ kheo: nam 250 giới, Tì kheo nữ: 348 giới.
+ Hàng Sa di: phải thực hiện 10 giới: không sát sinh, không trộm cắp, khơng
dâm dục, khơng nói điều sai, khơng uống rượu, không trang điểm, không nằm
giường nệm, không xem ca hát, không giữ vàng bạc, không ăn quá giờ quy định).
Tổ chức của đạo Phật

- Tổ chức Phật giáo không chặt chẽ. Phật giáo khơng có giáo quyền, khơng
thống nhất cách tu hành, có nhiều tơng phái và sơn mơn.
- Người theo đạo Phật được chia làm hai loại:
+ Người tu hành: phải thốt ly gia đình và các sinh hoạt xã hội, đi tu ở chùa
theo quy định. Nam tu sĩ gọi là Tăng, nữ tu sĩ gọi là Ni.
+ Người tu tại gia: thờ Phật, lễ Phật tại nhà và tuân theo Ngũ giới và Thập
thiện.
- Về hệ thống chức sắc và các nhà tu hành:
+ Đối với Tăng:
* Hịa thượng: có 40 năm tu, 60 năm tuổi đời và từ Thượng tọa được tấn
phong lên.
* Thượng tọa: có 30 năm tu, 50 năm tuổi đời và từ Đại đức được tấn phong
lên.
* Đại đức: là hàng Tỳ kheo, được thọ giới sau khi xuất gia khoảng 10 năm trở
lên.
* Sa di: được thọ giới từ Tiểu lên.
* Tiểu: người xuất gia tu hành.+ Đối với Ni:Gồm có Ni trưởng, Ni sư, Ni cô,
Sadini, Tiểu cũng phải thọ giới và tấn phong như bên Tăng.- Phật giáo gồm hai phái
là Đại thừa, Tiểu thừa. Từ hai phái đó mỗi phái lại chia thành nhiều tông nên hay
gọi là “tông phái”.


10

+ Đại thừa (cỗ xe lớn ): phái này cho rằng con người có thể giác ngộ bằng tự
lực và bằng tha lực tức bằng sự dẫn dắt của người khác, đặc biệt là của các vị Bồ
Tát. Do đó phải “tự giác giác tha, tự độ độ tha” tức mình đã giác ngộ thì phải giác
ngộ người khác. Ở Việt Nam phái Đại thừa cịn gọi là Bắc tơng.
+ Tiểu thừa (cỗ xe nhỏ): Mỗi người phải lo tu thân, giác ngộ chỉ bằng tự lực.
Ở Việt Nam phái Tiểu thừa cịn gọi là Nam tơng.

1.1.3. Phật giáo ở Việt Nam
1.1.3.1. Vài nét về quá trình du nhập truyền bá Phật giáo vào Việt Nam
Theo đường biển, các nhà sư Ấn Độ đã đến Việt Nam ngay từ đầu Công
Nguyên. Luy Lâu, trụ sở quận Giao Chỉ, đã sớm trở thành một trung tâm phật giáo
quan trọng. Từ đây, có những người như Khương Tăng Hội (gốcTrungÁ) hoặc Maha-kì-vực Mahajivaka, nhà sư Ấn Độ), đã đi sâu vào Trung Hoa truyền đạo. Sau
này, khi trả lời vua Tùy Văn Đế về tình hình Phật giáo Giao Châu, nhà sư Đàm
Thiên đã nói rằng: “Xứ Giao Châu có đường thơng sang Thiên Trúc. Phật giáo
truyền vào Trung Hoa chưa phổ cập đến Giang Đông, mà xứ ấy đã xây ở Luy Lâu
hơn 20 bảo tháp, độ được hơn 500 tăng và dịch được 15 bộ kinh rồi. Thế là xứ ấy
theo đạo Phật trước ta” [35, tr. 128].
Cũng do Phật giáo đã được truyền trực tiếp từ Ấn Độ vào Việt Nam ngay từ
đầu Công nguyên nên từ Buddha tiếng Phạn đã được phiên âm trực tiếp sang tiếng
Việt thành Bụt. Phật giáo lúc này mang màu sắc Tiểu thừa Nam tông. Và trong con
mắt của người Việt Nam nông nghiệp, Bụt như một vị thần ln có mặt ở khắp nơi,
sẵn sàng xuất hiện cứu giúp người tốt và trừng trị kẻ xấu. Sau này, sang thế kỷ IVV, lại có thêm luồng Phật giáo Đại thừa Bắc tơng từ Trung Hoa tràn vào. Chẳng
mấy chốc, nó đã lấn át và thay thế luồng Nam tơng có từ trước đó. Từ Buddha vào
tiếng Hán phiên âm thành Phật; từ đây từ Phật dần dần thay thế cho từ Bụt: Bụt chỉ
còn trong các quán ngữ với nghĩa ban đầu (ví dụ: Gần chùa gọi Bụt bằng anh), hoặc
chuyển thành nghĩa ông tiên trong các truyện dân gian (như Tấm Cám).
Từ Trung Hoa, có ba tơng phái Phật giáo được truyền vào Việt Nam: Thiền
tông, Tịnh Độ tông, Mật tông.


11

Thiền tông là tông phái Phật giáo do nhà sư Ấn Độ Bồ-đề-đạt-ma
(Bodhidharma) sáng lập ra ở Trung Quốc vào đầu thế kỷ VI. “Thiền” (rút gọn của
Thiền-na, phiên âm Hán – Việt từ Dhiana tiếng Sanscrit nghĩa là “tĩnh tâm”) chủ
trương tập trung trí tuệ suy nghĩ (thiền) để tự mình tìm ra chân lý. Thiền tơng Việt
Nam ln đề cao cái Tâm. Phật tại tâm, tâm là niết bàn, là Phật. Quốc sư Yên Tử

nói với Trần Thái Tơng: “Núi vốn khơng có Phật, Phật ở tại tâm, tâm lặng lẽ sáng
suốt ấy là chân Phật”. Tu theo Thiền tơng địi hỏi nhiều cơng phu và khả năng trí
tuệ, do vậy chỉ phổ biến ở giới trí thức thượng lưu, cũng nhờ họ ghi chép lại mà nay
ta được biết về lịch sử Thiền tông Việt Nam khá rõ.
Khác với Thiền tông, Tịnh Độ tông chủ trương dựa vào sự giúp đỡ từ bên
ngoài để cứu chúng sinh thốt khổ. Nhờ cách tu đơn giản, Tịnh Độ tơng trở thành
Phật giáo của giới bình dân và phổ biến khắp cõi Việt Nam: đâu đâu ta cũng gặp
người dân trụng niệm “Nam mô A-di-đà Phật”. Tượng A-di-đà cũng thuộc loại
tượng Phật lâu đời và phổ biến hơn cả (tới nay còn giữ được pho tượng A-di-đà
bằng đá cao khoảng 2,5 mét, tạc năm 1057 ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh), phía ngồi
tượng này xưa vốn dát vàng).
Mật tơng là phái chủ trương sử dụng những phép tu huyền bí (bí mật) như
dùng linh phù, mật chú, ấn quyết… để thu hút tín đồ và mau chóng đạt đến giác ngộ
và giải thốt. Vào Việt Nam, Mật tơng khơng tồn tại độc lập như một tơng phái
riêng mà nhanh chóng hịa vào dịng tín ngưỡng dân gian với những truyền thống
cầu đồng, dùng pháp thuật, yểm bùa trị tà ma và chữa bệnh…
Do thâm nhập một cách hịa bình, ngay từ thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phổ
biến rộng khắp. Đến thời Lý – Trần, Phật giáo Việt Nam phát triển tới mức cực
thịnh, được suy tôn làm quốc giáo. Đến cuối thời Trần, khi Nho giáo và Nho học
phát triển, trong điều kiện xuất hiện một số bộ phận tăng ni biến chất và thối hóa,
Phật giáo đã bước đầu bị một số Nho sĩ bài xích. Thời nhà Hồ: Hồ Quý Ly ra lệnh
sa thải bớt tăng đồ, ai chưa đến 50 phải hoàn tục. Tuy nhiên, ảnh hưởng Phật giáo
vẫn rất sâu đậm trong xã hội, nhất là trong các làng xã.
Từ thế kỷ XV đến cuối thế kỷ XIX: Đây là giai đoạn suy thoái của Phật giáo.
Phật giáo với vai trò là ý thức hệ đã biến mất từ cuối thời Trần, đầu nhà Hồ. Đến


12

thời Lê và thời Nguyễn, nhà nước phong kiến lấy Nho giáo làm quốc giáo nên Phật

giáo bị hạn chế.
Từ thế kỷ XX đến nay, đây là giai đoạn phục hưng của Phật giáo. Đầu thế kỷ
XX, đứng trước những biến động của đất nước, phong trào đấu tranh của Phật giáo
được dấy lên, khởi đầu của các đô thị miền Nam. Từ những năm 30, các giáo hội
Phật giáo ở Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ lần lượt ra đời với cơ quan ngôn luận
riêng. Các cuộc tranh luận về tư tưởng Phật giáo diễn ra trên báo chí hết sức sơi nỗi.
Hiện nay, Phật giáo là tơn giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất, có số lượng tín đồ
đơng nhất Việt Nam.
1.1.3.2. Đặc điểm Phật giáo ở Việt Nam
- Tính tổng hợp
Đây là đặc trưng của lối tư duy nông nghiệp, cũng là đặc trưng nổi bật nhất
của Phật giáo Việt Nam.
Khi vào Việt Nam, Phật giáo đã tiếp xúc ngay với các tín ngưỡng truyền thống
của dân tộc, và do vậy đã được tổng hợp chặt chẽ ngay với chúng. Hệ thống chùa
“Tứ pháp” thực ra vẫn chỉ là những đền miếu dân gian thờ các vị thần tự nhiên
Mây-Mưa-Sấm - Chớp và thờ đá. Lối kiến trúc phổ biến của chùa Việt Nam là “tiền
Phật, hậu Thần” với việc đưa các thần, thánh, các thành hoàng, thổ địa, các anh
hùng dân tộc vào thờ trong chùa. Có những chùa cịn có cả bàn thờ cụ Hồ Chí Minh
ở Hậu tổ. Hầu như khơng chùa nào là không để bia hậu, bát nhang ho các linh hồn,
vong hồn đã khuất.
Phật giáo Việt Nam là tổng hợp các tơng phái lại với nhau. Ở Việt Nam,
khơng có tông phái Phật giáo nào thuần khiết. Tuy chủ trương của Thiền tông là bất
lập ngôn, song ở Việt Nam chính các thiền sư đã để lại nhiều trước tác có giá trị.
Dịng Thiền Tì-ni-đa-lưu-chi thì pha trộn với Mẫu giáo, nhiều thiền sư phái này,
nhất là những vị sống vào thời Lý như Vạn Hạnh, Từ Đạo Hạnh, Nguyễn Minh
Khơng, đều nổi tiếng là giỏi pháp thuật, có tài biến hóa thần thơng. Phật giáo Việt
Nam cũng tổng hợp các con đường giải thoát bằng tự lực và tha lực, phối hợp Thiền
tông với Tịnh Độ tông.



13

Các chùa phía Bắc là cả một Phật điện vơ cùng phong phú với hàng mấy chục
pho tượng Phật, bồ tát, la hán của các tông phái khác nhau. Ở phía Nam, Đại thừa
và Tiểu thừa kết hợp mật thiết với nhau: nhiều chùa mang hình thức tiểu thừa (thờ
Phật Thích Ca, sư mặc áo vàng) nhưng lại theo giáo lý Đại thừa, bên cạnh Phật
Thích Ca lớn vẫn có nhiều tượng nhỏ, bên cạnh áo vàng vẫn có đồ nâu lam.
Phật giáo Việt Nam tổng hợp chặt chẽ với các tôn giáo khác: Phật với Nho,
với Đạo, tạo thành quan niệm Tam giáo đồng nguyên (3 tôn giáo cùng phát nguyên
từ một gốc) và Tam giáo đồng quy (3 tơn giáo cùng quy về một đích).
Phật giáo Việt Nam kết hợp chặt chẽ với việc đạo và việc đời. Vốn là một tôn
giáo xuất thế, nhưng vào Việt Nam, Phật giáo trở nên rất nhập thế: Các cao tăng
được nhà nước mời tham chính hoặc cố vấn trong những việc hệ trọng. Sự gắn bó
đạo – đời khơng chỉ thể hiện ở việc các nhà sư tham gia chính sự, mà ngược lại cịn
có khá nhiều vua quan q tộc đi tu. Trong 6 thế hệ đệ tử của phái Thảo Đường thì
đã có tới 9 người là vua quan đương nhiệm. Không phải ngẫu nhiên mà ở sân chùa
Phổ Minh, quê hương nhà Trần, lại có chiếc vạc đồng lớn (1 trong “An Nam tứ đại
khí”) tượng trưng cho quyền lực.
Vẫn với truyền thống gắn bó với đời, đầu thế kỷ XX, Phật tử Việt Nam hăng
hái tham gia vào các hoạt động xã hội (như cuộc vận động đòi ân xá Phan Bội Châu
và đám tang Phan Châu Trinh). Thời Diệm – Thiệu, Phật tử miền Nam đã tham gia
tích cực vào phong trào đấu tranh địi hịa bình và độc lập dân tộc, nổi bật là sự kiện
Phật tử xuống đường đấu tranh phản đối nền độc tài của gia đình họ Ngơ, đỉnh cao
là sự kiện hịa thượng Thích Quảng Đức tự thiêu vào mùa hè 1963.
- Khuynh hướng thiên về nữ tính
Các vị Phật Ấn Độ xuất thân vốn là đàn ông, sang Việt Nam biến thành Phật
Ông – Phật Bà. Bồ tát Quán Thể Âm đã được biến thành Phật Bà Quan Âm với
nghìn mắt nghìn tay – vị thần hộ mệnh của cư dân khắp vùng sơng nước Đơng Nam
Á (nên cịn gọi là Quan Âm Nam Hải). Ở một số vùng, ngay cả Phật tổ Thích Ca
cũng được coi là phụ nữ (người Tày Nùng gọi là “Mẹ Pựt Xích Ca”). Người Việt

Nam còn tạo ra những “Phật bà” riêng của mình: Đứa con gái nàng Man, tương
truyền sinh vào ngày 8-4 được xem là Phật Tổ Việt Nam, bản thân bà Man trở thành


14

Phật Mẫu. Rồi còn những vị Phật bà khác nữa như Quan Âm Thị Kính, Phật bà
chùa Hương. Lại cịn rất nhiều các bà bồ tát như Bà Trắng chùa Dâu, các thánh
mẫu…
Việt Nam có khá nhiều chùa chiền mang tên các bà: chùa Bà Dâu, chùa Bà
Đậu, chùa Bà Tướng, chùa Bà Dàn, chùa Bà Đá, chùa Bà Đanh… Tuyệt đại bộ
phận Phật tử tại gia là các bà: Trẻ vui nhà, già vui chùa là nói cảnh các bà.
Chùa hòa nhập với thiên nhiên, bao giờ cũng là nơi phong cảnh hữu tình; bởi
vậy mới có cách nói ví “vui như trảy hội chùa”. Cảnh chùa hữu tình, hội chùa vui,
cửa chùa rộng mở, cho nên cũng là nơi chở che cho trai gái tình tự: “Hội chùa Thầy
có hang Cắc Cớ, Trai chưa vợ nhớ hội chùa Thầy”.
- Tính linh hoạt
Ngay từ đầu, người Việt Nam đã tạo ra một lịch sử Phật giáo cho riêng mình:
nàng Man, cô gái làng Dâu Bắc Ninh, một trong những đệ tử đầu tiên của Phật giáo,
trở thành Phật tổ với ngày sinh là ngày Phật đản 8-4.
Vốn có đầu óc thiết thực, người Việt Nam coi trọng việc sống phúc đức, trung
thực hơn là đi chùa: “Thứ nhất là tu tại gia, Thứ nhì tu chợ, thứ ba tu chùa; Dù xây
chín bậc phù đồ, Khơng bằng làm phúc cứu cho một người; coi trọng truyền thống
thờ cha mẹ, ông bà hơn là thờ Phật: Tu đâu cho bằng tu nhà, Thờ cha kính mẹ mới
là chân tu; đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật: Phật trong nhà khơng thờ đi thờ
Thích ca ngồi đường” (Tục ngữ).
Vào Việt Nam, Phật được đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng
truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người thoát khỏi mọi tai họa: Nghiêng vai
ngửa vái Phật, Trời, Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân; làm nên mây mưa
sấm chớp để mùa màng tốt tươi (hệ thống chùa Tứ pháp); ban cho người hiếm

muộn có con (tục đi chùa cầu tự: Tay bưng quả nếp vô chùa, Thắp nhang lạy Phật
xin bùa em đeo); ban lộc cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt (tục đi
chùa lễ phật và hái lộc lúc giao thừa); cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát
(tục mời nhà sư tới cầu kinh và làm lễ tiễn đưa người chết).
- Một số biểu hiện khác của “ Việt Nam hóa” Phật giáo:
Có một lịch sử Phật giáo nói riêng; coi trọng thờ ơng bà cha mẹ hơn thờ Phật,


15

đồng nhất cha mẹ, ông bà với Phật; đồng nhất đức Phật với những vị anh hùng
trong tín ngưỡng truyền thống…
Điển hình “Việt Nam hóa” Phật giáo là sự hình thành Phật giáo Hòa Hảo dựa
trên cơ sở tổng hợp đạo Phật với đạo ông bà.
1.1.3.3. Phật giáo ở Nam Bộ
Là một vùng đất có lịch sử khai phá muộn nhất trong lịch sử dựng nước Việt
Nam, Nam Bộ đã vượt qua rất nhiều gian lao thử thách để để bắt kịp nhịp độ và hồ
nhập vào dịng phát triển của đất nước về mọi phương diện. Bên cạnh đó, tính chất
đặc thù về địa lý, lịch sử cũng đã dẫn tới việc hình thành bản sắc riêng của vùng đất
phương Nam trên nhiều phương diện khác nhau của đời sống vật chất và tinh thần,
mà trong đó, Phật giáo và văn học Phật giáo vùng đất mới là một hiện tượng rất
đáng được lưu ý.
Phật giáo trên vùng đất mới: Là một yếu tố không thể thiếu được trong cuộc
sống của người Việt Nam, Phật giáo đã song hành với người Việt Nam trong công
cuộc khai phá phương Nam. Những bước đầu tiên của Phật giáo đến với miền đất
phương Nam cũng là bước bắt đầu cho quá trình vừa thích nghi cao độ của Phật
giáo với đời sống đặc thù của vùng đất mới vừa giữ được tinh thần căn bản của
chánh pháp với nhiều tấm gương thành tựu đạo pháp đã được đời sau ghi lại.
Trước hết, Phật giáo vùng đất mới về căn bản vẫn gìn giữ và phát triển truyền
thống đại thừa của Phật giáo Việt Nam. Nhiều thiền sư, danh tăng Nam Bộ thuộc

phái thiền Lâm Tế. Phật giáo phát triển mạnh với hệ thống các chùa đại thừa trên
khắp các miền Đông, miền trung tâm Sài Gịn-Chợ Lớn và miền đồng bằng sơng
Cửu Long ngay từ những năm tháng đầu tiên của công cuộc mở đất. Các chùa này
cũng gắn bó với tên tuổi của các thiền sư đã lưu danh về thành tựu đạo pháp.
Trong các thập niên 20, 30 của thế kỷ XX, các chùa lớn tại Nam bộ có phong
trào chấn hưng Phật giáo, mở các lớp giảng dạy kinh, luật… Chẳng hạn như năm
1931, Hội Nam kỳ nghiên cứu Phật học ra đời và tiếng nói của hội là tạp chí Từ Bi
Âm. Năm 1933, Liên đồn học xã được thành lập để đào tạo tăng tài và hoằng
dương Phật pháp. Năm 1934, hội Lưỡng Xuyên Phật học được thành lập để đào tạo


16

tăng ni.
Sự xuất hiện và phát triển của dòng Phật giáo dân gian là một hiện tượng rất
cần ghi nhận ở khía cạnh là đặc điểm văn hóa tâm linh mang màu sắc bản địa tại
vùng đất mới. Nhưng buổi đầu, ngồi những truyền tụng dân gian, chưa có cơng
trình nghiên cứu nào nói đến cho tới khi có một số cơng trình xuất hiện từ nửa sau
thế kỷ XX, trong đó có các cơng trình của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hầu. Dòng
Phật giáo dân gian tại Nam bộ cũng đã có một cuộc hành trình riêng của mình với
một số tên tuổi được truyền tụng và hơn cả truyền tụng, là được nhân dân mến mộ,
tơn vinh.
- Dịng Phật giáo dân gian Nam Bộ có thể đã được bắt đầu từ vùng đất Tòng
Sơn nay thuộc Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp. Đây là nơi mà Gia Định thành thơng
chí từng ghi nhận là “trong làng dân cư đơng đảo, bốn mặt sơng nước, trong làng
cá lội cị bay, cảnh trí cực kỳ thanh tú” [36, tr.243]. Đây là quê hương của một nhân
vật đã được dân gian tôn là Hoạt Phật. Đó là Đồn Minh Hun, được tơn xưng là
Phật thầy Tây An, giáo tổ của một tông phái Phật giáo mang nhiều màu sắc bản địa
rất được nhân dân Nam bộ tin yêu và ngưỡng mộ.
Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (1807- 1856) bắt đầu cuộc đời hành đạo

của mình vào năm 1849. Từ Tịng Sơn, Phật thầy Tây An đã in dấu chân của ngài
lên nhiều vùng của miền Tây Nam bộ như An Giang, Châu Đốc, và dừng chân lâu
nhất ở núi Sam rồi tịch tại đây.
Giáo pháp của Phật thầy Tây An dựa trên những nguyên lý căn bản đạo Phật,
được thay đổi chút ít về hình thức thờ cúng và hành đạo của tu sĩ lẫn người tại gia
cho đơn giản và thiết thực hơn trong hồn cảnh cịn eo hẹp khó khăn của người dân
vùng đất mới ( tự làm ăn sinh sống,khơng cần “đầu trịn áo vng”, nghi thức cúng
tế đơn giản và tu đâu cũng được). Ngài truyền bá Đạo hiền có nội dung chính hướng
con người đến ý thức chu tồn nhiệm vụ của mình với bốn ơn lớn của con người là
ơn cha mẹ tổ tiên, ơn đất nước, ơn Tam bảo, ơn đồng bào và nhân loại.
- Sau Phật thầy Tây An, là sự xuất hiện của các hình thức tu và hành đạo trong
dân gian của những ông đạo, nhiều người vốn là môn sinh của Phật Thầy Tây An
như Bổn sư Ngô Lợi (1831- 1909), Sư Vãi bán khoai (những năm đầu thế kỷ XX),


17

Võ Cử nhân Nguyễn Văn Đa (sống vào nửa sau thế kỷ XIX, còn gọi là Cử Đa, đạo
hiệu là Ngọc Thanh), Đức Cố Quản Trần Văn Thành (người lãnh đạo cuộc khởi
nghĩa chống Pháp ở Bảy Thưa năm 1872), ông Tăng Chủ (sống giữa thế kỷ XIX),
ông Bùi Văn Tây, ông Đạo Xuyến (1834- 1914), ông đạo Lập, ông đạo Lãnh…
Ngoài ra, đạo phái Bửu Sơn Kỳ Hương (được thành lập từ đầu thế kỷ XX tại
Châu Đốc) ngoài nhiệm vụ khuyến thiện, vốn có liên hệ chặt chẽ với các phong trào
yêu nước, đã “dưỡng nuôi và che chở các chiến sĩ Cần Vương ngày xưa đã từng đi
theo Đức Cố Quản, để những người ấy được an ổn tu hành khơng cịn bị trơi nổi lạc
lồi nữa” [36, tr.244].
Nổi tiếng nhất chính là ơng đạo Huỳnh Phú Sổ (1919- 1947), người sáng lập
ra Phật giáo Hòa Hảo. Bắt đầu cuộc đời hành đạo vào năm 1939, với đức độ và lịng
từ, ơng cịn được dân gian tơn xưng là Đức Thầy, Đức Huỳnh Giáo chủ, Ơng tướng
bình dân. Ơng làm các cơng việc chữa bệnh, thuyết pháp và ra kệ giảng. Ông được

khen ngợi là người “rất khiêm tốn, rất bình dân, khơng phân biệt người sang người
hèn, khuyên người làm lành lánh dữ, trau sửa tâm tính, kính tin trời Phật”
[36;tr.244] và cịn gắn bó trách nhiệm với cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân
dân Nam bộ bằng cách riêng của mình.
Điểm gặp gỡ của hai dòng Phật giáo ở Nam bộ từ thời kỳ khai phá cho đến
nửa đầu thế kỷ XX:
- Phật giáo thường gắn chặt với quá trình khai phá, khẩn hoang, lập làng, gắn
bó với đời sống của cư dân vùng đất mới bằng tinh thần nhập thế cao độ. Nhiều câu
chuyện về hành trạng của các vị thiền sư và vô số câu chuyện về các ơng đạo đều có
sự hiện diện của các sự kiện đặc thù thời khai phá có khi phải giải quyết bằng huyền
nhiệm.
- Chánh pháp của Phật giáo luôn được lựa chọn làm nguyên lý căn bản cho
nhiều tông phái Phật giáo dân gian. “Đắc đạo, thành Phật”, thể hiện được chánh
pháp luôn là một giá trị thiêng liêng trong tâm thức dân gian và họ địi hỏi điều đó
ngay trong các ơng đạo. Vì thế, dù có thể chịu ít nhiều ảnh hưởng từ tín ngưỡng dân
gian, nhưng các dạng Phật giáo dân gian chân chính thường nhất thiết phải tự khẳng
định mình bằng các nguyên tắc đạo lý căn bản của Phật giáo. Ví dụ như “cứu nhân


18

độ thế”, “cứu khổ cứu nạn” thường là nguyên tắc căn bản để các ơng đạo đến với
quần chúng .
Ngồi ra, các tổ chức Phật giáo Nam bộ thời kỳ này cũng rất quan tâm đến
việc uốn nắn các luồng Phật giáo dân gian, tìm cách hướng các người hành đạo
trong dân gian đi đúng con đường chánh pháp, sao cho sự hiện diện của họ có
những lợi ích chân chính và thiết thực nhất cho cộng đồng. Hịa Thượng Hải Tịnh
đã đề ra biện pháp dẫn dắt việc Ứng phú đi đúng chánh pháp, bảo vệ được giới hạnh
của tăng sĩ mà vẫn thỏa mãn được nhu cầu tâm linh dân gian, giữ được mối liên hệ
của quần chúng với chùa, không làm mất nhân duyên của họ với Phật đạo. Tại Mỹ

Tho, Hòa thượng Minh Khiêm Hoằng Ân đã khai mở cho một vị sư ứng phú và gia
chủ bằng vừa bằng đức độ và trí tuệ, vừa bằng huyền nhiệm. Cũng chính hồ
thượng Hoằng Ân cũng đã hoằng hóa hai lần tại chùa Tây An ở núi Sam Châu Đốc
để cảm hóa và uốn nắn các ơng đạo của dòng Phật giáo dân gian này đi cho thật
đúng chánh pháp. Ngài đã rất thành công, dân gian tôn xưng ngài là Tổ Núi Sam.
- Phật giáo là một tơn giáo gắn bó sâu sắc và bền bỉ nhất trong tâm thức người
Nam bộ, mặc dù không thể phủ nhận sự hiện diện của hiện tượng tam giáo NhoPhật-Lão trong đời sống văn hóa tinh thần Việt Nam và Nam bộ cũng không ngoại
lệ. Nếu Nho giáo và Lão giáo còn tồn tại trong thế hài hòa với Phật giáo trong đời
sống tinh thần của người Nam bộ trong thời kỳ mở đất, rồi ngày càng suy tàn trước
cơn lốc của chiến tranh và văn hóa phương tây thâm nhập vào Việt Nam từ cuối thế
kỷ XIX thì Phật giáo không hề suy yếu, mà ngược lại, Phật giáo còn là một điểm
tựa vững chắc cho tinh thần và tư tưởng của người Nam bộ. Tất cả các tông phái
Phật giáo dân gian ra đời tại Nam bộ cho dù có ít nhiều ảnh hưởng Nho hay Lão,
nếu muốn khẳng định giá trị chân chính của mình, có sức thuyết phục cao với quần
chúng đều phải lấy các chuẩn mực và cứu cánh của Phật giáo đề làm nền. Thí dụ
như trường hợp các đạo Hiếu nghĩa của Bửu Sơn Kỳ Hương,hay giáo lý của Phật
giáo Hòa Hảo xem đạo Nhân (Nho giáo) là nấc thang đầu và đạo Phật là nấc thang
cuối của quá trình tu tập của con người.


19

1.1.3.4. Những điểm tƣơng đồng giữa Phật giáo và văn hóa truyền thống con
ngƣời Việt Nam
Những nét tương đồng giữa văn hóa Phật giáo và văn hóa dân tộc vì tư tưởng
Phật giáo phù hợp với tư tưởng người Việt :
a). “Đạo Phật lấy từ bi làm gốc, lòng yêu thương bao trùm cả mn lồi. Dân
tộc ta đề cao tình u thương đồng loại”[5]. Dân tộc Việt Nam có truyền thống giàu
lòng yêu thương nhau, giúp đỡ nhau.
“ Bầu ơi thương lấy bí cùng

Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”
(Ca dao)
Hay:
“Một con ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ”
(Tục ngữ)
Do đó, đưa đạo pháp về lịng từ bi của Phật giáo dạy cho mọi người cách ăn ở
với nhau thì vơ cùng phù hợp.
b). Đạo Phật dạy chúng sinh quý trọng sinh mạng con người và mọi loài
vật, khuyên mọi người không sát sanh, không gây đau thương chết chóc hận thù.
“Dân tộc Việt Nam ln u q hịa bình, ghét chiến tranh, sẵn sàng làm bạn bè
với mọi người”[5]. Dân tộc ta luôn quý mến mọi người xung quanh.
“ Bán anh em xa mua láng giềng gần”
(Tục ngữ)
Đã làm cho ánh sáng hịa bình của Đạo Phật gần gũi với người Việt chúng ta
vô cùng.
c). Đạo phật dạy con người cần phải bố thí. Văn hóa dân tộc ta khuyên mọi
người.
“Một miếng khi đói bằng một gói khi no”
(Tục ngữ)
“Xởi lởi trời gởi của cho”
(Tục ngữ)
d). Đạo phật khuyên con người sống hợp đạo lý vì “Gieo nhân nào, đặt quả


20

nấy”…Văn hóa dân tộc Việt Nam thì nơm na: “ Ở hiền gặp lành- Gieo gió gặt
bão”.
e). Đạo Phật cho con người có cái nhìn tự do, giải thốt, khơng bị ràng buộc
bởi định kiến, nô dịch tư tưởng con người.

Đạo Phật với thuyết “nhân quả”, duyên khởi cho rằng mọi sự vật đều có
nguyên nhân của nó, mỗi người tự chịu trách nhiệm về những hành vi của mình, tạo
nghiệp lành được quả lành; tạo nghiệp ác bị quả dữ. Con người không phải do một
thế lực siêu nhiên định đọat, khơng phải là do “thiên định”. Văn hóa Trung Hoa với
học thuyết của Khổng Tử đã trói buộc con người và thuyết “Thiên mệnh”, mỗi
người có một số. Trời cho làm vua thì được làm vua, Trời bắt làm dân cùng đinh thì
phải làm người cùng đinh:
“ Con Vua thì được làm vua,
Con sải ở chùa thì quét lá đa”
(Ca dao)
Chống lại tư tưởng “Thiên mệnh”, đạo Phật giúp con người giải thoát sự u
minh, biết nhận chân giá trị con người. Từ nhận thức đó, Sư Vạn Hạnh đã mạnh dạn
dìu dắt, giúp đỡ cho Lý Cơng Uẩn không phải mãi mãi ở chùa quét lá đa mà trở
thành một minh quân khai sáng ra triều đại nhà Lý với những chiến tích anh hùng
mang tên Đại Việt.
g). Cách sống theo giáo lý nhà Phật phù hợp với cách sống của người Việt.
- Lối sống con người Việt Nam là lối sống hịa mình với làng giềng, thơn xóm,
gần gũi, thương u giúp đỡ mọi người rất phù hợp với lối sống từ bi bác ai của nhà
Phật.
- Lối sống con người Việt Nam giản dị, chân tình, lối sống theo giáo lý nhà
Phật là thanh tịnh, thanh đạm.
- Lối sống con người Việt Nam hòa hợp với thiên nhiên như đồng lúa, cánh
rừng, lũy tre. Đạo Phật dạy con người yêu quý thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên.
-Tư tưởng Phật giáo làm vững chắc hơn nền tảng văn hóa Việt Nam :
- Khi tư tưởng Phật giáo được phổ biến trong đời sống văn hóa, xã hội Việt
Nam, người dân Việt Nam đã hấp thụ được một cuộc sống đầy nhân văn, tôn trọng


21


gíá trị con người.
- Tư tưởng Phật giáo đã từng bước tạo nên một thế vượt trội hơn Khổng giáo,
Lão giáo. Những tư tưởng “trung quân ái quốc”, “trọng nam khinh nữ”, “tu thân,
tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” của Khổng giáo đã dần dần bị phai nhạt bởi tư tưởng
“Từ bi, hỉ xả”, “giải thoát”, “nghiệp báo”…Dân tộc Việt Nam đã địan kết,
thương u nhau, gắn bó với nhau, đùm bọc lẫn nhau :
“Máu chảy ruột mềm
Môi hở răng lạnh
Một con ngựa đau cả tàu bò cỏ”
(Tục ngữ)
Đã minh chứng cho tinh thần yêu thương đồng bào của dân tộc Việt.
f). Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng, lâu dài trong đời sống văn hóa người
Việt.
Từ khi vua Lý Thái Tổ lên ngơi và áp dụng chính sách phát triển đạo Phật, tư
tưởng Phật giáo đã ăn sâu vào đời sống tinh thần người Việt, tạo điều kiện cho một
xã hội “vua tơi trên dưới một lịng” cùng nhau xây đựng Tổ quốc hịa bình, thịnh
vượng. Chùa chiền phát triển, xây dựng khắp nơi. Tăng sư ngày càng đơng. Triều
đình lập ra Quốc sư để cố vấn cho nhà vua những kế sách giúp dân, giúp nước đồng
thời quản lý tăng chúng. Phật giáo trở thành quốc giáo, tạo điều kiện cho đất nước
Đại Việt phát triển một cách toàn diện, bền vững, trở thành một quốc gia hùng
mạnh trong thoi đại bấy giờ.
Phát triển tư tưởng và văn hóa Phật giáo để củng cố và phát triển nền văn hóa
dân tộc là một chủ trương hịan tồn đúng đắn của vua Lý Thái Tổ. Áp dụng chính
sách này, vua Lý Thái Tổ đã tạo đà phát triển cho dân tộc, tạo nên nước Đại Việt
hùng cường, mở rộng bờ cõi, tạo nên nền tảng vững chắc cho nước ta trong quá
trình dựng nước và giữ nước, đấu tranh bảo vệ vẹn tòan lãnh thổ, giành thắng lợi
với những chiến công lẫy lừng của Lý Thường Kiệt “phá Tống bình Chiêm”, của
Trần Hưng Đạo chiến thắng quân Nguyên Mơng, của Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi với
Bình Ngơ đại cáo” …
Ngày nay, đạo Phật dược duy trì và ngày càng phát triển. Người dân ngày



22

càng gần gũi, tiếp xúc và tu học theo Phật giáo. Phật giáo phổ biến sâu rộng hơn,
các chùa phục vụ xã hội ngày càng nhiều, chắc chắn sẽ mang lại cho đất nước ta
thanh bình, đồn kết, giàu mạnh và văn minh.
1.2. Nghệ thuật cải lương
1.2.1 Hoàn cảnh ra đời
Nghệ thuật sân khấu cải lương ra đời trên mảnh đất Nam Bộ - cụ thể hơn là
miền đồng bằng sông Cửu Long, trong vài thập kỷ đầu của thế kỷ XX. Cách đây
khoảng 3 thế kỷ, Nam Bộ là một vùng đất mới, các lưu dân Việt trong quá trình
Nam tiến đã tới khai phá và định cư lại ở vùng đất màu mỡ này, truyền thồng văn
hoá cũng theo chân họ tới đây, tiếp tục phát triển trong hồn cảnh mới đã tạo nên
những nét văn hố đặc sắc.
Từ “cải lương”có lẽ rút từ câu :“Cải biến kỳ sự, sử ích tự thiên lương”[45,
tr.16].Danh nghĩa là đổi những gì cũ cịn lại ra thành những gì mới và hay. Danh từ
cải lương được xuất hiện đầu tiên trên bảng hiệu của gánh Tân Thịnh của ông
Trương Văn Thông vào năm 1920. Sân khấu được trang hoàng đẹp đẽ, có màn
nhung, có tranh cảnh, và hát bài La Madelon bằng tiếng Việt trước khi kéo màn.
Ở vùng đất Nam Bộ, cho đến những năm đầu thế kỷ XX, bộ môn sân khấu gần
như độc nhất vẫn là hát bội. Bên cạnh hát bội cịn có nhạc cung đình do nho sĩ, nhạc
công từ Huế vào. Một số bài bản được sử dụng trong việc tế thần, đám tang, gọi là
nhạc lễ.
Đờn ca tài tử Nam Bộ là một loại hình được hình thành vào cuối thế kỷ XIX,
đầu thế kỷ XX. Bản chất phóng khống của con người và nếp sống tại miền Nam
khiến cho các bài bản không cịn y khn bản gốc. Người đờn, người ca khơng giữ
nguyên xi như thầy đã dạy mà luôn thêm thắt, thay đổi, tô điểm, đưa một chút riêng
vào trong cái chung, khiến những bài bản đậm đà, thấm thía hơn. Mặt khác, do lòng
nhớ thương cội nguồn, các điệu, các hơi của đờn ca tài tử đều phảng phất nỗi buồn

và được người mộ điệu ưa thích. Hàng đêm, người Nam Bộ thường tổ chức những
buổi đàn ca với phong cách nghiêm túc mà vui vẻ. Cũng thời gian này, hát bội mất
dần khán giả vì số người biết chữ Hán giảm, vì hát bội q khn mẫu và phải mất


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×