Tải bản đầy đủ (.pdf) (71 trang)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 71 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

KHOA GIÁO DỤC CHÍNH TRỊ


Đề tài:

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VỚI VIỆC XÂY
DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NỮ
- LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Giáo viên hƣớng dẫn: Th. Cao Đức Dũng
Sinh viên thực hiện : Lê Thị Gái
Lớp

: 10SGC

Đà Nẵng, 05/2014


Trong q trình thực hiện khóa luận này, em đưuọc sự giúp đỡ
tận tình của Thầy giáo Cao Đức Dũng, sự quan tâm của thầy cô và
sự động viên của các bạn trong khoa Giáo dục chính trị. Nhân dịp
hồn thành khóa luận này, em xin tỏ long biết ơn tới q thầy cơ và
các bạn.
Mặc dù đã có gắng, nỗ lực hết mình trong quá trình nghiên
cứu nhưng do bước đầu nghiên cứu trình độ, kinh nghiệm cịn hạn
chế nên khó tránh khỏi thiếu sót. Em rất mong được sự đóng góp
của thầy cơ. Những ý kiến của thầy cô chắc chắn sẽ giúp cho em rất
nhiều tring quá trình nghiên cứu, học tập và cơng tác.


Đà nẵng, tháng 05 năm 2012
Sinh viên thực hiện
Lê Thị Gái

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................- 3 1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................... - 3 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................ - 4 2.1. Mục tiêu nghiên cứu.............................................................................. - 4 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ - 4 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................ - 5 3.1 Đối tượng nghiên cứu............................................................................. - 5 3.2. Phạm vi nghiên cứu ............................................................................... - 5 4. Phương pháp nghiên cứu .......................................................................... - 5 5. Bố cục đề tài ............................................................................................. - 5 6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu .................................................................. - 5 CHƢƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐẢNG
CỘNG SẢN VIỆT NAM VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ
CÁN BỘ NỮ ................................................................................................- 8 1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây
dựng, phát triển đội ngũ cán bộ nữ .............................................................. - 8 1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng và phát triển cán
bộ nữ ............................................................................................................. - 8 1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển cán bộ nữ........... - 11 1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển cán
bộ nữ ........................................................................................................... - 15 1.3. Những điều kiện cần thiết để phụ nữ tham gia tích cực vào đời sống kinh
tế, xã hội của đất nước................................................................................ - 24 2


1.3.1.Vị trí, vai trị của phụ nữ nói chung và cán bộ nữ nói riêng cần được xã
hội tơn trọng và nam giới quan tâm ........................................................... - 24 1.3.2. Được trang bị kiến thức, nâng cao học vấn ..................................... - 27 1.3.3. Có cơ hội được tiếp cận với cơng việc và giao tiếp xã hội .............. - 29 -

3


CHƢƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ
XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NỮ TRONG GIAI
ĐOẠN CÁCH MẠNG MỚI.....................................................................- 31 2.1. Một vài nét về truyền thống của Phụ nữ Việt Nam trong lịch sử. ...... - 31 2.2. Thực trạng xây dựng và phát triển cán bộ nữ trong thời gian qua ...... - 33 2.2.1. Nhận thức về công tác xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ lãnh
đạo. ............................................................................................................. - 33 2.2.2. Thực trạng xây dựng đội ngũ cán bộ nữ trong những năm vừa qua - 35 2.2.3. Những ngun nhân phụ nữ Việt Nam cịn ít tham gia các hoạt động
chính trị, xã hội........................................................................................... - 45 2.3. Phương hướng nhằm phát triển cán bộ nữ trong gia đoạn hiện nay .. - 51 2.3.1. Mục tiêu tổng quát đến năm 2020 .................................................... - 51 2.3.2. Những chỉ tiêu cơ bản ...................................................................... - 51 2.4. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển đội ngũ cán bộ nữ trong giai
đoạn hiện nay ............................................................................................. - 54 2.4.1. Tiếp tục nâng cao nhận thức, quan điểm về bình đẳng giới và công tác
cán bộ nữ .................................................................................................... - 54 2.4.2. Đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo nguồn cán bộ nữ - 56 2.4.3. Xây dựng cơ chế, tổ chức bộ máy đảm bảo thực hiện có hiệu quả cơng

tác cán bộ nữ .............................................................................................. - 58 2.4.4. Đội ngũ cán bộ nữ không ngừng tự vươn lên mọi mặt .................... - 60 KẾT LUẬN................................................................................................- 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................- 64 -


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
1. MOLISA Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội
2. MOIT Bộ Công thương
3. MOST Bộ Khoa học và Công nghệ
4. MARD Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
5. MOHA Bộ Nội vụ
6. MOFA Bộ Ngoại giao
7. MOET Bộ Giáo dục và Đào tạo
8. MPI Bộ Kế hoạch và Đầu tư
9. MOJ BộTư pháp
10. MOIC BộThơng tin Truyền thơng
11. MOCST Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch
12. MONREN BộTài nguyên và Môi trường
13. MOF Bộ Tài chính
14. MOC Bộ xây dựng
15. MOH Bộ Y tế
16. MOT Bộ Giao thông
17. VAN. Quốc hội Việt Nam
18. EOWP. Chương trình Lãnh đạo nữ Cambridge - Việt Nam: Nâng cao
năng lực lãnh đạo cho phụ nữ trong khu vực Nhà nước trong bối cảnh hội nhập
kinh tế quốc tế
19. NEFAW. Ủy ban quốc gia vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam
20. NSGE. Chương trình quốc gia về bình đẳng giới

-1-



-2-


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Trong q trình mở cửa, hội nhập đòi hỏi phải tập trung mọi nguồn lực, đặc
biệt là nguồn lực có trình độ cao để xây dựng và phát triển đất nước. Một trong
những dấu hiệu nổi bật nhất của giai đoạn văn minh đương đại là lao động trí tuệ,
nguồn lực con người, phụ nữ sẽ là những động lực quyết định tới sự thành công
trên con đường phát triển của các quốc gia và của cả nhân loại. Việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ nữ là đòi hỏi khách quan và bức thiết của sự phát triển xã hội,
bởi trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, phụ nữ Việt Nam đã có những đóng góp to
lớn cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước, họ ln giữ
một vai trị, một vị trí quan trọng và ngày càng được khẳng định trong tất cả các
lĩnh vực đời sống xã hội.
Từ khi thành lập đến nay, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới Đảng ta luôn quan
tâm đến công tác cán bộ nữ, vấn đề bình đẳng giới, tạo mọi điều kiện để phụ nữ
tham gia lãnh đạo, quản lý đất nước, quản lý xã hội. Điều đó được khẳng định và
thể hiện nhất quán trong các cương lĩnh, đường lối, nghị quyết của Đảng được đưa
vào các văn bản luật và dưới luật như Chỉ thị 37- CT/TW ngày 16/05/1994, về
“Một số vấn đề cơng tác cán bộ nữ trong tình hình mới”. Các kỳ Đại hội Đảng (X,
IX, XII), Bộ chính trị đều ban hành Chỉ thị về công tác chuẩn bị nhân sự, trong đó
khẳng định “bảo đảm tỷ lệ cấp ủy viên là nữ khơng dưới 15%”. Bộ chính trị ban
hành Nghị quyết số 11-NQ/TW ngày 27/04/2007 về “công tác phụ nữ thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước”. Đảng và Nhà nước nhận thức rõ “Tăng tỷ lệ cán bộ
nữ tham gia quản lý, lãnh đạo nhà nước, quản lý kinh tế - xã hội là điều quan trọng
để thực hiện quyền bình đẳng, dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tiềm
năng, trí tuệ và nâng cao địa vị xã hội của phụ nữ”. Các quan điểm, tư tưởng cũng
-3-



như những chủ trương, phương hướng mà các chỉ thị, nghị quyết đưa ra làm kim
chỉ nam cho nhận thức và hành động của các cấp, các ngành đối với công tác cán
bộ nữ, một nhiệm vụ hết sức quan trọng trong tồn bộ cơng tác cán bộ của Đảng.
Những chủ trương, chính sách của Đảng ra đời nhìn chung đã tác động tích cực đến
cơng tác cán bộ nữ, từ đó đội ngũ cán bộ nữ được trưởng thành về số lượng và chất
lượng. Chính vì vậy, để tìm hiểu về vai trò của cán bộ phụ nữ ở nước ta hiện nay,
tôi đã chọn đề tài “Đảng cộng sản Việt Nam với việc xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ nữ - lý luận và thực tiễn”.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận là trình bày một cách có hệ thống những
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ
nữ, tìm hiểu thực trạng đội ngũ cán bộ nữ từ đó đưa ra một số giải pháp, kiến nghị
nhằm góp phần xây dựng và phát triển cán bộ nữ ở Việt Nam trong giai đoạn cách
mạng mới
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện mục đích trên luận văn có nhiệm vụ phải làm sáng tỏ các vấn đề
sau đây:
- Một là: Làm rõ quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển và phát
triển đội ngũ cán bộ nữ
- Hai là: Phân tích đánh giá đúng thực trạng công tác xây dựng, phát triển đội
ngũ cán bộ nữ trong những năm vừa qua
- Ba là: Đưa ra các phương hướng và giải pháp cơ bản để xây dựng và phát
triển đội ngũ cán bộ nữ trong gai đoạn cách mạng mới

-4-



3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tƣợng nghiên cứu

Quan điểm của Đảng ta về xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ và thực
trạng, giải pháp để xây dựng và phát triển cán bộ nữ
3.2. Phạm vi nghiên cứu

Đảng ta luôn quan tâm đến công tác cán bộ nữ nó được thể hiện rất rõ trong
suốt chiều dài lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Nhưng
vấn đề cán bộ nữ là một nội dung rộng lớn, khóa luận chỉ giới hạn nghiên cứu
những quan điểm của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới về xây dựng và phát triển đội
ngũ cán bộ nữ nhằm nâng cao vị trí, vai trò của cán bộ nữ ở Việt Nam trong giai
đoạn cách mạng mới
4. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài được thực hiện bởi phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử,
phương pháp kết hợp lôgic với cái lịch sử. phương pháp phân tích, phương pháp
thống kê
5. Bố cục đề tài

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu đề tài
gồm có hai chương:
Chƣơng I: Một số vấn đề lý luận chung của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng, phát triển đội ngũ cán bộ nữ.
Chƣơng II: Thực trạng và những giải pháp cơ bản để xây dựng và phát triển
đội ngũ cán bộ nữ trong giai đoạn cách mạng
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu


Tìm hiểu về vai trị của cán bộ phụ nữ là một vấn đề được nhiều người quan
tâm và đã có những cơng trình nghiên cứu dưới các góc độ khác nhau, có thể kể
-5-


đến một số cơng trình tiêu biểu như sau: “Nâng cao năng lực lãnh đạo của cán bộ
nữ trong hệ thống chính trị”. Nguyễn Đức Hạt. “Thực trạng đội ngũ cán bộ nữ
lãnh đạo quản lý” Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
Ngồi ra, cịn phải kể đến các bài viết đăng trên các tạp chí tiêu biểu của các
tác giả như: Trần thị Hường (1/2005), “Quy hoạch đào tạo cán bộ nữ, thực trạng
giải pháp” Tạp Chí xây dựng Đảng. Nguyễn Thị Thanh Hoa,“ Nâng cao vị thế của
phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước”. Tạp chí
Cộng sản số 186, 2010. Nguyễn Thị Thơm, “Vị thế của phụ nữ Việt Nam trong đời
sống chính trị xã hội đất nước trong thời kỳ đổi mới” Lý luận Chính trị, số 10,
2002.
Những cơng trình nghiên cứu trên đã đề cập đến những vấn đề khác nhau sự
đánh giá vị trí, chức năng, vai trò lãnh đạo của cán bộ phụ nữ đã có những đóng
góp nhất định cho khoa học, Tuy nhiên vẫn cịn nhiều khía cạnh của việc nghiên
cứu về vai trò của cán bộ nữ cần phải được làm sáng tỏ hơn đặc biệt là quan điểm
của Đảng ta về vai trò của cán bộ nữ để đưa ra một số phương hướng, giải pháp
nhằm nâng cao vị trí, vai trò của cán bộ nữ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trên
cơ sở kế thừa những cơng trình trên, tôi đi vào nghiên cứu “Đảng cộng sản Việt
Nam với việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ nữ - lý luận và thực tiễn”.

-6-


-7-



CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ NỮ

1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng,
phát triển đội ngũ cán bộ nữ
1.1.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về xây dựng và phát triển cán
bộ nữ

Trong lịch sử tiến hóa của nhân loại, lồi người muốn tồn tại và phát triển
trước hết phải sản xuất ra của cải vật chất. Phụ nữ là một lực lượng quan trọng
trong đội ngũ đông đảo những người lao động. Bằng lao động của mình, phụ nữ
chẳng những đã góp phần tạo ra của cải vật chất và tinh thần, mà cịn tham gia tích
cực vào cơng cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc, các phong trào nổi dậy
của những người bị áp bức bốc lột. Trên mọi bình diện của đời sống xã hội, phụ nữ
đều có vai trị to lớn. Theo Mác, Ăngghen và Lênin thì trong lịch sử nhân loại,
khơng một phong trào to lớn nào của những người bị áp bức mà lại khơng có phụ
nữ tham gia. Phụ nữ là những người bị áp bức nhất trong những người bị áp bức
nên khơng bao giờ họ đứng ngồi và cũng khơng thể đứng ngồi các cuộc đấu tranh
giải phóng. Mác nói: “Ai đã biết lịch sử thì biết rằng muốn sửa sang xã hội mà
khơng có phụ nữ giúp vào thì chắc chắn không làm nổi. Xem tư tưởng của đàn bà
con gái, thì biết xã hội tiến tấn bộ ra thế nào”[2, 288]
Các nhà kinh điển cho rằng, phụ nữ là nguồn nhân lực quan trọng để phát triển
xã hội. Sự tiến bộ của một quốc gia còn thể hiện ở chỗ vị trí của phụ nữ trong quốc
gia đó được xem xét, đánh giá như thế nào. Sự phát triển của mọi quốc gia phụ
thuộc nhiều vào việc giải quyết vấn đề phụ nữ và địa vị xã hội của người phụ nữ
trong xã hội. Trong mọi trường hợp, phụ nữ luôn tỏ rõ năng lực lực của giới mình.
Việc lơi cuốn phụ nữ tham gia q trình quản lý đất nước, quản lý xã hội là rất cần
-8-



thiết, là yêu cầu khách quan của một xã hội văn minh và phát triển. Lênin cũng đã
từng chỉ rõ: Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp nào giành được quyền thống trị,
nếu nó khơng đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình những lãnh tụ chính trị,
những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo phong trào. Và
muốn thực hiện tốt những tư tưởng thì cần có những con người biết vận dụng lực
lượng vào thực tiễn.
Các ông đánh giá cao vai trò của những người cán bộ lãnh đạo, quản lý trong
các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội: “Tất cả mọi lao động xã hội trực tiếp hay lao
động chung nào tiến hành trên quy mô tương đối lớn, thì ít nhiều cũng đều cần đến
một sự chỉ đạo để điều hòa những hoạt động cá nhân… Một người độc tấu vĩ cầm
tự mình điều khiển lấy mình, cịn một dàn nhạc thì phải cần có nhạc trưởng "[23,
480]. Ở đây cũng vậy, Mác và Lênin nói về đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý nói
chung, và cũng bao hàm cả cán bộ nữ.
Mác và Ăngghen đã giải quyết một cách khoa học mối quan hệ giữa vai trò cá
nhân lãnh tụ trong các thời điểm lịch sử: Chúng ta thấy một bên là phải có quyền uy
nhất định, khơng kể quyền uy đó được tạo ra bằng cách nào, và một bên phải có sự
phục tùng nhất định, bất cứ trong tổ chức xã hội nào cũng đều như thế cả.
Theo Lênin, cơng cuộc giải phóng phụ nữ là vấn đề hết sức khó khăn và phức
tạp. Thực hiện cơng cuộc giải phóng phụ nữ, tăng cường sự tham gia của người dân
trong đó có phụ nữ, tăng cường sự tham gia của người dân trong đó có phụ nữ vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội chính là để phát huy vị trí, vai trị của phụ nữ
trong gia đình cũng như ngồi xã hội.Với nhận thức cho rằng bất bình đẳng nam nữ
như là một hình thức của sự phân chia gia cấp, nên việc quan trọng là phải xóa bỏ
chế độ tư hữu nhằm xóa bỏ sự lệ thuộc về kinh tế của người phụ nữ đối với nam
giới.

-9-



Cần phải giải phóng phụ nữ ra khỏi áp bức bốc lột và bất bình đẳng trong nền
sản xuất xã hội. Thực hiện tốt điều này sẽ tạo điều kiện cho việc xây dựng quan hệ
bình đẳng nam nữ trong gia đình cũng như ngồi xã hội. Ph.Ăngghen viết: “Điều
kiện tiên quyết để giải phóng phụ nữ là làm cho toàn bộ nữ giới trở lại tham gia nền
sản xuất xã hội và điều kiện đó lại địi hỏi phải là cho gia đình cá thể khơng cịn là
một đơn vị kinh tế của xã hội nữ [3, 116]
Ở vào những thời điểm bước ngoặt của cách mạng Nga, Lênin luôn chú ý đến
tổ chức bộ máy và con người, giai cấp vô sản muốn chiến thắng giai cấp tư sản thì
phải đào tạo lấy “những nhà chính trị giai cấp thực sự của mình”.
Tóm lại, Mác- Ăngghen, Lênin bàn về vấn đề giải phóng nhân loại, giải phóng
giai cấp, giải phóng con người, đương nhiên là có hàm ý về giải phóng nữ giới.
Ngồi ra, có thể thấy trong các quan điểm nền tảng của Mác và Lênin, các nhà kinh
điển coi vấn đề giới là vấn đề quan trọng gắn với các vấn đề cơ bản như vấn đề
phương thức sản xuất, hình thái kinh tế - xã hội, cách mạng xã hội giai cấp và đấu
tranh giai cấp, con người và giải phóng con người dân tộc và giải phóng dân tộc,
vần đề nhà nước và cách mạng. Sự phát triển học thuyết Mác- Lênin trong thời đại
ngày nay đã được làm phong phú và sâu sắc vấn đề giới, với sự xuất hiện quan
điểm nữ quyền xã hội chủ nghĩa, coi vấn giới là vấn đề xã hội cơ bản. Đây là sự đổi
mới rõ nét quan điểm kinh điểm Mác - Lênin hòa nhập vào trào lưu hậu hiện đại
của khoa học xã hội và nhân văn trong bối cảnh tồn cầu hóa.
Thơng qua đây, các nhà tư tưởng Mác - Lênin đã chỉ rõ con đường, biện pháp
cũng như các điều kiện để tiến tới giải phóng phụ nữ, xóa bỏ chế độ bất công, tiến
tới xây dựng một xã hội tốt đẹp, tự do, bình đẳng mà lồi người tiến bộ mong ước.
Chỉ có thể làm được điều đó thì mới xây dựng được một đội ngũ cán bộ nữ thực sự
vững mạnh, được coi trọng trong xã hội, đó là điều kiện tiên quyết cho cán bộ nữ

- 10 -


có thể phát huy hết khả năng vốn có của mình. Góp phần vào xây dựng xã hội, đất

nước ngày càng phát triển.
1.1.2 Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về xây dựng và phát triển cán bộ nữ

Hồ Chí Minh là một nhà tư tưởng, nhà nhân văn chủ nghĩa vĩ đại là một trong
những người người Việt Nam đầu tiên đặc biệt quan tâm đến vai trò, vị thế của phụ
nữ trong phong trào cách mạng thế giới nói chung và sự nghiệp cách mạng Việt
Nam nói riêng.
Người có những luận điểm thể hiện tầm nhìn chiến lược khi đặt vấn đề giải
phóng phụ nữ, thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trong tương quan phát triển của
xã hội mới, của chủ nghĩa xã hội. Trong Hồ Chí Minh tồn tập (12 tập), đã có 100
bài viết trên tổng số 1941 bài Bác nhắc khá nhiều đến phụ nữ. Người khẳng định:
“Nói phụ nữ là nói đến phần nửa của xã hội. Nếu khơng giải phóng phụ nữ thì
khơng thể giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải phóng phụ nữ là xây
dựng chủ nghĩa xã hội mới chỉ một nửa”[10]. Người còn đưa ra nhận xét: “xem
trong lịch sử cách mệnh, chẳng có lần nào là khơng có đàn bà, con gái tham gia”
và “An nam cách mệnh cũng phải có nữ giới tham gia mới thành cơng” [t.2, tr.289].
Trong dịp kỷ niệm 56 năm ngày thành lập Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Người
nói: Từ đầu thế kỷ thứ nhất, Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh giặc cứu dân
cho đến nay, mỗi khi đất nước nguy nan thì phụ nữ ta đều hăng hái đứng lên góp
phần xứng đángvào sự nghiệp giải phóng dân tộc.... Trong thư gửi phụ nữ nhân kỷ
niệm Hai Bà Trưng và ngày Quốc tế Phụ nữ năm 1952, Bác đã ca gợi: “Non sơng
gấm vóc nước Việt Nam do phụ nữ nước ta, trẻ cũng như già ra sức dệt thêu mà
thêm tốt đẹp rực rỡ”. Dân tộc độc lập, tự do thì phụ nữ mới tự do, độc lập, xã hội
khơng cịn áp bức bốc lột giai cấp thì phụ nữ mới được giải phóng khỏi ách áp bức
bóc lột. Giải phóng phụ nữ nhằm phát triển năng lực cá nhân phụ nữ, giải phóng
phụ nữ gắn với giải phóng xã hội.
- 11 -


Và trên thực tế, tư tưởng quan điểm của Người về giải phóng phụ nữ được thể

chế hóa thành pháp luật, thành cơ chế hoạt động của Nhà nước và các tổ chức quần
chúng, nổi bật lên là:
Giải phóng phụ nữ trước hết là giải phóng sức lao động của chị em, một lực
lượng to lớn quan trọng, chiếm một nửa xã hội lồi người.
Giải phóng phụ nữ giải quyết mối quan hệ hữu cơ biện chứng giữa gia đình và
xã hội.
Thực hiện quyền bình đẳng nam nữ trên mọi lĩnh vực gia đình và xã hội, tiêu
diệt tư tưởng phong kiến, trọng nam khinh nữ.
Hồ Chí Minh cịn đặt vấn đề về phụ nữ, phát huy vai trò và phát triển năng lực
sáng tạo của phụ nữ, coi đó là trách nhiệm của tồn xã hội, trong đó có sự tự vươn
lên của chị em phụ nữ. “Đảng và Chính phủ cần phải có kế hoạch thiết thực để bồi
dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày càng thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công
việc, kể cả công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ thì phải cố gắng vươn lên. Đó là
một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thật sự cho phụ nữ”[12,504]
Hồ Chí Minh đặc biệt quan tâm đến đội ngũ cán bộ nữ. Khi bàn đến công tác
cán bộ nữ hoặc lúc đi thăm các cơ sở, Người luôn quan tâm đến số lượng, tỷ lệ đại
biểu nữ và ân cần mời chị em lên ghế hàng đầu, động viên chị em phát biểu ý kiến.
Thấy cán bộ nữ trưởng thành, Người động viên khuyến khích kịp thời. Ở địa
phường nào, ngành nào chưa quan tâm chú ý đến chị em phụ nữ, có những tư tưởng
hẹp hịi đối với phụ nữ, khơng đánh giá đúng khả năng của phụ nữ, Người đã phê
phán kịp thời. Người nói: “Cán bộ nữ ít như vậy là một thiếu sót. Các đồng chí phụ
trách lớp học chưa quan tâm đến việc bồi dưỡng cán bộ nữ. Đây cũng là thiếu sót
chung ở trong Đảng. Nhiều người cịn đánh giá khơng đúng khả năng của phụ nữ,
hay thành kiến, hẹp hòi, như vậy là rất sai” [12, 208]. Khơng chỉ phê bình những
tư tưởng hẹp hịi đối với phụ nữ, Người cịn địi hỏi phải tích cực sữa chữa. Nói
- 12 -


chuyện với đồn tỉnh ủy Thanh Hóa, Hồ Chí Minh vạch rõ: “Trong tỉnh ủy có bao
nhiêu ủy viên gái? Tại sao khơng có đồng chí gái nào đi đây cả? Gái làm nhiều

nhưng khi đi gặp Trung ương lại khơng có ai là gái! Điều đó chứng tỏ các đồng chí
trọng con trai khinh con gái: Cần tích cực sửa chữa”[12, 419]
Theo Hồ Chí Minh, đã là con người- cán bộ ai cũng có chỗ hay, chỗ dở… địi
hỏi nhà lãnh đạo phải nắm vững đặc điểm, tâm lý, tình cảm, phong cách, văn hóa
con người Việt Nam và cán bộ nói riêng để sử dụng đúng việc, đúng người. Người
đã từng phê phán tình trạng khơng biết dùng người “Người viết giỏi nhưng nói kém
lại dùng vào việc cần phải nói. Người nói khéo nhưng viết xồng lại dùng vào công
việc viết lách…”. Người cho rằng phải đào tạo cán bộ có gan làm việc, ham làm
việc, sử dụng đúng người, đúng việc thì người mới có tài, tài mới có dụng, con
người mới có khả năng sáng tạo ra sản phẩm và hưởng thụ những thành quả đạt
được, “Tài to ta dùng làm việc to, tài nhỏ ta cắt làm việc nhỏ, ai có năng lực gì, ta
đặt ngay vào việc ấy” [4,39]. Biết dùng người như vậy sẽ không thiếu cán bộ. Để
lựa chọn nhân sự cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là cán bộ nữ một cách có hiệu quả
thì trước hết nhà lãnh đạo phải “biết người”. Tin tưởng vào khả năng to lớn của phụ
nữ, hiểu và thông cảm, động viên và khuyến khích kịp thời, người cịn nhận thấy
cán bộ nữ có nhiều ưu điểm: “ít mắc tệ tham ơ, lãng phí, khơng hay chè chén, ít
hống hách mệnh lệnh như một số cán bộ nam”[12, 208]. Những ưu điểm này xuất
phát từ đặc điểm tâm lý, đức tính tốt đẹp của phụ nữ là cẩn thận, chu đáo, tiết kiệm
trong tiêu dùng, gần gữi và hịa mình với phong trào quần chúng. Trong cuộc kháng
chiến chống giặc ngoại xâm, đông đảo chị em cùng chồng con, cha anh mình nổi
dậy đấu tranh. Trong cuộc đấu tranh này, người phụ nữ không chỉ chiến đấu, phụ
vụ chiến đấu rất dũng cảm, mà trong sản xuất, trong thời kỳ cơng nghiệp hóa hiện
đại hóa, họ cũng đã biểu lộ rõ khả năng thay nam giới trong nhiều công việc, đảm
bảo chăm lo thu vén cho gia đình và cung cấp nhu yếu phẩm cho chiến trường. Để
- 13 -


xứng đáng là người làm chủ nước nhà, chị em phải ra sức tăng gia sản xuất, thực
hành tiết kiệm, làm tốt nghĩa vụ với Nhà nước, xung phong trong việc xây dựng đời
sống mới, đoàn kết, cố gắng học văn hóa, chính trị và nghề nghiệp. Người u cầu

các cấp ủy Đảng ở niềm núi chú trọng phát triển Đảng, Đoàn trong phụ nữ, chú ý
đào tạo bồi dưỡng và giúp đỡ cán bộ nữ dân tộc.
Đánh giá cao vai trị của phụ nữ, Bác cịn nhìn thấy khả năng lao động
của phụ nữ trên các lĩnh vực, kể cả trong lĩnh vực lãnh đạo, quản lý: “Dưới chế độ
xã hội chủ nghĩa, hàng vạn phụ nữ trở thành chuyên môn các ngành và cán bộ lãnh
đạo, làm giám đốc và phó giám đốc các xí nghiệp, chủ nhiệm hợp tác xã nông
nghiệp, chủ tịch uỷ ban kháng chiến, bí thư chi bộ Đảng”. Người cũng đã nhận xét:
“Từ ngày nước ta được giải phóng đến nay phụ nữ đều tiến bộ rõ nét về mọi mặt:
Kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Nhưng một tiến bộ rõ nét nhất là phụ nữ hiện
nay

tham

gia

chính

quyền

ngày

càng

nhiều”.

dừng ở việc đánh giá cao vai trò to lớn của phụ nữ Việt Nam mà

Bác

không


quan trọng,

người xác định trách nhiệm của Đảng đối với sự nghiệp giải
phóng phụ nữ: Từ nay, các các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương khi giao
cơng tác cho phụ nữ, phải căn cứ vào trình độ của từng người và cần phải tích cực
giúp đỡ phụ nữ nhiều hơn nữa. Phải thật sự giải phóng và tơn trọng quyền lợi của
phụ nữ. Đảng và Chính phủ cần có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và
giúp đỡ để ngày càng nhiều phụ nữ phụ trách mọi cơng việc kể cả cơng việc lãnh
đạo,
Đề cao vai trị của phụ nữ, tôn trọng phụ nữ song Bác cũng ln nhắc nhở chị
em phải ý thức vai trị, vị thế của mình mà phấn đấu cho mình mà phấn đấu cho
mình, cho dân tộc. Bác Viết: “Đảng, Chính phủ và Bác mong phụ nữ tiến bộ nhiều
hơn nữa. Hiện nay trong các nghành, phụ nữ tham gia cịn ít, Người lưu ý phụ nữ:
Không nên ỷ lại vào Đảng, Chính phủ mà phải quyết tâm học tập, phát huy sáng
- 14 -


kiến tin tưởng vào khả năng của mình, nâng cao tinh thần tập thể, đoàn kết giúp đỡ
lẫn nhau để giải quyết khó khăn trong cơng tác chính quyền, Phải nâng cao tinh
thần làm chủ, cố gắng học tập phấn đấu xóa bỏ tư tưởng bảo thủ, tự ty, phát triển ý
chí tự cường, tự lập. Phải đấu tranh bảo vệ quyền lợi của mình.
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển cán bộ
nữ

Kế thừa và phát triển những quan điểm chủ nghĩa Mác - tư tưởng Hồ Chí
Minh về xây dựng và phát triển cán bộ nữ, đồng thời xuất phát từ quan điểm luôn
tôn trọng và bảo vệ phụ nữ, Đảng ta đã có nhiều chủ trương, chính sách nhằm đảm
bảo xây dựng và phát huy vai trò của cán bộ nữ, trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc cũng như trong cuộc sống hằng ngày. Nhận thức rõ vai trò của của cán

bộ nữ. Ngay từ đầu những năm 1930, Cương lĩnh Chính trị của Đảng đã có quan
niệm phụ nữ là lực lượng cách mạng to lớn và đề ra chính sách nhất quán, sự quan
tâm đặc biệt nhằm thực hiện nam nữ bình đẳng, tạo điều kiện khuyến khích để phụ
nữ tham gia mọi lĩnh vực phát triển đất nước. Tư tưởng “nam nữ bình quyền” cũng
là một trong những nhiệm vụ cốt yếu của Cương lĩnh cách mạng Việt Nam và nêu
rõ giải phóng phụ nữ phải gắn kiền với giải phóng giai cấp. Xác định giải phóng
phụ nữ là một trong những mục tiêu quan trọng của cách mạng Việt Nam, có ảnh
hưởng trực tiếp và lâu dài đến sự phát triển của đất nước.
Hiến pháp đầu tiên (1946) của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa đã
khẳng định “Phụ nữ bình đẳng với nam giới về mọi phương diện”. Hiến pháp năm
1959 quy định cụ thể hơn: “Phụ nữ được bình đẳng với nam giới trong tất cả các
lĩnh vực hoạt động kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội”. Các ngun tắc bình đẳng
nam nữ đã được quy định cụ thể hơn trong các Hiến pháp năm 1980 và năm 1992.
Cùng với thời gian, trải qua những giai đoạn cách mạng khác nhau của đất nước,
các điều khoản của Hiến pháp liên quan đến bình đẳng giới cũng được cụ thể hóa
- 15 -


thành những văn bản luật pháp, nghị quyết, chỉ thị, chỉ đạo việc xây dựng các chế
độ, chính sách nhằm tạo điều kiện cho phụ nữ thực hiện quyền bình đẳng. Cho đến
nay, qua 4 lần thay đổi Hiến pháp, quyền bình đẳng nam nữ trong mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội luôn được khẳng định. Tuy nhiên, do nhiều lý do chủ quan và
khách quan, việc đạt được sự bình đẳng nam nữ thực sự là một vấn đề đầy thách
thức.
Đảng ta luôn coi trọng xây dựng đội ngũ cán bộ nữ, là nhiệm vụ có tính chiến
lược trong công tác cán bộ. Trong nhiều hoạt động thực tế và trong các văn bản của
Đảng được ban hành đã thể hiện rõ việc phát huy, nâng cao vai trò, địa vị của người
phụ nữ trong xã hội. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ III (1960) đã
khẳng định: phụ nữ nước ta là một lực lượng quan trọng trong cách mạng và trong
sản xuất, do đó, tồn Đảng và tồn dân phải có trách nhiệm lớn đối với sự nghiệp

giải phóng phụ nữ. Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa III đã nhấn mạnh đến
một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận và cơng tác cán bộ nữ… Qua đó
cho ta thấy, vị trí, vai trị của phụ nữ, đặc biệt là vai trò của cán bộ nữ trong xây
dựng và phát triển đất nước ngày càng được củng cố, tăng cường và phát triển.
Năm 1967, để đào tạo, đề bạt cán bộ nữ và tăng cường khả năng tham gia
quản lý Nhà nước, khả năng đóng góp của phụ nữ trong xây dựng và phát triển đất
nước, ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban nghành nghị quyết số 152 ngày
10/1/1967 về: “ Một số vấn đề tổ chức lãnh đạo công tác phụ vận”.
Ngay sau khi đất nước thống nhất, Đảng ta lại ban hành chỉ thị số 44- CT/TW
ngày 7-6-1984: “Về một số vấn đề cấp bách trong công tác cán bộ nữ”, yêu cầu các
cấp, các ngành thường xuyên quan tâm đến công tác cán bộ nữ, nâng cao tỷ lệ phụ
nữ tham gia công tác lãnh đạo, tăng cường đội ngũ cán bộ nữ, đã đánh dấu bước
tiến quan trọng của việc thực hiện nam nữ bình đẳng và đề ra một số phương hướng

- 16 -


cho công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và cân nhắc cán bộ nữ. Trong đó,
Đảng chú trọng đổi mới quan điểm và nhận thức đối với vấn đề cán bộ nữ:
Tăng cường cán bộ nữ không chỉ để làm cơng tác vận động phụ nữ mà chính
là để phát huy khả năng trí tuệ của chị em đóng góp vào sự lãnh đạo tồn diện của
Đảng và cơng việc quản lý nhà nước.
Tiếp tục thực hiện nam nữ bình đẳng, nâng cao vai trị cán bộ nữ trong quản lý
kinh tế, quản lý nhà nước là một nội dung quan trọng để phát huy quyền làm chủ
tập thể của nhân dân lao động, thắt chặt mối quan hệ giữa Đảng với quần chúng,
Tăng cường nhà nước chuyên chính vô sản.
Công tác cán bộ nữ phải được đặt trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch
cán bộ nói chung của Đảng và Nhà nước. Điều cần hết sức chú ý là sau khi đề bạt
phải tiếp tục bồi dưỡng, tạo điều kiện giúp chị em hoàn thành nhiệm vụ.
Trong chỉ thị này, bên cạnh việc đánh giá những thành tựu đạt được về công

tác phụ nữ trong sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước; những công việc đã làm
được của các cấp ủy đảng, các ngành, các cơ quan, địa phương trong việc bồi
dưỡng, sử dụng, phát huy vai trò của phụ nữ, Đảng ta đã chỉ ra những hạn chế sau:
tỷ lệ cán bộ nữ tham gia lãnh đạo quản lý có xu hướng giảm, nhất là trong các cơ
quan quản lý kinh tế, quản lý nhà nước. Phần lớn cán bộ nữ hiện đang giữ các
cương vị chủ chốt trong các cơ quan Trung ương và tỉnh, thành đều đã lớn tuổi
nhưng số cán bộ nữ trẻ kế cận cịn ít…, tỷ lệ nữ đảng viên ở một số nơi giảm, một
số xã miền núi hoặc các tỉnh phía nam chưa có đảng viên nữ. Chỉ thị nêu rõ, để tăng
cường vai trò cán bộ nữ trong thời gian tới, vấn đề cán bộ nữ cần phải được đặt
trong việc xây dựng và thực hiện quy hoạch cán bộ nói chung của Đảng và Nhà
nước ta. Cần phải tuyển chọn cán bộ nữ từ những người ưu tú trong giai cấp cơng
nhân, nơng dân, trí thức cách mạng, nhất là những người đã được trải qua rèn luyện
từ thực tiễn phong trào cách mạng. Phải quyết tâm và có kế hoạch cụ thể trong việc
- 17 -


đào tạo, bồi dưỡng để người cán bộ nữ có đủ năng lực, phẩm chất đảm nhiệm
những nhiệm vụ, chức trách mà Đảng và Nhà nước giao cho.
Nghị quyết số 176a/HĐBT, ngày 24/12/1984, của Hội đồng Bộ trưởng (nay là
Chính phủ) cũng có quan điểm “phát huy vai trị của nữ trong quản lý kinh tế, quản
lý xã hội”. Đặc biệt, Nghị quyết này đã đặt ra các chỉ tiêu cụ thể, ví dụ: Hội đồng
nhân dân các cấp phải có ít nhất 1/3 đại biểu là nữ.
Đại hội Đảng lần thứ VI (12/1986) đánh giá cao vai trò của người phụ nữ
trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, khẳng định: Phụ nữ Việt
Nam có truyền thống lịch sử vẻ vang, có những tiềm năng to lớn, là một động lực
quan trọng của công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội. Phụ nữ vừa là
người lao động, vừa là người mẹ, người thầy đầu tiên của con người.
Vì vậy phải xem giải phóng phụ nữ là mục tiêu và nội dung quan trọng của
công cuộc đổi mới và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta[116]; đồng
thời xác định mục tiêu giải phóng phụ nữ là thiết thực cải thiện đời sống vật chất và

tinh thần của chị em, nâng cao vị trí xã hội của phụ nữ, thực hiện tốt nam nữ bình
đẳng, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc.
Trong thời kỳ đổi mới, Ban chấp hành Trung ương khóa VI lại ban hành Nghị
quyết số 8B/NQ-TW ngày 23/9/1990 về “Đổi mới công tác quần chúng của Đảng,
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với nhân dân”. Tiếp đó, Bộ chính trị ra Nghị
quyết số 04 NQ/TW về : Đổi mới và tăng cường cơng tác vận động phụ nữ trong
tình hình mới” nhằm khẳng định lại vai trị và vị trí của phụ nữ Việt Nam trong
giai đoạn phát triển kinh tế- xã hội mới: đặt vấn đề xây dựng đội ngũ cán bộ nữ
thành có nhiệm vụ có tính chiến lược trong tồn bộ cơng tác cán bộ của Đảng và
Nhà nước. Trên cơ sở quy hoạch, có kế hoạch tạo nguồn, đào tạo bồi dưỡng cán bộ,
tạo đạo kiện để cán bộ nữ cống hiến và trưởng thành, phấn đấu tăng tỷ lệ nữ trong
các cấp ủy Đảng, cơ quan Nhà nước, trong các lĩnh vực quản lý kinh tế, xã hội, y tế,
- 18 -


giáo dục, khoa học, nghệ thuật… Chống coi thường, phân biệt đối xử khắt khe, hẹp
hòi trong đánh giá đề bạt cạn bộ nữ”,
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (năm
1991) và Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam đã ghi rõ: Phương thức lãnh đạo của
Đảng với nhà nước, đoàn thể chính trị-xã hội là bằng cương lĩnh chính trị, chiến
lược, chính sách, chủ trương, bằng cơng tác tổ chức, cán bộ và kiểm tra giám sát
việc thực hiện.
Chỉ thị số 37/CT-TW, ngày 16/5/1994, của Ban Bí thư Trung ương Đảng “Về
một số vấn đề công tác cán bộ nữ trong tình hình mới”, đã đánh giá việc thực hiện
chỉ thị 44, đồng thời nêu lên một số nhiệm vụ nhằm đẩy mạnh công tác phát triển
cán bộ nữ trong tình hình tỷ lệ cán bộ nữ đang giảm. Chỉ thị nhấn mạnh vấn đề quy
hoạch, tạo nguồn cán bộ nữ, tạo điều kiện cho phụ nữ có thể làm việc, phát triển tài
năng và đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên nữ.
Chỉ thị nêu rõ: “Việc nâng cao tỷ lệ cán bộ nữ tham gia quản lý nhà nước,
quản lý kinh tế- xã hội là yêu cầu quan trọng để thật sự thực hiện quyền bình đẳng,

dân chủ của phụ nữ, là điều kiện để phát huy tài năng trí tuệ và nâng cao địa vị xã
hội của phụ nữ. Chống những biểu hiện lệch lạc, coi thường phụ nữ, khắt khe, hẹp
hòi trong đánh giá, đề bạt cán bộ nữ”. Có thể nói, Chỉ thị 37/CT-TW đã thể hiện
sâu sắc quan điểm của Đảng ta về công tác cán bộ nữ, là căn cứ để các cấp, các
ngành thực hiện công tác cán bộ nữ, tạo điều kiện để cán bộ nữ ngày càng tiến bộ.
Đánh giá công tác cán bộ nữ thời kỳ đổi mới, Hội nghị toàn quốc tổng kết 10 năm
thực hiện Chỉ thị 37, đã nghiêm túc kiểm điểm đánh giá tình hình thực hiện chỉ thị
37, đồng thời đã thảo luận, xây dựng thống nhất các nội dung, mục tiêu của công
tác cán bộ nữ trong thời gian tới.
Cũng trong Hội nghị này, đồng chí Phan Diễn, Ủy viên Bộ Chính trị, Thường
trực Ban Bí thư Trung ương đã nêu rõ: “Cần nhận thức rõ việc nâng cao tỷ lệ cán
- 19 -


bộ nữ tham gia vào các lĩnh vực hoạt động trong đời sống xã hội, đặc biệt là vào
các chức vụ lãnh đạo, quản lý là một tiêu chí quan trọng về thực hiện bình đẵng
nam nữ, một tiêu chí của xã hộ công bằng, dân chủ, tiến bộ, văn minh, là nhu cầu
của sự nghiệp cách mạng, là đòi hỏi của lợi ích cơng việc, chị em phụ nữ hồn tồn
có khả năng vươn lên đãm nhận những trách nhiệm lãnh đạo trên mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội”. Đồng chí kết luận: “Sau hội nghị tổng kết này, ban chỉ đạo tổng
kết chỉ thị 37/CT-TW phối hợp với các cơ quan, ban ngành liên quan chuẩn bị đề
án trình bộ Chính trị ra nghị quyết về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong
công tác vận động phụ nữ và cán bộ nữ thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước”.
Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ VIII (1996) đã đề cập đến nhiệm
vụ xây dựng và thực hiện chiến lược phát triển vì sự tiến bộ của phụ nữ Việt nam.
Nghị quyết Đại hội Đảng tồn quốc IX(2001) cũng xác định: Có cơ chế chính sách
để phụ nữ tham gia ngày càng nhiều vào cơ quan lãnh đạo và quản lý các cấp các
nghành.
Có thể nói, xun suốt q trình lãnh đạo cách mạng giải phóng dân tộc, dân

chủ và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta luôn quan tâm đến sự phát triển đội ngũ
cán bộ lãnh đạo quản lý cũng như sự bình đẳng và tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Trong điều kiện nhà nước pháp quyền, để chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống,
Nhà nước ta đã cụ thể hóa các quan điểm, đường lối của Đảng thơng qua các hệ
thống pháp luật, chính sách nhằm khẳng định vai trị, tầm quan trọng của phụ nữ
trong cơng tác lãnh đạo, quản lý.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã ban hành một số chính sách
về lương, tuổi nghỉ hưu, bổ nhiệm, đề bạt, luân chuyển… thể hiện sự quan tâm sâu
sắc của Đảng đối với cán bộ nữ lãnh đạo, quản lý và cán bộ nữ nói chung: Quy định
51, ngày 3-5-1999, về tuổi bổ nhiệm: “Cán bộ các cơ quan Trung ương, các tỉnh
- 20 -


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×