Tải bản đầy đủ (.pdf) (75 trang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.64 MB, 75 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
----------------------

ĐẶC ĐIỂM VĂN HÓA KINH DOANH
CỦA DOANH NGHIỆP HÀN QUỐC VÀ NHẬT BẢN
TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH CỬ NHÂN VĂN HÓA HỌC

Người hướng dẫn:
ThS. Phạm Thị Tú Trinh
Người thực hiện:
MAI THỊ PHƯƠNG MAI
(Khóa 2013 – 2017)

Đà Nẵng, Tháng 4/2017
1


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các thông tin và số liệu được sử dụng phân tích trong khóa luận là trung thực được
thu thập từ những nguồn tin cậy, đã công bố theo quy định. Các luận điểm, dữ liệu
được tôi tổng hợp từ nhiều tài liệu khác nhau, hoặc có trích dẫn và ghi rõ nguồn tài
liệu tham khảo. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là do tơi tự tìm hiểu, phân
tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn. Các kết quả trong đề
tài nghiên cứu này chưa từng được công bố trong bất cứ nghiên cứu nào.
Thành phố Đà Nẵng, ngày 02 tháng 05 năm 2017


Tác giả khóa luận

Mai Thị Phương Mai


LỜI CẢM ƠN
Nhận được sự hướng dẫn của giáo viên hướng dẫn Phạm Thị Tú Trinh và sự
đồng ý của khoa Ngữ Văn Trường Đại học Sư pham Đà Nẵng, tơi đã thực hiện đề
tài “Đặc điểm văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Hàn Quốc và Nhật Bản tại
thành phố Đà Nẵng”.
Để hồn thành luận văn này, tơi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo đã tận
tình hướng dẫn, giảng dạy trong suốt quá trình học tập tại Trường Đại học Sư phạm
Đà Nẵng.
Xin chân thành cảm ơn cô giáo Phạm Thị Tú Trinh đã tận tình, chu đáo hướng
dẫn tơi thực hiện khóa luận này.
Đây là lần đầu tôi làm quen với việc xây dựng một luận văn và thực hiện một đề
tài có quy mơ lớn; đồng thời việc tiếp cận với văn hóa kinh doanh cũng mới lạ và
còn nhiều hạn chế nên khơng thể tránh khỏi những thiếu sót. Tơi mong nhận được
sự góp ý của q thầy cơ để khóa luận được hồn chỉnh hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .........................6
1.1. Các khái niệm .........................................................................................6
1.1.1. Khái niệm văn hóa.............................................................................6
1.1.2. Khái niệm kinh doanh .......................................................................8
1.1.3. Khái niệm doanh nghiệp ...................................................................8
1.1.4. Khái niệm văn hóa kinh doanh ........................................................11

1.2. Văn hóa kinh doanh Đà Nẵng .............................................................13
1.2.1. Những yếu tố tác động đến văn hóa kinh doanh Đà Nẵng .............13
1.2.2. Thực trạng văn hóa kinh doanh ở Đà Nẵng....................................19
1.3. Các doanh nghiệp nước ngồi ở Đà Nẵng ..........................................21
1.3.1. Quy mơ, số lượng, ngành nghề và phân bố tại Đà Nẵng ................21
1.3.2. Doanh nghiệp Hàn Quốc và Nhật Bản ở Đà Nẵng .........................22
CHƯƠNG II: VĂN HÓA KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP HÀN
QUỐC VÀ NHẬT BẢN Ở ĐÀ NẴNG ..........................................................27
2.1. Doanh nghiệp Hàn Quốc .....................................................................27
2.1.1. Triết lý kinh doanh ..........................................................................27
2.1.2. Đạo đức kinh doanh ........................................................................30
2.1.3. Văn hóa doanh nhân .......................................................................31
2.1.4. Quan hệ và ứng xử trong doanh nghiệp .........................................32
2.2. Doanh nghiệp Nhật Bản: .....................................................................35
2.2.1. Triết lý kinh doanh ..........................................................................35
2.2.2. Đạo đức kinh doanh ........................................................................37
2.2.3. Văn hóa doanh nhân .......................................................................39
2.2.4. Quan hệ và ứng xử trong doanh nghiệp .........................................40


2.3. Điểm tương đồng và khác biệt giữa văn hóa kinh doanh Hàn Quốc,
Nhật Bản và văn hóa kinh doanh Đà Nẵng ..............................................45
2.3.1. Tương đồng .....................................................................................45
2.3.2. Khác biệt .........................................................................................48
CHƯƠNG III: ẢNH HƯỞNG CỦA VĂN HÓA KINH DOANH HÀN
QUỐC VÀ NHẬT BẢN ĐẾN VĂN HÓA KINH DOANH TẠI ĐÀ NẴNG
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM .....................................................................55
3.1. Ảnh hưởng đến văn hóa kinh doanh tại Đà Nẵng.............................55
3.1.1. Ảnh hưởng tích cực .........................................................................55
3.1.2. Ảnh hưởng tiêu cực .........................................................................57

3.2. Bài học kinh nghiệm đối với doanh nghiệp Đà Nẵng .......................59
3.2.1. Đối với nội bộ doanh nghiệp tại Đà Nẵng ......................................59
3.2.2. Đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại Đà Nẵng ......63
KẾT LUẬN ..........................................................................................................67
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................68


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong những năm gần đây, văn hóa kinh doanh là vấn đề được nói đến khá
nhiều, thu hút được sự quan tâm của các doanh nghiệp và các nhà quản lý kinh tế.
Cũng trong giai đoạn hiện nay, xu thế tồn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, các nền
kinh tế khác nhau đang ngày một xích lại gần nhau hơn, bên cạnh những thành tựu
của hợp tác phát triển cùng tiến bộ, thì cũng có nhiều diễn biến phức tạp. Những bất
cập tồn tại đa phần xuất phát từ mâu thuẫn của các nền văn hóa khác nhau, cụ thể
hơn đó là những nét khơng tương đồng trong những nền văn hóa kinh doanh khác
nhau..
Hàng năm có rất nhiều doanh nghiệp nước ngồi đầu tư vào Việt Nam như: Mỹ,
Anh, Pháp, Trung Quốc, Đài Loan, Nga,… và đa số đều đạt được những thành tựu
rực rỡ. Điều đó cho thấy văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp nước ngoài với
những chiến lược kinh doanh đặc biệt đồng thời kết hợp với việc hoạt động ở một
môi trường kinh doanh tốt như ở Việt Nam đã tạo nên thành công cho các doanh
nghiệp này.
Đặc biệt trong các doanh nghiệp nước ngoài hoạt động ở Việt Nam, không thể
không kể đến các doanh nghiệp Hàn Quốc (CJ CGV, Lotte, Huyndai,…) và Nhật
Bản (Acecook, Honda, Toshiba, Thiên Quế,…). Các doanh nghiệp Hàn Quốc và
Nhật Bản dễ có chỗ đứng và tạo nên những dấu ấn riêng biệt. Các doanh nghiệp này
bằng những thế mạnh về kinh tế, kết hợp với việc có một nền văn hóa kinh doanh
thích hợp đã tạo nên những dấu ấn mạnh mẽ đến văn hóa kinh doanh của nước ta.
Nhật Bản và Hàn Quốc là những cường quốc kinh tế, có lịch sử lâu đời với Việt

Nam về quan hệ ngoại giao cũng như kinh tế. Khoảng 10 năm trở lại đây, đây là 2
nền kinh tế có số doanh nghiệp hoạt động mạnh mẽ nhất ở thành phố Đà Nẵng,
chính điều này đã thể hiện vai trị to lớn của Hàn Quốc và Nhật Bản đối với nền
kinh tế Việt Nam nói chung và thành phố Đà Nẵng nói riêng.
Cũng như các doanh nghiệp nước ngồi khác, thì sự xuất hiện của doanh nghiệp
Hàn Quốc và Nhật Bản ở thành phố Đà Nẵng đã tạo nên sức hút, sự cạnh tranh với
các doanh nghiệp trong nước nói chung và Đà Nẵng nói riêng. Những đặc điểm ảnh
hưởng từ văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp Hàn Quốc và Nhật Bản đã tác động
một cách sâu sắc tới văn hóa kinh doanh tại Đà Nẵng. Điều đó vừa tạo những thuận
1


lợi nhất định, nhưng cũng vừa là thách thức cho Đà Nẵng. Có thể khẳng định văn
hóa kinh doanh Hàn – Nhật là một trong những yếu tố góp phần phát triển mạnh mẽ
văn hóa kinh doanh tại Đà Nẵng. Do vậy, những nghiên cứu về đặc điểm văn hóa
kinh doanh của các doanh nghiệp Hàn Quốc và Nhật Bản đang hoạt động tại thành
phố Đà Nẵng là cần thiết cho các doanh nghiệp ở Đà Nẵng. Cũng từ lí do này, tơi đã
chọn đề tài: “Đặc điểm văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp Hàn Quốc và Nhật
Bản tại thành phố Đà Nẵng” làm đề tài nghiên cứu cho khóa luận tốt nghiệp của
mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Về cơ sở lý luận của văn hóa kinh doanh, đã có khá nhiều cơng trình nghiên cứu
đề cập đến như như:
-

“Bài Giảng Văn Hoá Kinh Doanh” của PGS.TS Dương Thị Liễu, xuất bản
năm 2012.

-


Giáo trình “Đạo đức kinh doanh và văn hóa cơng ty” của PGS.TS Nguyễn
Mạnh Qn, xuất bản năm 2005.

-

“Văn hóa doanh nghiệp và sự lãnh đạo” của Edar.H.Schein, được dịch bởi
Nguyễn Phúc Hoàng, năm 2012.

Ngoài ra cịn có các tác giả: Phạm Xn Nam, Đỗ Minh Cương, Nguyễn Hoàng
Anh nghiên cứu và đưa ra những quan điểm về cơ sở lý luận của văn hóa kinh
doanh. Họ đã nghiên cứu về mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế, kinh doanh; tổng
quan khá đầy đủ các quan niệm về triết lý kinh doanh, đạo đức kinh doanh, về văn
hóa doanh nhân..., các yếu tố cấu thành và các nhân tố ảnh hưởng tới văn hóa kinh
doanh. Tuy nhiên, các tác giả này vẫn chưa có sự thống nhất về một số quan điểm
chẳng hạn như về khái niệm văn hóa kinh doanh và các nhân tố cấu thành văn hóa
kinh doanh.
Về nghiên cứu văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp nước ngồi nói chung và
văn hóa kinh doanh của Hàn Quốc và Nhật Bản nói riêng ở nước ta, hoặc một vùng
nhất đinh ở nước ta, cũng có một số nghiên cứu của một số tập đoàn doanh nghiệp,
hay của một số nhà nghiên cứu về văn hóa kinh doanh như:
-

“Văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp có vốn đầu tư Hàn Quốc tại Việt
Nam” của Nguyễn Viết Lộc.

2


Trong nghiên cứu của này về cơ bản Nguyễn Viết Lộc đã nêu ra được thực
trạng văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Hàn Quốc ở Việt Nam, từ đó

cho thấy văn hóa của các doanh nghiệp Hàn đang hoạt động ở Việt Nam.
Bằng những số liệu, ví dụ được lấy từ các doanh nghiệp lớn như Samsung,
Honda,… nghiên cứu này đã đưa ra được cái nhìn tổng quan về các doanh
nghiệp Hàn Quốc đang hoạt đông ở Việt Nam
-

“Văn hóa kinh doanh Nhật Bản và khả năng thâm nhập vào thị trường này
của các doanh nghiệp Việt Nam” của Nguyễn Thị Vân
Nguyễn Thị Vân ở nghiên cứu của mình đã đi sâu vào phân tích văn hóa kinh
doanh Nhật Bản, từ đó đưa ra những điểm tương đồng và khác biệt trong văn
hóa kinh doanh Nhật Bản và Việt Nam, để nhìn nhận về góc độ của doanh
nghiệp rằng Nhật Bản có khả năng thâm nhập vào thị trường Việt Nam hay
không và chúng ta sẽ học được gì ở các doanh nghiệp Nhật Bản đang học
động ở Việt Nam.

Các nghiên cứu này đã giới thiệu và đề xuất được một số giải pháp cải thiện kinh
doanh và mơi trường kinh doanh, phát huy những vai trị của văn hóa kinh doanh.
Song lại chưa đi sâu vào phân tích sự ảnh hưởng ở một khu vực nhất định, và chưa
nhấn mạnh được đặc điểm của văn hóa kinh doanh nước ngoài tại Việt Nam, đồng
thời chưa đưa ra được những bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp cũng như
người tham gia vào hoạt động doanh nghiệp.
Cho đến nay cũng chưa có bất kì nghiên cứu nào cụ thể về văn hóa kinh doanh
của các doanh nghiệp có vốn nước ngồi tại thành phố Đà Nẵng. Đó là điều khó
khăn lớn nhất trong việc tìm kiếm tư liệu để hồn thành luận văn. Chính điều này
u cầu để hồn thành tốt luận văn này phải kết hợp số liệu và kiến thức thực tế,
cũng như dựa vào các thông tin và phân tích của các nhà nghiên cứu kinh doanh
hoặc các tạp chí kinh tế đồng thời dựa trên những thống kê cụ thể từ đó đưa ra nhìn
nhận và phân tích riêng.
3. Mục đích nghiên cứu
Cơng trình nghiên cứu dựa trên cơ sở những lý luận và thực tiễn về văn hóa kinh

doanh, để làm rõ đặc điểm văn hóa kinh doanh (Triết lý kinh doanh, đạo đức kinh
doanh, văn hóa doanh nhân, văn hóa ứng xử trong doanh nghiệp) của doanh nghiệp
Hàn Quốc và Nhật Bản ở Đà Nẵng. Từ đó thấy được những ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực của văn hóa kinh doanh hai nước này đến văn hóa kinh doanh tại Đà Nẵng.
3


Đồng thời rút ra những bài học cho các doanh nghiệp đang hoạt động tại thành phố
Đà Nẵng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
-

Đối tượng nghiên cứu

Văn hóa kinh doanh của Hàn Quốc và Nhật Bản.
-

Phạm vi nghiên cứu

Nội dung đề tài được tìm hiểu và nghiên cứu thơng qua các doanh nghiệp Nhật
Bản và Hàn Quốc trong phạm vi thành phố Đà Nẵng.
 Các doanh nghiệp Hàn Quốc nghiên cứu cụ thể như: Công Ty TNHH CJ
CGV Việt Nam (Tầng 4, TTTM Riverview Complex Đà Nẵng, Ngô Quyền,
Phường An Hải Bắc, Quận Sơn Trà, Thành Phố Đà Nẵng, Đà Nẵng), Công
ty TNHH Daewon Cantavil (Đường 2/9, Quận Hải Châu, Đà Nẵng), …
 Các doanh nghiệp Nhật Bản nghiên cứu như: Honda Oto Đà Nẵng (178
đường 2/9, Hải Châu, Đà Nẵng), Công ty TNHH Thiên Quế (đường 2 /9,
Quận Hải Châu, Đà Nẵng),…
5. Phương pháp nghiên cứu
-


Phương pháp phân tích – so sánh

-

Phương pháp xã hội học

-

Phương pháp nghiên cứu liên ngành

6. Đóng góp của khóa luận
-

Hệ thống được lý luận và thực tiễn văn hóa kinh doanh trong các doanh
nghiệp Hàn Quốc và Nhật Bản ở thành phố Đà Nẵng.

-

Đưa ra số liệu tương đối về các doanh nghiệp Hàn – Nhật đang hoạt động ở
thành phố Đà Nẵng.

-

Phân tích các nhân tố hình thành nên văn hóa kinh doanh Đà Nẵng.

-

Làm rõ đặc điểm văn hóa kinh doanh như triết lý kinh doanh, đạo đức kinh
doanh, văn hóa doanh nhân, văn hóa ứng xử trong doanh nghiệp của các

doanh nghiệp Hàn Quốc và Nhật Bản ở Đà Nẵng.

-

Cho thấy được những ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh doanh nghiệp Hàn
Quốc và Nhật Bản hoạt động ở Đà Nẵng với các doanh nghiệp trong thành
phố.
4


-

Đưa ra những bài học kinh nghiệm cho doanh nghiệp cũng như đối với văn
hóa kinh doanh ở Việt Nam nói chung và Đà Nẵng nói riêng.

7. Bố cục của khóa luận
Khóa luận gồm 3 chương:
Chương I: Những vấn đề lý luận và thực tiễn
Chương II: Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp Hàn Quốc và Nhật Bản tại Đà
Nẵng
Chương III: Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Hàn Quốc và Nhật Bản đến văn
hóa kinh doanh tại Đà Nẵng và bài học kinh nghiệm

5


CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1.1. Các khái niệm
1.1.1. Khái niệm văn hóa
Văn hóa ra đời gắn liền với sự hình thành và phát triển của xã hội lồi người.

Văn hóa là một thuật ngữ đa nghĩa, đa dạng. Có nhiều cách tiếp cận khác nhau nên
có nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm văn hóa.
Đầu tiên, từ “Văn hóa” (Cultura) trong ngơn ngữ của người Hy Lạp – La Mã
mang hai nghĩa: với nghĩa cụ thể là gieo trồng và nghĩa trừu tượng là sự phát triển
năng khiếu tinh thần của con người. Với hai nghĩa cơ bản đó từ “văn hóa” đi vào
hầu hết các ngôn ngữ châu Âu như tiếng Pháp, tiếng Anh (Culture), tiếng Đức
(Kultur).
Nửa sau của thế kỉ XIX các nhà nghiên cứu bắt đầu đưa ra những khái niệm về
văn hóa. Kể từ đó đến cuối thế kỉ XX, theo thống kê sơ bộ của học gia người Pháp
Moto trong tác phẩm“Tính xã hội của văn hóa” thì có khoảng 250 định nghĩa về
văn hóa.
Định nghĩa đầu tiên về văn hóa là định nghĩa của nhà nhân chủng học E.B.Tylor
đưa ra năm 1871. Theo ơng “Văn hóa là một tổng thể phức tạp bao gồm các kiến
thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật lệ, phong tục và tất cả những thói quen
mà con người đạt được với tư cách một thành viên trong xã hội”. Trong định nghĩa
này, Tylor chủ yếu đề cập đến văn hóa tinh thần mà khơng đề cập đến văn hóa vật
chất.
Sau Tylor đã có rất nhiều nhà khoa học nghiên cứu và đưa ra định nghĩa khác
nhau về văn hóa. Trong đó định nghĩa của Triết học Mác – Lê Nin: “Văn hóa là
tổng hợp các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, là phương thức,
phương pháp con người sử dụng nhằm cải tạo tự nhiên, xã hội và giáo dục con
người”. Định nghĩa rộng nhất và đặc biệt nhất của văn hóa đến bây giờ có lẽ là định
nghĩa của E.Heriot, theo ơng “Cái gì cịn lại sau tất cả những cái khác bị quên lãng
– đó là Văn hóa”. Định nghĩa này tuy khá đơn giản nhưng lại cho thấy tính động
của văn hóa, tính kế thừa, nó là cái cịn lại sau khi tất cả đã qua đi, nó được truyền
từ đời này sang đời khác, được tích lũy và kế thừa. Thế nhưng điểm hạn chế lớn
nhất của định nghĩ này là chỉ nói chung mà chưa đưa ra được lĩnh vực cụ thể của
văn hóa.

6



Những năm 70, 80 của thế kỉ XX, nhiều cuộc họp bàn về văn hóa dưới sự chủ trì
của Liên hợp quốc được tổ chức, qua đó có nhiều định nghĩ được đề xuất, có những
định nghĩa được thừa nhận, được coi là sự thể hiện về văn hóa của Liên hợp quốc
“Văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác dân tộc khác, từ những
sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục, tập quán, lối sống và
lao động” (Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp tại Venise năm
1970). Có thể thấy định nghĩa này đã đi sâu hơn về văn hóa, nhìn nhận văn hóa ở
nhiều khía cạnh khác nhau, và dùng văn hóa để phân biệt dân tộc, cũng như vùng
lãnh thổ.
Về văn hóa, các nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đã đưa ra những quan điểm
riêng. Nhà nghiên cứu Phạm Toàn cho rằng: “Văn hóa bắt đầu bằng việc tạo ra các
giá trị vật chất”. Ơng cho rằng một nền văn hóa bao giờ cũng bắt đầu bằng những
thành tựu vật chất, để duy trì giá trị này con người phải tìm cách duy trì lại cho thế
hệ sau.
Trong khi đó giáo sư Đặng Đức Siêu thì cho rằng mọi hoạt động ý thức của con
người tác động vào tự nhiên và xã hội, tạo ra sản phẩm, các kết quả mang theo giá
trị nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần của con người và xã
hội là văn hóa. Con người sáng tạo ra văn hóa, và cũng như vậy văn hóa lại tạo ra
bản thân con người.
Theo cách hiểu phổ thơng nhất, “văn hóa” được hiểu đơn giản là những giá trị
tinh thần, kiến thức, trình độ,… mà chúng ta bắt gặp trong đời sống như có giá trị
văn hóa cao, xử sự có văn hóa, nói năng văn hóa, trình độ văn hóa,… cũng đều xuất
phát từ cách hiểu của từ “văn hóa”.
Qua những định nghĩa điển hình trên chúng ta có thể thấy rằng có rằng nhiều
định nghĩa về văn hóa được nhìn nhận từ các khía cạnh khác nhau và rất khó để đưa
ra một định nghĩa chính xác hồn tồn. Nhưng qua những định nghĩa trên chúng ta
có thể thấy, nhìn chung văn hóa là sản phẩm của xã hội lồi người, được hình thành
trong đời sống và được truyền từ đời này sang đời khác; văn hóa có nhiều khía

cạnh, lĩnh vực và giữa chúng có mối quan hệ chặt chẽ.
Thật khó để có thể thống nhất các cách hiểu về văn hóa này để nghiên cứu trong
khn khổ một luận văn, vì thế để dễ thâm nhập hơn vào đề tài liên quan đến văn
hóa kinh doanh, chúng ta sẽ thống nhất nhìn nhận vấn đề dựa trên định nghĩa của
Czinkota, theo đó “Văn hóa là một hệ thống những cách cư xử đặc trưng cho mọi
7


thành viên của bất kì xã hội nào. Hệ thống này bao gồm mọi vấn đề, từ cách nghĩ,
nói, làm, thói quen, ngơn ngữ, sản phẩm vật chất và những tình cảm quan điểm của
các thành viên đó”. Định nghĩa này có thể dùng để xem xét văn hóa của nhiều xã
hội, nhiều nền văn hóa khác nhau. Đồng thời có thể dùng để phân tích văn hóa hình
thành nên văn hóa kinh doanh của các nước khác nhau mà khơng làm xa rời lý luận
chung về văn hóa.
1.1.2. Khái niệm kinh doanh
Kinh doanh là hoạt động cơ bản của xã hội loài người. Hoạt động này xuất hiện
gắn liền với sự xuất hiện của hoạt động sản xuất hàng hóa. Theo từ điển Tiếng Việt,
kinh doanh được hiểu là “việc tổ chức sản xuất buôn bán sao cho sinh lời” [Văn
Tân, 2000]. Với nghĩa đơn giản nhất này, từ kinh doanh khơng những có nghĩa là
bn bán là cịn là cả việc “tổ chức sản xuất”. Kinh doanh là hoạt động của cá nhân
hoặc tổ chức nhằm đạt mục đích sinh lợi nhuận thơng qua một loạt các hoạt động
kinh doanh như quản trị, tiếp thị, tài chính,…
Kinh doanh là một trong những hoạt động phong phú nhất của loại người. Kinh
doanh là một hoạt động cơ bản của con người, xuất hiện cùng với hàng hóa và thị
trường. Nếu là danh từ, kinh doanh là một nghề - được dùng để chỉ những con
người thực hiện các hoạt động nhằm mục đích kiếm lợi, cịn nếu xét ở trường hợp là
một động từ thì kinh doanh là một hoạt động, là thực hiện quá trình sản xuất, tiêu
thụ và cung ứng.
Định nghĩa về kinh doanh trong Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005 “Kinh
doanh là việc thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư

từ sản xuất đén tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi”. Rất nhiều nhà nghiên cứu lấy định nghĩa về kinh doanh của Luật
Doanh nghiệp trong tác phẩm của mình và đến nay đây vẫn là định nghĩa đầy đủ và
cụ thể nhất. Kinh doanh đồng thời là sự kết hợp giữa điều kiện, phương tiện thúc
đẩy nên khoa học kĩ thuật và công nghệ phát triển, tạo nên sự thỏa mãn ngày càng
cao nhu cầu của xã hội loài người trên tất cả các lĩnh vưc.
1.1.3. Khái niệm doanh nghiệp
Có khá nhiều định nghĩa thế nào là một doanh nghiệp, mỗi định nghĩa đều mang
trong nó một nội dung nhất định với một giá trị nhất định. Điều ấy cũng là đương
nhiên, vì rằng mỗi nhà nghiên cứu đứng trên nhiều quan điểm khác nhau khi tiếp
cận.
8


Chẳng hạn:
-

Xét theo quan điểm luật pháp:

Theo Luật doanh nghiệp 2005: “Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tư cách pháp
nhân, có con dấu, có tài sản, có quyền và nghĩa vụ dân sự hoạt động kinh tế theo
chế độ hạch toán độc lập, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh tế trong
phạm vi vốn đầu tư do doanh nghiệp quản lý và chịu sự quản lý của nhà nước bằng
các loại luật và chính sách”.
-

Xét theo quan điểm chức năng:

Doanh nghiệp được định nghĩa như sau: "Doanh nghiệp là một đơn vị tổ chức
sản xuất mà tại đó người ta kết hợp các yếu tố sản xuất (có sự quan tâm giá cả của

các yếu tố) khác nhau do các nhân viên của công ty thực hiện nhằm bán ra trên thị
trường những sản phẩm hàng hóa hay dịch vụ để nhận được khoản tiền chênh lệch
giữa giá bán sản phẩm với giá thành của sản phẩm ấy” [M.Francois Peroux,1955,
Những nguyên lí kinh tế học].
-

Xét theo quan điểm phát triển:

“Doanh nghiệp là một cộng đồng người sản xuất ra những của cải. Nó sinh ra,
phát triển, có những thất bại, có những thành cơng, có lúc vượt qua những thời kỳ
nguy kịch và ngược lại có lúc phải ngừng sản xuất, đơi khi tiêu vong do gặp phải
những khó khăn khơng vượt qua được" [D.Larua.A Caillat,1992. Kinh tế doanh
nghiệp, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội].
-

Xét theo quan điểm hệ thống:

Doanh nghiệp được các tác giả nói trên xem rằng doanh nghiệp bao gồm một tập
hợp các bộ phận được tổ chức, có tác động qua lại và theo đuổi cùng một mục tiêu.
Các bộ phận tập hợp trong doanh nghiệp bao gồm 4 phân hệ sau: sản xuất, thương
mại, tổ chức, nhân sự.
Ngoài ra có thể liệt kê hàng loạt những định nghĩa khác nữa khi xem xét doanh
nghiệp dưới những góc nhìn khác nhau. Song giữa các định nghĩa về doanh nghiệp
đều có những điểm chung nhất, nếu tổng hợp chúng lại với một tầm nhìn bao quát
trên phương diện tổ chức quản lý là xuyên suốt từ khâu hình thành tổ chức, phát
triển đến các mối quan hệ với môi trường, các chức năng và nội dung hoạt động của
doanh nghiệp cho thấy đã là một doanh nghiệp nhất thiết phải được cấu thành bởi
những yếu tố sau đây:
9



 Yếu tố tổ chức: một tập hợp các bộ phận chun mơn hóa nhằm thực hiện
các chức năng quản lý như các bộ phận sản xuất, bộ phận thương mại, bộ
phận hành chính.
 Yếu tố sản xuất: các nguồn lực lao động, vốn, vật tư, thông tin.
 Yếu tố trao đổi: những dịch vụ thương mại - mua các yếu tố đầu vào, bán sản
phẩm sao cho có lợi ở đầu ra.
 Yếu tố phân phối: thanh toán cho các yếu tố sản xuất, làm nghĩa vụ nhà
nước, trích lập quỹ và tính cho hoạt động tương lai của doanh nghiệp bằng
khoản lợi nhuận thu được.
Từ cách nhìn nhận như trên có thể phát biểu định nghĩa về doanh nghiệp như sau:
Doanh nghiệp là đơn vị kinh tế có tư cách pháp nhân, quy tụ các phương tiện tài
chính, vật chất và con người nhằm thực hiện các hoạt động sản xuất, cung ứng, tiêu
thụ sản phẩm hoặc dịch vụ, trên cơ sở tối đa hóa lợi ích của người tiêu dùng, thơng
qua đó tối đa hóa lợi ích của chủ sở hữu, đồng thời kết hợp một cách hợp lý các
mục tiêu xã hội.
Luật doanh nghiệp 2005 giải thích: “Kinh doanh là việc thực hiện liên tục một,
một số hoặc tất cả các cơng đoạn của q trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thụ sản
phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy
doanh nghiệp là tổ chức kinh tế vị lợi, mặc dù thực tế một số tổ chức doanh nghiệp
có các hoạt động khơng hồn tồn nhằm mục tiêu lợi nhuận”.
Luật Doanh nghiệp 2014 được thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2014 và chính
thức có hiệu lực từ 01 tháng 7 năm 2015 giải thích:
-

Doanh nghiệp là tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch, được
đăng ký thành lập theo quy định của pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.

-


Doanh nghiệp nhà nước là doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn
điều lệ.

-

Doanh nghiệp Việt Nam là doanh nghiệp được thành lập hoặc đăng ký thành
lập theo pháp luật Việt Nam và có trụ sở chính tại Việt Nam.

- Doanh nghiệp nước ngồi hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Khoản 6 Điều 3 của Luật Đầu tư định nghĩa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngồi là doanh nghiệp do nhà đầu tư nước ngoài thành lập để thực hiện hoạt động

10


đầu tư tại Việt Nam hoặc là doanh nghiệp Việt Nam do nhà đầu tư nước ngoài mua
cổ phần, sáp nhập, mua lại.
Pháp luật hiện hành quy định tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư nước
ngoài hoặc tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư
nước ngoài thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi theo các loại hình
cơng ty trách nhiệm hữu hạn, cơng ty cổ phần, công ty hợp danh theo quy định của
Luật Doanh nghiệp.
Bên cạnh các quy định của pháp luật áp dụng chung, phù hợp với các cam kết
quốc tế mà Việt Nam là thành viên và để thuận lợi cho công tác quản lý đầu tư,
pháp luật về doanh nghiệp và về đầu tư áp dụng riêng đối với đầu tư nước ngồi về
lĩnh vực đầu tư có điều kiện, về quy định trong việc thành lập công ty cổ phần,
doanh nghiệp tư nhân, về thủ tục đầu tư, về đầu mục hồ sơ dự án đầu tư và về địa
điểm thực hiện thủ tục đăng ký doanh nghiệp.
1.1.4. Khái niệm văn hóa kinh doanh
Văn hóa là một phạm trù rộng lớn, bao trùm và ảnh hưởng hầu hết các mặt đời

sống xã hội. Và cũng không thể phủ nhận rằng sự phát triển của văn hóa gắn với sự
phát triển của kinh tế, khi mà nền kinh tế thế giới đang ngày càng đạt nhiều thành
quả to lớn, vai trò kinh doanh nói chung và kinh doanh quốc tế nói riêng đang ngày
càng được khẳng định.
Trên thế giới tồn tại rất nhiều định nghĩa về văn hóa kinh doanh, nhưng về cơ bản
có thể phân thành hai cách hiểu sau:
Cách hiểu thứ nhất là cách hiểu theo nghĩa hẹp, coi doanh nghiệp là chủ thể
chính của hoạt động kinh doanh, mọi hoạt động kinh doanh của xã hội đều tập trung
ở doanh nghiệp; nên người ta đồng nhất văn hóa kinh doanh (business culture) với
văn hóa doanh nghiệp (corporate culture). Những người có quan niệm này coi
doanh nghiệp là một cộng đồng riêng biệt trong đó kinh doanh là hoạt động đặc thù.
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO – International Labour Organization) cho rằng
“Văn hóa doanh nghiệp là sự trộn lẫn đặc biệt các giá trị, các tiêu chuẩn, thói quen
và truyền thống, những thái độ ứng xử và lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối
với một tổ chức đã biết” [Đỗ Thị Phi Hoài,2011.129]. Trên thực tế, kinh doanh
không chỉ là hoạt động của nội bộ doanh nghiệp mà còn liên quan đến nhiều đối
tượng hữu quan khác nhau như các cơ quan quản lý nhà nước, khách hàng, đối
tác,… Và văn hóa kinh doanh cũng bị tác động bởi nhiều yếu tố thông qua các hoạt
11


động kinh doanh. Vì vậy, khái niệm văn hóa kinh doanh khơng thể đồng nhất hồn
tồn với khái niệm doanh nghiệp.
Cách hiểu thứ hai coi kinh doanh là hoạt động có liên quan đến mọi thành viên
trong xã hội nên văn hóa doanh nghiệp chỉ là một bộ phận trong văn hóa kinh doanh
của một dân tộc. Các nhà nghiên cứu trong viện kinh doanh Nhật Bản – Hoa Kỳ đã
đưa ra định nghĩa: “Văn hóa kinh doanh có thể được định nghĩa như ảnh hưởngcủa
những mơ hình văn hóa của một xã hội đến những thiết chế và thông lệ kinh doanh
của xã hội đó” [Kluckhohn, 2001. Lý thuyết chiều văn hóa của Hofstede].
Ở Việt Nam, cũng có nhiều định nghĩa được đưa ra như Đỗ Huy có đưa ra khái

niệm: “Văn hóa kinh doanh là một bộ phận cấu thành nền văn hóa chung, phản ánh
trình độ của con người trong lĩnh vực kinh doanh” [Đỗ Huy, 2002]. Theo đó, văn
hóa kinh doanh là một bộ phận của văn hóa xã hội, là sự phản ánh thực tiễn hoạt
động kinh doanh của con người. Ở khái niệm này, văn hóa kinh doanh được hiểu
theo nghĩa rộng. Sau đó PGS.TS Đỗ Minh Cương cũng cho rằng: “Văn hóa kinh
doanh là việc sử dụng các nhân tố văn hóa vào trong hoạt động kinh doanh của chủ
thể, là cái văn hóa mà các chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh
hình thành nên những kiểu kinh doanh ổn định và đặc thù của họ” [Đỗ Minh
Cương, 2001]. Văn hóa kinh doanh và triết lý kinh doanh, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia Hà Nội]. Trong khi đó PGS.TS Dương Thị Liễu cho rằng: “Văn hóa kinh
doanh là tồn bộ các nhân tố văn hóa được chủ thể kinh doanh chọn lọc, tạo ra, sử
dụng và biểu hiện trong hoạt động kinh doanh, tạo nên bản sắc kinh doanh của chủ
thể đó” [Dương Thị Liễu, 2012, Giáo trình văn hóa kinh doanh, Nhà xuất bản Đại
học kinh tế quốc dân].
Để nghiên cứu vấn đề này, nhóm nghiên cứu của T.S Nguyễn Thị Ngọc Anh đã
nhìn nhận dưới góc độ triết học, trên cơ sở kế thừa những giá trị của những nghiên
cứu trước, cho rằng văn hóa kinh doanh được định nghĩa theo nghĩa rộng và nghĩa
hẹp như sau:
 Theo nghĩa rộng, văn hóa kinh doanh là một bộ phận cấu thành nền văn hóa
chung của một dân tộc, phản ánh hoạt động kinh doanh và mức độ gắn kết
giữa cái lợi và những giá trị chân, thiện, mỹ của con người trong từng giai
đoạn lịch sử.

12


 Theo nghĩa hẹp, văn hóa kinh doanh thể hiện sự gắn kết cái lợi với những giá
trị chân, thiện, mỹ để tạo ra bản sắc kinh doanh nhằm đạt đến sự phát triển
bền vững của chủ thể kinh doanh [Nguyễn Thị Ngọc Anh, 2012].
Hiện nay, nhiều người vẫn đồng nhất hai khái niệm văn hóa kinh doanh và văn

hóa doanh nghiệp. Trên thực tế đây là hai khái niệm có phạm vi phản ánh khác
nhau.
Đa phần các nhà nghiên cứu ở Việt Nam đều thừa nhận văn hóa kinh doanh là
hoạt động có liên quan đến mọi thành viên trong xã hội nên văn hóa kinh doanh là
phạm trù lớn, cịn văn hóa doanh nghiệp là văn hóa kinh doanh của từng doanh
nghiệp và là một phần trong văn hóa kinh doanh. Trong khóa luận này để dễ nghiên
cứu hơn chúng ta cũng dùng cách hiểu như trên, coi văn hóa doanh nghiệp là một
phần của văn hóa kinh doanh, để từ đó xem xét doanh nghiệp trên nền tảng văn hóa
kinh doanh. Cách đơn giản nhất để hiểu văn hóa kinh doanh đó chính là nền tảng
tinh thần và phong cách kinh doanh của một dân tộc.
1.2. Văn hóa kinh doanh Đà Nẵng
1.2.1. Những yếu tố tác động đến văn hóa kinh doanh Đà Nẵng
1.2.1.1. Văn hóa, xã hội
Văn hóa kinh doanh là một bộ phận của văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội. Vì vậy,
sự phản chiếu của văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội lên nền văn hóa kinh doanh là
một điều tất yếu. Mỗi cá nhân trong một nền văn hóa kinh doanh đều phụ thuộc vào
một nền văn hóa dân tộc cụ thể, với một phần tuân theo các giá trị văn hóa dân tộc
cụ thể, với một phần nhân cách tuân theo các giá trị văn hóa dân tộc. Mức độ coi
trọng tính cá nhân hay tính tập thể, khoảng cách phân cấp xã hội, tính linh hoạt
chuyển đổi giữa các tầng lớp xã hội, tính đối lập giữa nam quyền và nữ quyền, tính
thận trọng,… là những nhân tố của văn hóa xã hội tác động mạnh mẽ đến văn hóa
kinh doanh. Hoạt động kinh doanh ln tồn tại trong một mơi trường xã hội nhất
định nên nhất thiết nó phải chịu ảnh hưởng của văn hóa xã hội. Các yếu tố của nền
văn hóa xã hội như hệ giá trị, tập tục, thói quen, nghi lễ, lối sống, tư tưởng tôn giáo,
cơ cấu dân số, thu nhập của dân chúng, vai trị của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã
hội,… đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động của daonh nghiệp.
Đà Nẵng nằm ở vùng duyên hải Nam Trung Bộ và mang những đặc trưng tiêu
biểu của vùng, đặt biệt là văn hóa vùng duyên hải.

13



Đà Nẵng, theo gốc tiếng Chăm nghĩa là cửa sông lớn, sơng lớn - là một vùng đất
khơng có địa giới rõ ràng...Từ khi trở thành nhượng địa (1888) đến Cách mạng
Tháng Tám, Đà Nẵng được 129 năm tồn tại. Đây là khoảng thời gian quá ngắn cho
sự tích tụ, bồi lắng để hình thành nên văn hóa Đà Nẵng. Điều cần thấy rõ, sự hình
thành văn hóa Đà Nẵng trong điều kiện thành phố nhượng địa phụ thuộc rất lớn vào
chính sách cai trị của thực dân. Chính sách bịn rút của Pháp đã khơng thể tạo nên
diện mạo kinh tế khả quan cho thành phố Đà Nẵng. Cùng với đó, thực dân đã thực
hiện ở đây một chính sách ngu dân, kìm hãm văn hóa: đến năm 1945 chưa có
trường trung học; khơng có bất cứ tờ báo nào (Huỳnh Thúc Kháng lúc đầu định lập
báo Tiếng Dân ở Đà Nẵng sau phải đặt trụ sở ở Huế); khơng có nhà hát lớn, chỉ có
rạp Hịa Bình nhỏ bé, quê mùa do tư nhân xây dựng... Có lẽ, dấu ấn quan trọng nhất
về văn hóa mà người Pháp để lại cho Đà Nẵng là Bảo tàng Điêu khắc Chăm (xây
dựng năm 1915, hồn thành năm 1930).
“Khơng thể tách rời văn hóa Đà Nẵng khỏi văn hóa Quảng Nam, văn hóa xứ
Quảng. Cách đây 5 thế kỷ rưỡi, Quảng Nam đã là một trung tâm kinh tế, chính trị
lớn của nước Đại Việt. Những người sống trên mảnh đất này đã giao hòa, cùng
chung sống, cùng chống lại thiên tai, địch họa, hình thành nên một quần cư lớn. Nền
văn hóa xứ Quảng là tinh hoa của quần cư đó. Sau khi chia tách, nhiều người nghĩ
rằng kho tàng văn hóa nằm hết ở Quảng Nam, cịn Đà Nẵng chẳng sở hữu gì cả.
Thực ra, khi xét dưới góc nhìn văn hóa, điều này khơng đúng. Cái ranh giới hành
chính được tạo ra giữa 2 địa phương, đơi khi không phải là ranh giới về văn hoas.
Công dân của thành phố Đà Nẵng vẫn khơng thấy mình xa cách về ngữ điệu, về tính
cách, về tư duy với người anh em Quảng Nam. Kho tàng văn hóa mà người Đà
Nẵng sở hữu không thể chỉ giới hạn trong không gian hành chính của thành phố
này. Tuy nhiên, ngày nay Đà Nẵng cũng khơng thể tự hài lịng với những gì mình
đang có. Thành phố cần có những thiết chế văn hóa (bảo tàng, nhà hát, khn
viên...) mới đáp ứng được địi hỏi của xã hội” [Trương Quốc Bình, 2006].
Người Đà Nẵng mang nhiều đặc điểm chung của con người miền Trung, bộc

trực thẳng thắng, người Đà Nẵng nói chung cởi mở, gần gũi và thân thiện. Khơng
q kín đáo và trầm lặng. Điều này vừa tạo chính là lợi thế trong văn hóa kinh
doanh ở Đà Nẵng, song bộc trực thẳng thắng cũng đem lại những tiêu cực nhất định
trong hoạt động kinh doanh.

14


Đà Nẵng nằm trong vùng đất được tôn vinh là “Ngũ phụng Tề phi”, gắn liền với
truyền thống hiếu học và say mê sáng tạo. Người Đà Nẵng có bản tính chất phác,
ngay thẳng, sống đơn giản, thân thiện, yêu sự chân thật và kiên quyết trong hành
động chống lại những điều ác, điều xấu. Trải qua diễn trình lịch sử, Đà Nẵng là nơi
quần cư của cư dân nhiều địa phương khác đến; là nơi giao lưu và hội tụ những nét
văn hóa của nhiều vùng miền trong cả nước. Dẫu chưa hình thành nét đặc trưng rõ
rệt như một số nơi nhưng người Đà Nẵng vẫn có tính cách riêng và ngày càng được
hun đúc cùng tiến trình phát triển đơ thị.
Chính những đặc điểm trong văn hóa xã hội của Đà Nẵng đã tạo nên một nét văn
hóa kinh doanh riêng biệt mang đặc trưng Đà Nẵng. Văn hóa Đà Nẵng tiếp nhận
giao lưu với nhiều nền kinh tế vì thế văn hóa kinh doanh Đà Nẵng mang tính mở rất
lớn. Các doanh nghiệp Đà Nẵng rất cởi mở trong việc tiếp thu những đặc trưng kinh
doanh nổi bật của các doanh nghiệp ngoài thành phố và ngoài nước. Đồng thời là
thành phố mới nên tốc độ phát triển văn hóa kinh doanh của thành phố Đà Nẵng
cũng rất nhanh. Người Đà Nẵng có những lễ nghi, phong tục riêng biệt của người
dân vùng duyên hải miền trung nên trong văn hóa kinh doanh, người Đà Nẵng đặt
ra cho mình những quy luật hay triết lý kinh doanh riêng, chẳng hạn như việc phát
triển văn hóa doanh nghiệp dựa trên việc phát triển văn hóa truyền thống. Người Đà
Nẵng dùng lễ hội, phong tục, tập quán, tín ngưỡng để phát triển thành các hình thức
kinh doanh, đặc biệt là kinh doanh du lịch.
Đặc biệt với tính cách của mình, người Đà Nẵng đã xây dựng một nền tảng đạo
đức kinh doanh vững chắc. Trong kinh doanh, các doanh nghiệp của ở Đà Nẵng rất

coi trọng đối tác, họ bộc trực thẳng thắn, thường trong các hợp đồng hoặc kí kết
kinh doanh, họ sẽ đưa ra những quan điểm, ý kiến và yêu cầu của mình trong hợp
đồng. Các doanh nghiệp ở Đà Nẵng hầu hết là các doanh nghiệp “trưởng thành sau”
hầu như họ điều nhún nhường trong các cuộc họp kinh doanh, song lại khá dứt
khoát trong việc nắm bắt hợp đồng. Đối với người Đà Nẵng, trong kinh doanh họ
coi trọng mối quan hệ thân tình, như bản chất con người vậy, họ thường sử dụng
những mối quan hệ trong kinh doanh, và sẽ tự tin hơn khi kí kết với những đối tác
đã quen biết, nên họ có xu hướng giữ mối quan hệ hoặc hợp đồng lâu dài với đối tác
quen.

15


1.2.1.2. Thể chế xã hội
Thể chế là yếu tố hàng đầu, có vai trị tác động chi phối tới văn hóa kinh doanh
của mỗi nước. Hoạt động sản xuất - kinh doanh của từng cá nhân, từng tổ chức,
từng doanh nghiệp trong xã hội đều phải chịu sự quy định, sự tác động của môi
trường thể chế, phải tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục hành chính, sự quản lý của
Nhà nước về kinh tế. Do vậy, có thể nói, thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế
hành chính, thể chế văn hóa, các chính sách của Chính phủ, hệ thống pháp chế,… là
những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến mơi trường kinh doanh và qua đó ảnh hưởng
sâu sắc tới việc hình thành và phát triển văn hóa kinh doanh. Sự ổn định chính trị
được coi là một tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Sự
bình ổn của hệ thống chính trị biểu hiện qua các yếu tố pháp luật, ngoại giao, hệ
thống chính sách, v.v… sẽ tạo điều kiện tốt cho hoạt động kinh doanh, tạo sự ổn
định của doanh nghiệp và tạo điều kiện cho sự phát triển văn hóa kinh doanh.
Đà Nẵng có một bộ máy chính quyền trong sạch, vững mạnh. Điều này được
chứng minh trong nhiều năm qua Đà Nẵng là một trong rất ít địa phương liên tục
giữ vị trí thứ hạng cao nhất về chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh của thành phố
PCI (2). Theo kết quả Chỉ số năng lực cạnh tranh PCI 2016 vừa được Phịng Thương

mại và Cơng nghiệp Việt Nam (VCCI) công bố ngày 14/3, Đà Nẵng lần thứ tư liên
tiếp giữ ngôi đầu bảng với số điểm 70 (trên thang điểm 100). Đây cũng là lần thứ 7
thành phố dẫn đầu cả nước kể từ khi PCI được công bố.
Không chỉ dẫn đầu về chỉ số PCI mà các chỉ số về xếp hạng chất lượng điều
hành kinh tế của chính quyền cấp tỉnh trong việc tạo lập mơi trường chính sách
thuận lợi cho việc phát triển doanh nghiệp dân doanh thành phố Đà Nãng cũng luôn
được đánh giá cao.
Nói đến Đà Nẵng khơng thể khơng nói đến các chương trình lớn mang đậm tính
nhân văn như chương trình “Thành phố 5 khơng”, “Thành phố 3 có” đã làm nên
thương hiệu và bản sắc riêng của Đà Nẵng trong suốt những năm qua. 5 khơng - đó
là khơng có hộ đói, khơng có người mù chữ, khơng có người lang thang xin ăn,
khơng có người nghiện ma túy trong cộng đồng, khơng có giết người cướp của.
Văn hóa kinh doanh của một quốc gia, một vùng lãnh thổ chịu ảnh hưởng sâu
sắc bởi thể chế xã hội, và chịu chi phối cũng như hoạt động trực tiếp dưới sự giám
sát và kiểm tra của hệ thống thể chế chính trị xã hội.

16


Như đã nói, thành phố Đà Nẵng là thành phố mới, được tách ra từ Quảng Nam
và đa phần dân số ở Đà Nẵng điều là dân bản địa, họ sống hài hịa và cởi mở với
nhau, chính những điều này làm cho nội bộ chính trị trong thành phố tương đối ổn
định. Khác với các đất nước hay vùng miền khác trên thế giới, Đà Nẵng khơng có
những cuộc bảo động, biểu tình, hay những bất ổn chính trị, đây là lợi thế lớn của
thành phố Đà Nẵng để thu hút đầu tư nước ngoài,rất nhiều doanh nghiệp ở các nước
phát triển chọn Đà Nẵng làm địa điểm hoạt động chi nhánh doanh nghiệp hay thậm
chí là nơi ra đời những doanh nghiệp mới. Việc hoạt động ở một thành phố có chính
trị ổn định và hài hịa ln cho các doanh nghiệp ngoài nước cảm giác an toàn và
tập trung hồn tồn cho việc phát triển kinh tế.
Khơng chỉ người dân Đà Nẵng sống hòa hợp với nền chính trị của họ, mà mối

quan hệ của bộ máy lãnh đạo với người dân cũng khá gắn kết, thậm chí thành phố
Đà Nẵng ln tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ngồi nước hoạt động kết hợp với
những chính sách, điều luật phù hợp với doanh nghiệp nước ngoài. Ngồi ra, lãnh
đạo Đà Nẵng cịn thực hiện nhiều cuộc nói chuyện với doanh nghiệp nước ngồi, và
thực hiện các quốc hội thảo giữa doanh nghiệp trong và ngoài nước. Rõ ràng chúng
ta có thể thấy, thể chế chính trị xã hội Đà Nẵng cũng là một nguyên nhân mà Đà
Nẵng lại tạo nên cho mình sức hút đầu tư và phát triển kinh tế mạnh mẽ như hiện
nay.
1.2.1.3. Sự khác biệt và giao lưu văn hóa
Giữa các quốc gia, các chủ thể kinh doanh và các cá nhân trong đơn vị kinh
doanh khơng bao giờ có cùng một kiểu văn hóa thuần nhất. Trong mơi trường kinh
doanh quốc tế ngày nay, các chủ thể kinh doanh không thể duy trì văn hóa của mình
như một lãnh địa đóng kín mà phải mở cửa và phát triển giao lưu về văn hóa. Sự
giao lưu về văn hóa tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh học tập, lựa chọn
những khía cạnh tốt về văn hóa của các chủ thể khác nhằm phát triển mạnh nền văn
hóa của doanh nghiệp mình. Mặt khác, quá trình tìm hiểu và giao lưu văn hóa ngày
càng làm cho các chủ thể kinh doanh hiểu thêm về nền văn hóa của mình từ đó tác
động trở lại hoạt động kinh doanh.
Là cửa ngõ và trung tâm của việc giao lưu văn hóa ở Việt Nam, văn hóa Đà
Nẵng tiêu biểu cho việc giao lưu văn hóa với các quốc gia khác trên thế giới cũng
như việc hịa nhập văn hóa các vùng miền khác.

17


Văn hóa Đà Nẵng giao lưu về nhiều mặt với nhiều quốc gia, tuy nhiên khi nói
đến văn hóa kinh doanh, có thể thấy văn hóa kinh doanh thành phố Đà Nẵng có sự
giao lưu lạnh mẽ với các nước như Nhật Bản, Trung Quốc, Mỹ, Hàn Quốc, Ấn Độ,
Anh,… Tuy nhiên trong thời gian gần đây, các doanh nghiệp Hàn Quốc, Nhật Bản
đầu tư và mở rộng kinh doanh tại thành phố Đà Nẵng khá mạnh mẽ, chính điều này

đã tác động ít nhiều đến văn hóa kinh doanh của thành phố.
Chính việc giao lưu với các nền văn hóa khác nhau đã tạo cho văn hóa Đà Nẵng
một nền tảng vững chắc trong quá trình phát triển. Hình thành nên những bước tiến
quan trọng trong việc phát triển thành phố.
1.2.1.4. Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế
Tồn cầu hóa tạo nên một xu thế phát triển ngày càng rõ nét, các nền kinh tế
ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau, tiến dần đến một hệ thống kinh tế tồn cầu.
Trong q trình tồn cầu hóa diễn ra sự giao lưu giữa các nền văn hóa kinh doanh,
đã bổ sung thêm giá trị mới cho kinh doanh mỗi nước, làm phong phú thêm kho
tàng kiến thức về kinh doanh, biết cách chấp nhận những luật chơi chung, những giá
trị chung để cùng hợp tác phát triển. Đồng thời trong q trình này, các giá trị văn
hóa truyền thống của các quốc gia được khơi dậy, làm tôn vinh tên tuổi của quốc
gia đó trên thị trường thế giới. Sự phát triển của các cơng ty tập đồn tồn cầu, đa
quốc gia khơng những góp phần vào sự thịnh vượng của kinh tế thế giới, mà cịn
góp phần hình thành nên các chuẩn mực quản lý kinh doanh và làm giàu, sâu sắc
thêm bản sắc kinh doanh của các doanh nghiệp.
Có thể thấy Đà Nẵng trong thời gian qua đã nắm bắt nhiều cơ hội của quá trình
hội nhập thông qua việc thu hút các dự án đầu tư, từ đó đạt được nhiều kết quả ban
đầu khá ấn tượng. Sự xuất hiện của các thương hiệu toàn cầu trong vài năm trở lại
đây đã đem lại cho Đà Nẵng một mức tăng trưởng nhất định. Trong đó, phải kể đến
sự xuất hiện của các thương hiện lớn như: Samsung, Honda, CJ CGV,…
Ngoài ra, nhiều doanh nghiệp Hàn Quốc đi vào hoạt động và đang có kết quả
kinh doanh tốt như: Công ty TNHH Thiên Quế, Honda Đà Nẵng, Toyota Đà
Nẵng,…
Tuy nhiên, cơ hội luôn đồng hành với những thách thức, quá trình hội nhập
WTO mang lại rất nhiều thuận lợi cho sự phát triển của Đà Nẵng, song cũng đặt ra
khơng ít khó khăn, trăn trở.

18



1.2.2. Thực trạng văn hóa kinh doanh ở Đà Nẵng
Theo thống kê chung không chỉ ở Đà Nẵng mà cả nước kết quả nghiên cứu về
tinh thần kinh doanh do Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương phối hợp với
tổ chức JICA (Nhật Bản) tiến hành trong khuôn khổ dự án Ishikawa năm 2000 đã
thể hiện rõ điều này. Khi được hỏi về động cơ kinh doanh, 41,4% số doanh nhân trả
lời là "muốn làm gì có ích cho xã hội"; 27,3% trả lời là do "muốn tự quyết định
cơng việc của mình"; 13,5% là do "muốn phát huy tối đa khả năng của mình";
16,4% do "muốn tiếp tục cơng việc của gia đình hiện nay"; 9,7% do "muốn kiếm
nhiều tiền hơn"; 5,1% do "công việc trước đây khơng thích hợp" và 1,3% do "khơng
có việc làm” [Lê Đặng Doanh,2006. Doanh Nhân, Doanh Nghiệp Và Cải Cách
Kinh Tế, Nhà xuất bản Trẻ]. Những con số này cho thấy doanh nhân Việt Nam có
trách nhiệm và ý thức xã hội khá cao. Điều này khẳng định rằng, doanh nghiệp kinh
doanh khơng chỉ vì mục đích cá nhân, mặc dù động cơ này hồn tồn là chính đáng.
Thời gian gần đây Đà Nẵng tiếp nhận được nhiều dự án hợp tác quốc tế nhờ
những định hướng và ưu tiên phát triển hiện tại của thành phố rất phù hợp với xu
hướng hợp tác quốc tế. Đó là những định hướng về bảo vệ mơi trường, ứng phó với
biến đổi khí hậu và phát triển nguồn nhân lực.
Riêng trong lĩnh vực môi trường, từ khi thành phố ban hành đề án Xây dựng Đà
Nẵng - Thành phố môi trường từ năm 2008 đến nay, thành phố tiếp nhận khoảng 30
dự án do các tổ chức quốc tế tài trợ, điển hình như Phát triển bền vững thành phố
Đà Nẵng (Ngân hàng Thế giới tài trợ), Phát triển đô thị Đà Nẵng thân thiện với mơi
trường và biến đổi khí hậu (tổ chức GIZ, Đức tài trợ), Mạng lưới các thành phố
châu Á chống chịu với Biến đổi khí hậu (Quỹ Rockefeller, Mỹ tài trợ), Dự án Đơ thị
mơ hình hàm lượng carbon thấp (APEC tài trợ).
Bên cạnh việc hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, Đà Nẵng cịn được mời là thành viên
trong các dự án mang tính liên kết để chia sẻ kinh nghiệm, thực tiễn phát triển thành
phố môi trường…
Thành phố cũng rất chủ động trong việc tiếp cận đối tác nước ngồi để tìm kiếm
các cơ hội hợp tác. Hàng năm, thành phố tổ chức hai Hội thảo xúc tiến đầu tư quy

mô lớn ở trong nước và nước ngoài, bốn Hội chợ xúc tiến thương mại quốc tế, trong
đó có Hội chợ Thương mại - Đầu tư - Du lịch Hành lang kinh tế Đơng Tây. Ngồi
ra, Sở Ngoại vụ chủ động phối hợp với đại sứ quán, cơ quan đại diện của các nước

19


để tổ chức các Hội thảo kết nối cơ hội hợp tác giao thương, một Hội thảo gặp gỡ
các nhà tài trợ…
Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần làm hoạt động kinh doanh ở Đà
Nẵng phát triển mạnh mẽ. Nhiều loại hình kinh doanh mới ra đời như các xí nghiệp
liên doanh với nước ngồi, các hình thức kinh doanh quốc tế. Lợi nhuận thu được từ
kinh doanh cũng tăng lên, góp phần khẳng định và nâng cao vai trị của kinh doanh
nói chung và doanh nhân nói riêng trong xã hội Đà Nẵng.
Tiến trình hội nhập đã mở cửa cho nền kinh tế thành phố Đà Nẵng hội nhập
cùng nền kinh tế thế giới, môi trường kinh doanh được mở rộng, sôi động, đã tạo
điều kiện cho các doanh nhân Đà Nẵng có cơ hội phát huy hết khả năng của mình,
nâng cao trình độ kinh doanh phù hợp với yêu cầu của thị trường. Các doanh nhân
được tiếp xúc với các kỹ năng hoàn toàn mới như marketing, xây dựng thương hiệu,
đăng ký bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ,… làm phong phú thêm cho kho tàng kiến thức
về kinh doanh của người Đà Nẵng.
Đà Nẵng là thành phố trẻ, phát triển sau nên số người trẻ tiếp nhận việc kinh
doanh, học tập và phát triển kinh doanh ngày càng nhiều. So với các thành phố
trong cả nước chỉ số gia tăng có vượt bậc. Khơng chỉ những người có học hành mới
bắt tay vào kinh doanh, mà ngay cả những người đang là doanh nhân cũng mong
muốn được học hỏi, nâng cao trình độ của mình. Điều này chứng tỏ doanh nhân
hiện nay đã ý thức được tầm quan trọng của kiến thức khi tiến hành kinh doanh,
nhất là trong thời buổi mở cửa và hội nhập. Đặc biệt là với một thành phố đang trên
đường phát triển mạnh mẽ như Đà Nẵng.
Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng được trẻ hoá, phần lớn đang ở độ tuổi

sung sức.
Ngoài những điểm mạnh chúng ta cũng cịn khơng ít những hạn chế trong văn
hóa kinh doanh của doanh nghiệp như:
- Chúng ta vốn là thành phố phát triển nhưng xuất phát điểm và gắn liền với nền
văn hóa nơng – ngư nghiệp, nên chúng ta thiên về tinh thần hơn là vật chất,
thích hịa hiếu, trọng tình nghĩa, ham danh hơn ham lợi, trọng thể hiện,… Đây
là những nét văn hóa truyền thống gắn bó với người Việt nói chung và người
Đà Nẵng nói riêng. Trong kinh doanh yếu tố này một mặt cản trở phát triển
kinh tế, nhưng mặt khác lại giúp cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
có tơn ti, trật tự, đặc biệt là đảm bảo các giá trị đạo đức không bị xáo trộn.
20


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×