Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

BỘ GIÁO dục và đào tạo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (298.83 KB, 26 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

NGUYỄN THI PHƯỢNG

ĐỊA DANH HUYỆN ĐIỆN BÀN,
TỈNH QUẢNG NAM
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số
: 60.22.01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

Đà Nẵng, Năm 2014


Cơng trình được hồn thành tại
ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG

Người hướng dẫn khoa học: TS. BÙI TRỌNG NGOÃN

Phản biện 1: PTS.TS. HOÀNG TẤT THẮNG

Phản biện 2: TS. DƯƠNG QUỐC CƯỜNG

Luận văn được bảo vệ trước Hội đồng chấm Luận văn
tốt nghiệp thạc sỹ Khoa học Xã hội và Nhân văn họp tại
Đại học Đà Nẵng vào ngày 27 tháng 12 năm 2014

Có thể tìm luận văn tại:


- Trung tâm Thơng tin - Học liệu, Đại học Đà Nẵng
- Thư viện trường Đại học Sư phạm, Đại hoc Đà Nẵng


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
“Địa danh học” là một chuyên ngành của ngôn ngữ học, là một
bộ phận đặc biệt của môn từ vựng học chuyên nghiên cứu ý nghĩa,
nguồn gốc, quá trình biến đổi, cấu tạo và cách thức đặt tên địa danh.
Địa danh của mỗi địa phương được sử dụng và lưu truyền trên
địa bàn dân cư hàng trăm, hàng nghìn năm như là những ‘tấm bia
lịch sử” bằng ngôn ngữ ghi dấu những biến cố xã hội, chính trị, kinh
tế, văn hố, ngơn ngữ tại nơi mà nó được đặt tên. Nghiên cứu địa
danh không chỉ giúp chúng ta hiểu hơn về đặc điểm ngôn ngữ của
từng vùng đất thông qua các phương thức định danh mà còn giúp
chúng ta biết thêm về sự ra đời của một vùng đất, một dân tộc, một
thời đại, sự giao thoa, tiếp xúc, bảo lưu những giá trị lịch sử, văn hóa
của một vùng đất, một dân tộc và hiện tượng tiếp xúc ngôn ngữ giữa
các dân tộc đã sống trên vùng đất ấy, tâm lý những người đã tạo ra
các địa danh đó ... trong những giai đoạn, những thời kỳ lịch sử khác
nhau
Quá trình hình thành và phát triển của vùng đất Điện Bàn đã
sản sinh ra những tên đất, tên làng xóm tạo thành một hệ thống địa
danh phản ánh những nét đặc trưng của vùng đất này. Trong những
địa danh ấy, nhiều tên gọi vẫn trường tồn mặc bao thăng trầm của
lịch sử nhưng cũng có khơng ít những địa danh chỉ cịn trong hồi ức,
có nhiều địa danh chỉ cịn lưu truyền trong dân gian và nguồn gốc ý
nghĩa của nó cần phải được giải mã và làm rõ. Để giải quyết nhu cầu

tra cứu địa danh nhằm tránh những sự ngộ nhận trong nhận thức về
địa danh, sự bất cập khi đặt địa danh mới (khi tách lập đơn vị hành
chính mới) gây ra những thắc mắc và phiền tối khơng đáng có,
chúng ta buộc phải có một cơng trình chun biệt khảo sát có hệ


2

thống và giải thích nguồn gốc và ý nghĩa của từng địa danh. Đó là lý
do chúng tơi đã đi vào nghiên cứu đề tài “Địa danh ở huyện Điện
Bàn, tỉnh Quảng Nam”.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Trong luận văn này, chúng tơi tập trung tìm hiểu về phương
thức đặt địa danh, phương thức cấu tạo, những chuyển biến về mặt
ngữ âm, ngữ nghĩa, cũng như nguồn gốc, ý nghĩa của một số địa
danh ở huyện Điện Bàn.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những từ ngữ chỉ địa danh
ở huyện Điện Bàn được xét trên bình diện cấu tạo, ngữ nghĩa và
nguồn gốc xuất xứ.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chủ yếu tập trung mô tả, khảo sát địa danh ở huyện
Điện Bàn về mặt ngôn ngữ trên bình diện đồng đại và bước đầu tìm
hiểu về nguồn gốc và ý nghĩa của các địa danh đó. Bởi nguồn ngữ
liệu khi khảo sát quá nhiều nên chúng tôi chỉ giải thích của một số
địa danh tồn tại ở huyện Điện Bàn.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng tổng hợp cả 4 phương pháp nghiên cứu:
Phương pháp thống kê, phân loại, miêu tả; Phương pháp so sánh, đối

chiếu; Phương pháp điền dã; Phương pháp khảo sát bản đồ.
5. Bố cục đề tài
Ngoài phần dẫn nhập, phần kết luận và phụ lục, phần chính
của luận văn được chia làm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung.
Chương 2: Đặc điểm cấu tạo và cách thức đặt tên của địa danh
ở huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam.


3

Chương 3: Nguồn gốc, ý nghĩa và giá trị phản ánh hiện thực
của địa danh ở huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam
6. Tổng quan tài liệu nghiên cứu
6.1.Nghiên cứu địa danh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, địa danh học được xác định giai đoạn hình thành
bắt đầu từ những năm 60 của thế kỷ XX với những cơng trình của
Hồng Thị Châu, Trần Thanh Tâm, Nguyễn Văn Âu ....Vào những
năm cuối thế kỷ XX, ngành địa danh học ở Việt Nam đã có bước
phát triển mạnh mẽ. Lúc này đã xuất hiện những cơng trình nghiên
cứu lớn về địa danh học của Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường,
Từ Thu Mai, Trần Văn Dũng, Đinh Xuân Vịnh, Nguyễn Dược Trung Hải....
6.2. Nghiên cứu về địa danh ở huyện Điện Bàn
Trong các quyển “Quảng Nam qua các thời đại” của Phan Du
(1974), “Lịch sử vương quốc Champa” của Lương Ninh (2004),
“Quảng Nam trong hành trình mở cõi và dựng nước” của Nguyễn Q.
Thắng (2004) hầu như đều có nhắc đến một số địa danh thuộc huyện
Điện Bàn. Đề cập tương đối đầy đủ và rõ ràng nhất về địa danh ở
huyện Điện Bàn là quyển “Địa chí Quảng Nam – Đà Nẵng” được
xuất bản vào cuối năm 2010 do hai tác giả Thạch Phương, Nguyễn

Đình An chủ biên. Các cơng trình nghiên cứu về địa danh trên đã
khẳng định được tiềm năng cũng như sức hút của ngành khoa học
này. Từ kết quả của các cơng trình nghiên cứu về địa danh trên sẽ tạo
tiền đề vững chắc để chúng tôi đi vào nghiên cứu “Địa danh huyện
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam”.


4

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1. ĐỊA DANH - ĐỊA DANH HỌC
1.1.1. Khái niệm địa danh – địa danh học
Địa danh ở Việt Nam được nghiên cứu theo hai hướng: hướng
thứ nhất là tiếp cận địa danh ở góc độ ngơn ngữ học, hướng thứ hai
là tiếp cận ở góc độ địa lý, văn hóa. Tùy theo hướng tiếp cận khác
nhau mà các tác giả đưa ra định nghĩa về địa danh cũng khác nhau.
Trong các định nghĩa về địa danh đã khảo sát được, chúng tôi
nhận thấy định nghĩa của Lê Trung Hoa “Địa danh là những từ hoặc
ngữ, được dùng làm tên riêng của các địa hình thiên nhiên, các đơn
vị hành chánh, các vùng lãnh thổ và các cơng trình xây dựng thiên
về khơng gian hai chiều.” [38, tr.18] là định nghĩa có tiêu chí rõ ràng,
cụ thể và được nhiều nhà nghiên cứu địa danh đồng tình hơn cả. Do
đó, chúng tơi dựa trên quan điểm của tác giả để làm kim chỉ nam cho
cơng trình nghiên cứu của mình.
1.1.2. Đối tượng nghiên cứu và vị trí của địa danh học
a. Đối tượng nghiên cứu của địa danh học
Đối tượng nghiên cứu của địa danh học là địa danh. Đó là
những từ, ngữ được dùng làm tên riêng của địa hình thiên nhiên,
các vùng lãnh thổ, các đơn vị hành chính, các cơng trình xây dựng

thiên về khơng gian hai chiều.
b. Vị trí của địa danh học
Địa danh học là một chuyên ngành của Ngôn ngữ học. Địa
danh học được chia ra thành nhiều ngành nhỏ hơn như: sơn danh
học (oronymie) chuyên nghiên cứu tên gọi các đồi núi; thủy danh
học (hydronymie) chuyên nghiên cứu tên sông ngòi kênh rạch;
phương danh học (ojkonimika) chuyên nghiên cứu các địa điểm
quần cư và phố danh học (urbanomika) nghiên cứu các đối tượng


5

trong thành phố như tên đường, tên phố, tên các quảng trường….
1.1.3. Phân loại địa danh
Tuỳ theo phương pháp nghiên cứu và cách tiếp cận vấn đề mà
mỗi nhà nghiên cứu có cách phân loại địa danh khác nhau. Tuy
nhiên, việc phân loại địa danh là một vấn đề phức tạp và vẫn chưa có
sự thống nhất cao.
Trong cơng trình nghiên cứu này, để tiến hành phân loại địa
danh ở huyện Điện Bàn, chúng tôi sẽ áp dụng tổng hợp các cách
phân loại của Lê Trung Hoa và Nguyễn Văn Âu là hai cách phân loại
được nhiều người tán đồng, có sự rõ ràng, mang tính khái qt cao,
có thể áp dụng cho nhiều vùng miền khác nhau và giúp người nghiên
cứu có cái nhìn tổng qt về địa danh.
(1) Địa danh chỉ địa hình tự nhiên hay địa danh chỉ địa hình
(Lê Trung Hoa)
(2) Địa danh kinh tế xã hội (Nguyễn Văn Âu) bao gồm:
- Địa danh chỉ công trình xây dựng
- Địa danh hành chính
- Địa danh khu - vùng

1.1.4. Các phương thức định danh
Cách thức đặt tên cùng với đặc điểm cấu tạo là một trong hai bộ
phận cấu tạo địa danh. Cách thức đặt tên giúp cho địa danh có những
ý nghĩa sinh động, phong phú, độc đáo, giúp cho những vùng miền
mang tên địa danh đó có dấu ấn riêng và cả những đặc trưng văn
hóa đặc sắc. Tuy nhiên, do xuất phát từ những lĩnh vực nghiên cứu
khác nhau nên mỗi tác giả đưa ra các cách định danh khác nhau.
Dưới góc độ ngơn ngữ học, trong cơng trình Địa danh ở thành
phố Hồ Chí Minh (1991), tác giả Lê Trung Hoa nêu ra 3 phương thức
đặt địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh, gồm: 1. Phương thức tự tạo;
2. Phương thức vay mượn; 3. Phương thức chuyển hoá. Đến năm


6

2006, khi xuất bản cuốn sách Địa danh học Việt Nam, tác giả đã rút
gọn thành 2 phương thức: 1. Phương thức tự tạo; 2. Phương thức
chuyển hoá. [36, tr.65-76]. Đây là sự điều chỉnh thích hợp bởi
chuyển hố hay vay mượn đều là phương thức dùng một địa danh có
sẵn để gọi tên một đối tượng khác.
1.2. KHÁT QUÁT VỀ VÙNG ĐẤT VÀ CON NGƯỜI ĐIỆN
BÀN
1.2.1. Quá trình lịch sử hình thành vùng đất Điện Bàn
Điện Bàn là huyện đồng bằng ven biển phía Bắc của tỉnh
Quảng Nam. Vùng đất Điện Bàn xưa thuộc đất Việt Thường Thị của
các vua Hùng. Từ năm 206 TCN đến năm 192 SCN, thời nhà Hán,
thuộc quận Tượng Lâm và từ năm 192 đến năm 1306 thuộc vương
quốc Champa .
Năm 1306, vua Champa là Chế Mân đã dâng hai châu Ơ và
châu Rí làm sính lễ cưới Cơng chúa Huyền Trân. Năm 1307, hai

châu Ơ, Rí được đổi thành Thuận Châu và Hóa Châu. Vùng đất Điện
Bàn thuộc phần đất phía Nam của Hóa Châu. Năm 1435, địa danh
Điện Bàn được Nguyễn Trãi ghi vào “Dư địa chí” gồm 95 xã thuộc
phủ Triệu Phong của lộ Thuận Hóa. Năm 1602 Nguyễn Hồng đổi
thành dinh Quảng Nam. Năm 1604, tách huyện Điện Bàn khỏi phủ
Triệu Phong, Thuận Hóa, thăng thành phủ Điện Bàn, thuộc dinh
Quảng Nam. Dinh trấn Quảng Nam đóng tại xã Thanh Chiêm, huyện
Diên Phước, phủ Điện Bàn, do các công tử của Chúa Nguyễn lần
lượt đến trấn thủ. Năm 1803, vua Gia Long lập dinh Quảng Nam
gồm hai phủ: Điện Bàn và Thăng Hoa. Phủ Điện Bàn bao gồm hai
huyện là Hịa Vang và Diên Phước. Điện Bàn ngày nay chính là
huyện Diên Phước. Từ 1945 đến 1954, huyện Điện Bàn là đơn vị
hành chính khi thì thuộc Quảng Nam, khi thì thuộc Liên tỉnh Quảng
Nam – Đà Nẵng.


7

Sau khi Miền Nam hồn tồn được giải phóng, 30 - 4 – 1975,
Điện Bàn là một trong 14 huyện của Quảng Nam. Từ ngày 1- 11997 khi Đà Nẵng tách khỏi Quảng Nam đến nay, Điện Bàn là một
huyện của tỉnh Quảng Nam.
Qua 38 năm hịa bình độc lập, Điện Bàn không ngừng phát
triển về mọi mặt, trở thành vùng kinh tế năng động Bắc Quảng Nam.
1.2.2. Địa lý tự nhiên
Điện Bàn là một huyện đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Quảng
Nam, trải dài từ 15 độ 50’ đến 17độ 57’ vĩ độ Bắc và từ 108 độ đến
108 độ 20’ kinh độ Đông, cách tỉnh lỵ Tam Kỳ 48km về phía bắc,
cách thành phố Đà Nẵng 25 km về phía Nam, phía bắc giáp huyện
Hồ Vang (TP ĐN), phía Nam giáp huyện Duy Xun, phía đơng
nam giáp thị xã Hội An, phía đơng giáp biển Đơng và phía Tây giáp

huyện Đại Lộc. Diện tích tự nhiên của huyện là 214,28km2.
Địa hình của huyện Điện Bàn tương đối bằng phẳng,có bờ
biển dài 8km. Điện Bàn là một huyện có nhiều thuận lợi trong giao
thông đường bộ, Quốc lộ 1A và đường sắt xuyên Việt đi ngang qua
huyện. Ngoài ra huyện cịn có nhiều tuyến đường giao thơng huyết
mạch khác với chiều dài hàng trăm km được rải nhựa, bê tông xi
măng, rất tiện lợi cho giao thông và phát triển kinh tế - xã hội.
1.2.3. Địa lý hành chính
Theo “Lịch sử Đảng bộ huyện Điện Bàn”, quá trình hình thành
và phát triển của vùng đất Điện Bàn hiện nay như sau:
Vùng đất Điện Bàn xưa thuộc đất Việt Trường Thị của vua
Hùng. Từ năm 241 đến 205 trước Công nguyên, thời nhà Tần, thuộc
Tượng Quận. Từ năm 206 trước Công nguyên đến năm 192 sau
Công nguyên, thời nhà Hán, thuộc quận Tượng Lâm và từ năm 192
đến năm 1036 thuộc Vương quốc Champa .


8

Năm 1036, vua Champa là Chế Mân đã cắt hai châu Ô và Lý
dâng cho vua nhà Trần để làm sính lễ cưới cơng chúa Trần Huyền
Trân. Năm 1037, hai châu Ô và Lý được đổi tên thành Châu Thuận
(Thuận Châu) và Châu Hóa (Hóa Châu) và vùng đất Điện Bàn thuộc
phần đất phía nam của Châu Hóa.
Năm 1435, địa danh Điện Bàn được Nguyễn Trãi ghi vào “Dư
địa chí”. Điện Bàn lúc bấy giờ gồm 95 xã, thuộc phủ Triệu Phong
của lộ Thuận Hóa.
Sau ngày Cách mạng Tháng Tám (1945) thành cơng, dưới chế
độ mới, đơn vị hành chính cấp phủ trước đây thống nhất lại thành
cấp huyện. Cấp tổng cũng được xóa bỏ. Các xã được điều chỉnh lại

ranh giới gồm nhiều làng cũ hợp lại.
Vào đầu năm 1946, huyện Điện Bàn từ 115 làng cũ sát nhập
lại thành 37 xã mới. Hiện nay, huyện Điện Bàn có 20 xã và một thị
trấn.
1.2.4. Tình hình dân cư, kinh tế, văn hóa, xã hội
Sau cuộc hơn nhân giữa Huyền Trân công chúa với Chúa
Chiêm Thành là Chế Mân, người Việt từ các tỉnh phía Bắc, chủ yếu
là nhân dân hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ An, đã vào khai phá vùng
đất ven sông Thu Bồn từ các thế kỷ XIV, XV. Từ đó dân số Điện
Bàn ngày một đơng đúc. Và ngày này – tính đến ngày 1.1.2000, dân
số tồn huyện là 190.623 người gồm 42.563 hộ gia đình.
Điện Bàn là một vùng đất có khá nhiều di tích thuộc văn hóa
Champa như tháp Bàng An, phế tích Cẩm Văn, bi ký Champa ở Bồ
Mưng; nhiều cơng trình kiến trúc cổ nổi tiếng như thành tỉnh La Qua
và đình làng La Qua... Rất tiếc nhiều đình, chùa với kỹ thuật chạm
khắc tinh xảo, mang đậm màu sắc kiến trúc cổ truyền của dân tộc đã
bị chiến tranh tàn phá, nay khơng cịn nữa.


9

Đạo Phật vào Điện Bàn từ khá sớm, có ảnh hưởng sâu sắc đến
đời sống tâm linh của một bộ phận dân cư trong huyện. Đạo Thiên
Chúa vào muộn hơn và Đạo Cao Đài chỉ mới đến từ những năm 30
của thế kỷ XX. Đồng bào lương và giáo trong huyện đồn kết gắn bó
với nhau, cùng tham gia đấu tranh bảo vệ và xây dựng quê hương,
đất nước, chống lại những phần tử phản động đội lốt tôn giáo để thực
hiện những mưu đồ đen tối có hại cho dân, cho nước.
Điện Bàn là một vùng đất học, có nhiều nhà khoa bảng, sĩ phu
yêu nước, chiến sĩ cách mạng nổi tiếng như : Phạm Phú Thứ, Hoàng

Diệu, Trần Quý Cáp, Trần Cao Vân, Nguyễn Thành Ý, Phạm Như
Xương, Phan Thành Tài, Lê Đình Dương, Phan Thúc Duyện, Lê
Đình Thám, Phan Thanh, Phan Bôi...
Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, truyền
thống yêu nước và cách mạng của nhân dân Điện Bàn được phát huy
mạnh mẽ.
1.2.5. Đặc điểm ngơn ngữ
Chính hệ thống ngun âm trong phần vần của tiếng Quảng là
nét đặc biệt để cho những người dân vùng khác có thể phân biệt tiếng
Quảng với những vùng phương ngữ khác. Ngoài những khác biệt
trong hệ thống âm vị, ở Quảng Nam cịn có những khác biệt trong
ngơn ngữ nói, đó là những từ địa phương “mơ”, “tê”, “răng”,
“rứa”… làm nên đặc trưng riêng của tiếng Quảng.
CHƯƠNG 2
ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO
ĐỊA DANH HUYỆN ĐIỆN BÀN TỈNH QUẢNG NAM
2.1. PHÂN LOẠI ĐỊA DANH
Từ những nguồn tư liệu thu thập được qua q trình khảo sát
thực tế, chúng tơi tiến hành phân loại địa danh ở huyện Điện Bàn
theo những tiêu chí cụ thể như sau:


10

Phân loại theo tiêu chí loại hình, địa danh của Điện Bàn có
155 địa danh chỉ địa hình thiên nhiên, 202 địa danh hành chính, 216
địa danh chỉ cơng trình xây dựng, 105 địa danh vùng.
Theo tiêu chí ngữ nguồn gốc ngữ nguyên, Điện Bàn có 421 địa
danh Hán Việt, 125 địa danh thuần Việt, 42 địa danh hỗn hợp, 3 địa
danh tiếng Champa .

Phân loại theo số lượng âm tiết, địa danh của Điện Bàn có 123
địa danh đơn tiết, 533 địa danh đa tiết.
2.2. CÁCH THỨC ĐẶT TÊN CỦA ĐỊA DANH Ở HUYỆN
ĐIỆN BÀN
Sau khi chọn lọc và tiếp thu quan điểm của các tác giả đi
trước, dựa vào những đặc điểm về địa lý, lịch sử, văn hố của địa
phương, chúng tơi sẽ trình bày cách thức đặt tên của địa danh ở
huyện Điện Bàn theo quan điểm của Lê Trung Hoa tức là phân chia
theo 3 phương thức: 1. Phương thức tự tạo; 2. Phương thức chuyển
hoá; 3. Phương thức vay mượn.
2.2.1. Phương thức tự tạo
Phương thức tự tạo là cách thức đặt tên đặc điểm về hình
dáng, kích thước, tính chất, màu sắc… của chính bản thân đối tượng
hoặc những đặc điểm có liên quan gián tiếp đến đối tượng như cây,
con vật nuôi, tên danh nhân, các sự kiện lịch sử, tín ngưỡng dân
gian… người ta sử dụng những yếu tố ngôn ngữ trong hệ thống từ
vựng chung để định danh cho đối tượng. Cũng là phương thức tự tạo
nhưng tuỳ thuộc vào những đặc điểm về tự nhiên, xã hội mà mỗi
vùng có cách đặt tên khác nhau. Do vậy trong tên gọi của đối tượng
có thể chứa đựng cả đời sống tâm lí, tình cảm, ước vọng, tín
ngưỡng… hay những đánh giá, nhận xét của người dân bản xứ. Ví
dụ: Cồn Đầu Voi (Điện Nam Trung), cồn Bồ (Điện Ngọc), mương


11

Bánh Lái (Điện Ngọc), bàu Lớn (Điện Phước), truông Ba Truông
(Điện Tiến), sông Cái (Điện Ngọc), sông Con (Điện Tiến)…
2.2.2. Phương thức chuyển hoá
“Chuyển hoá là phương thức biến một địa danh này thành một

hoặc nhiều địa danh khác. Trong q trình chuyển hố, địa danh
mới có thể giữ ngun dạng của địa danh cũ, hoặc thêm một yếu tố
mới. Sau khi chuyển hố, địa danh cũ có thể mất đi hoặc cùng tồn tại
với địa danh mới”[42, tr.43]. Hiện tượng chuyển hố này có thể xảy
ra trong nội bộ một loại địa danh mà cũng có thể là từ loại địa danh
này chuyển hoá sang các loại địa danh khác.
Ví dụ: gị Đinh (Điện Phương)→ cánh đồng Gị Đinh (Điện
Phương); bến đị Nhơn (Điện Ngọc) → xóm bến đị Nhơn (Điện
Ngọc), thơn Ngân Câu (Điện Ngọc) → bến đị Ngân Câu (Điện Ngọc
2.2.3. Phương thức vay mượn
Phương thức vay mượn là phương thức lấy tên gọi ở vùng
khác, nơi khác (kể cả tên người, tên đất) cũng như ngôn ngữ của dân
tộc khác để đặt tên cho địa vực cư trú của mình, ví dụ: sân vận động
Bà Sơ (Điện Minh), thơn Câu Nhí (Điện An)…
2.2.4. Đặc điểm về mặt chuyển biến của địa danh ở huyện
Điện Bàn
a. Các nguyên nhân làm biến đổi địa danh
Theo Lê Trung Hoa, sự chuyển biến của địa danh có hai
nguyên nhân lớn: nguyên nhân bên ngoài địa danh hay nguyên nhân
xã hội, nhóm nguyên nhân bên trong địa danh hay nguyên nhân ngôn
ngữ.
b. Đặc điểm chuyển biến của các loại địa danh
b1. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ địa hình thiên
nhiên


12

Nhiều địa danh chỉ địa hình đã chuyển hố lẫn nhau dẫn tới sự
ra đời của một địa danh mới, có thể là giữ nguyên yếu tố cũ hoặc

thêm vào một yếu tố mới,ví dụ như: cồn Vàng (Điện Quang) → cánh
đồng Cồn Vàng, gò Đinh → cánh đồng Gò Đinh (Điện Phương)…
Một vài đối tượng mang hai tên gọi khác nhau, có sự tồn tại
song song giữa địa danh dân gian (do người dân sống tại nơi có địa
danh đó đặt) và địa danh chính thức (do Nhà nước đặt và thường là
từ Hán Việt), ví dụ: sơng Chợ Củi (Điện Phương) hay sơng Sài Thị
Giang, sơng Cổ Cị hay Lộ Cảnh Giang …
b2. Đặc điểm chuyển biến của địa danh hành chính
Với lịch sử lâu đời, trải qua nhiều triều đại, nhiều biến động
lịch sử, lại chịu tác động mạnh mẽ của các yếu tố chính trị, xã hội
nên địa danh có những thay đổi nhất định. Những chuyển biến của
địa danh hành chính diễn ra thường xuyên với nhiều nguyên nhân
khác nhau.
- Đổi tên do nhà cầm quyền cải tổ lại đơn vị hành chính
- Ngồi việc thay đổi địa danh hành chính do nhà cầm quyền
thì chuyển hoá địa danh cũng là một nguyên nhân quan trọng, ví dụ:
sơng Vĩnh Điện → thị trấn Vĩnh Điện; núi Đức Ký → thôn Đức Ký
Nam (Điện Thọ), thôn Đức Ký Bắc (Điện Thọ)....
- Do kiêng huý trong thời phong kiến, tránh dùng các từ mà
vua chúa cho “từ cấm”. Ví dụ như: thơn Kim Sa đã thành thơn Cẩm
Sa (Điện Nam Bắc), thôn Kim Lũ đã thành Cẩm Lậu (Điện Phong),
thôn Kim Quất đã thành thôn Thanh Quýt (Điện Thắng Trung)…
b3. Đặc điểm chuyển biến của địa danh chỉ cơng trình xây
dựng
Địa danh chỉ cơng trình xây dựng ở Điện Bàn phần lớn được
định danh, số còn lại là chuyển hoá từ nội bộ hoặc từ các loại địa
danh khác,ví dụ như: cầu Bình Long → chợ Bình Long, cầu Vĩnh


13


Điện → chợ Vĩnh Điện ... Ngoài ra, địa danh chỉ cơng trình xây dựng
phần lớn được chuyển hố từ địa danh hành chính, chẳng hạn: thơn
Giáo An (Điện Hồng) → cầu Giáo An (Điện Hồng....
2.3. ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH Ở HUYỆN ĐIỆN
BÀN
2.3.1. Địa danh có cấu tạo từ đơn
Địa danh có cấu tạo đơn là địa danh do một âm tiết có nghĩa
hoặc nhiều âm tiết khơng có nghĩa tạo thành. Nói rõ hơn, các địa
danh gồm một từ đơn đơn tiết hoặc một từ đơn đa tiết thuộc loại cấu
tạo đơn. Địa danh có cấu tạo đơn có ở địa danh thuần Việt lẫn địa
danh khơng thuần Việt.
Qua thống kê, địa danh có cấu tạo đơn chiếm tỉ lệ 18,75%
trong tổng số lượng địa danh thu thập được, với 123 địa danh. Thuộc
cấu tạo đơn chủ yếu là các địa danh chỉ địa hình thiên nhiên và địa
danh hành chính, địa danh vùng chiếm số lượng rất thấp.
Xét về nguồn gốc ngơn ngữ thì cấu tạo đơn của địa danh xuất
hiện ở từ thuần Việt là phổ biến. Xét về từ loại thì những địa danh có
cấu tạo đơn chiếm số lượng lớn là danh từ. Ngồi ra, các từ loại khác
như động từ, tính từ, số từ cũng được sử dụng để đặt tên.
2.3.2. Địa danh có cấu tạo từ phức
a. Quan hệ đẳng lập
a1. Địa danh thuần Việt
Địa danh có nguồn gốc thuần Việt được cấu tạo theo kiểu quan
hệ đẳng lập chiếm số lượng không lớn, chủ yếu là ghép hai yếu tố
với nhau. Ví dụ: cánh đồng Bàu Đầm (Điện Hồng), Xóm Chín Chủ
(Điện Hồ)….


14


a2. Địa danh Hán Việt
Địa danh Hán Việt có cấu tạo theo quan hệ đẳng lập chiếm số
lượng lớn hơn. Các thành tố cấu tạo nên những địa danh này thường
là danh từ và tính từ, kết cấu của chúng tương đối lỏng lẻo.
Một vài địa danh được cấu tạo theo kiểu ghép hai, ba địa danh
Hán Việt cũng được xếp vào loại này. Ví dụ: Thơn Tân Mỹ (Điện
Minh), thôn Cẩm Văn (Điện Hồng), thôn Cẩm Phú (Điện Phong),
khe Định An (Điện Tiến), thôn Thạnh Mỹ (Điện Phong)....
b. Quan hệ chính phụ
b1. Địa danh thuần Việt
Trong địa danh thuần Việt, vị trí yếu tố chính phụ rất ổn định
là chính trước phụ sau, thành tố chính thường là danh từ, ví dụ: cánh
đồng Cồn Đình (Điện Hồng), cánh đồng Bàu Đầm (Điện Hồng),
cánh đồng Đồng Não (Điện Hồng)...
- Danh từ + tính từ: Cánh đồng Cồn Vàng (Điện Quang)…
b2. Địa danh không thuần Việt: bao gồm:
* Địa danh Hán Việt: Ngã ba Trùm Giao (Điện Hồng), thôn
Đông Lãnh (Điện Trung), thôn Châu Thủy (Điện Thọ), thôn Bảo An
(Điện Quang)…
*Địa danh hỗn hợp: núi Đất Sơn (Điện Tiến), thôn Bến Đền
Tây (Điện Quang), thơn Bến Đền Đơng (Điện Quang), xóm Cát Tứ
Hải (Điện Ngọc)…
c. Quan hệ chủ vị: Ví dụ: thơn Giang Tắt (Xã Điện Ngọc), gị
Sát Cúng (Điện Thắng), cánh đồng Bãi Bồi (Điện Phong)…
2.4. DANH TỪ CHUNG VÀ THÀNH TỐ CHUNG TRONG ĐỊA
DANH Ở HUYỆN ĐIỆN BÀN
2.4.1. Phân biệt danh từ chung và thành tố chung
Danh từ chung chứa đựng thơng tin về loại hình của địa danh,
dùng để chỉ những địa danh cùng loại, cùng một thuộc tính. Trong hệ



15

thống địa danh ở huyện Điện Bàn, chúng tôi thống kê có tất cả danh
từ chung. Loại một âm tiết chiếm 27/44, chủ yếu tập trung ở địa danh
chỉ địa hình thiên nhiên: núi, gị, dốc, hịn, cồn, rừng, bàu, trảng,
trng, xóm, hố, sơng, huyện, phường, xã, thơn, khu, ga, cầu, đường,
chợ, giếng, nguồn, vùng, làng, lùm, cống. Loại hai âm tiết là 12/44,
tập trung ở địa danh chỉ công trình xây dựng: bến đị, bến xe, ngã ba,
ngã tư, trạm bơm, cánh đồng, cửa sông, bãi biển, khe nước, bãi
sơng, thị trấn. Loại có ba hoặc bốn âm tiết là 7/44: ngã ba sơng, tổ
dân phố, trạm thu phí, hồ chứa nước, khu công nghiệp, sân vận
động…
Thành tố chung hay cịn có tên khác là tên gọi chung, thành
tố A. Theo chúng tôi, danh từ chung và thành tố chung có sự khác
biệt nhau. Danh từ chung có chức năng phân xuất địa danh, chia địa
danh thành từng loại riêng biệt và có mối quan hệ khơng bền chặt với
địa danh. Trong khi đó, thành tố chung chính là thành phần của địa
danh, gắn kết với địa danh, có quan hệ mật thiết với địa danh.
2.4.2. Một số danh từ chung và thành tố chung trong địa
danh ở huyện Điện Bàn
a. Danh từ chung
- Cồn: mô đất (hoặc cát) được tạo nên với hình dáng trịn,
thoải, cao hơn mặt đất. Ví dụ: cồn Lai (Điện Nam Trung), cồn Đầu
Voi (Điện Nam Trung) …
- Gò: khoảng đất nổi cao lên giữa nơi bằng phẳng. Ví dụ: Gị
Chùa (Điện Thọ), gị Trên (Điện Nam), gò Dưới (Điện Nam), gò Hà
(Điện Hòa), gị Đinh …
- Trảng: nơi thấp, nắng thì khơ, mưa thì đọng nước. Ví dụ:

Trảng Cỏ (Điện Nam Trung), trảng Chạnh (Điện Nam Trung)...


16

- Bàu: Chỗ trũng có nước quanh năm. Ví dụ: Bàu Nuôi (Điện
Nam Trung), bàu Leo (Điện Nam Trung), bàu Thinh (Điện
Phước)....
- Khe: đường nước hẹp chảy giữa hai vách núi hoặc sườn dốc,
có thể khơ cạn theo mùa. Ví dụ: Khe Định An (Điện Tiến)
- Hồ: nơi trũng xuống thường chứa nhiều nước. Ví dụ: Hồ Kỳ
Đà (Điện Nam)
b. Thành tố chung
Trong địa danh ở huyện Điện Bàn còn có rất nhiều thành tố
chung là từ Hán Việt, chuyển tải những khát vọng, ước mơ của người
dân về một cuộc sống tốt đẹp. Những thành tố chung này xuất hiện
nhiều trong địa danh hành chính, chẳng hạn như Phú Đông (Điện
Quang), Trung Phú (Điện Minh),Đồng Hạnh (Điện Minh), An Tự
(Điện Thắng Nam), Xuân Đài (Điện Quang)...
CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM NGUỒN GỐC, Ý NGHĨA VÀ GIÁ TRỊ
PHẢN ÁNH HIỆN THỰC CỦA ĐỊA DANH HUYỆN ĐIỆN
BÀN, TỈNH QUẢNG NAM
3.1. ĐẶC ĐIỂM VỀ NGUỒN GỐC, Ý NGHĨA CỦA ĐỊA DANH
Ở HUYỆN ĐIỆN BÀN
3.1.1. Địa danh chỉ địa hình tự nhiên
a. Ngữ nguyên
Trong tổng số 678 địa danh thu thập được ở Điện Bàn thì địa
danh chỉ địa hình tự nhiên chiếm 155 đơn vị, với 18 tiểu loại: núi,
khe núi, gò, dốc, hòn, đèo, đồi, suối, cồn, rừng, cửa biển, vũng, bãi

biển, hóc, hố, ngầm, khe nước, ngã ba sông, sông, bãi sông.


17

Địa danh chỉ địa hình ở Điện Bàn có nguồn gốc thuần Việt và
không thuần Việt.
Địa danh thuần Việt chiếm số lượng cao nhất 78/155, chiếm
56,12%. Loại này tập trung chủ yếu ở địa danh chỉ núi, gị, đồi, hố,
sơng. Ví dụ: gị Dê (Điện Nam Trung), trảng Cỏ (Điện Nam Bắc),
sơng Chợ Củi (Điện Phương…
Địa danh Hán Việt có số lượng ít hơn, với 54/155 đơn vị,
chiếm 34,83%. Loại địa danh này có mặt ở hầu hết các tiểu loại địa
danh chỉ địa hình. Chẳng hạn như: núi Đức Ký (Điện Tiến), sơng La
Thọ (Điện Hịa), sơng Bình Phước (Điện Tiến), đầm Lai Nghi (Điện
Nam), dốc Kiểm Cường (Điện Phong…
Một số địa danh hỗn hợp nằm rải rác trong các tiểu loại địa
danh, ví dụ: núi Đất Sơn (Điện Tiến), bãi Sát Cúng (Điện Thắng),
ngã ba chợ Tổng (Điện Phương), trạm bơm bến Đình (Điện Nam)…
b. Phạm vi biểu vật
Qua khảo sát, hơn 50% các địa danh ở huyện Điện Bàn sử
dụng đặc trưng hình thức, màu sắc và đối tượng biểu thị được chọn
làm cơ sở định danh cho các đối tượng chỉ địa hình tự nhiên như
sơng Hẹp (Điện Dương), bàu Lớn (Điện Phước), truông Ba Truông
(Điện Tiến), biền Đợt Dài (Điện Hồng, là một lô đất dài), biền Hai
Mẫu Tám (Điện Hồng, biền có diện tích hai mẫu tám)....
c. Một số địa danh chỉ địa hình tự nhiên tiêu biểu
c1. Cát Rớ: “Cất” là nâng lên, nhấc lên, đưa lên. Cồn Cất Rớ
khi đọc phải uốn lưỡi nên lâu ngày chữ Cất thành cát và quen miệng
nên dân gian gọi thành cồn Cát Rớ.

c2. Mù Thương: Sông này thuộc xã Điện Nam Trung chạy
giữa cánh đồng, buổi sáng đứng ở bìa làng nhìn lên đồng, sương đã
tan trên các ruộng lúa, chỉ còn lại sương dưới sông đang dần tan


18

trong ánh mặt trời. Ở xa trông như dải sương mù, khi mặt trời lên cao
thì sương tan hết.
c3. Vĩnh Điện: Sông Vĩnh Điện là đường thủy quan trọng nối
sông Thu Bồn với Đà Nẵng. Hình tượng con sơng được khắc ghi trên
Dụ đỉnh đặt ở Thế Miếu (Huế).
3.1.2. Địa danh hành chính
a. Ngữ nguyên
Trong tổng số địa danh thống kê được ở Điện Bàn, địa danh
hành chính chiếm số lượng tương đối lớn với 202 đơn vị (chiếm
29,79%). Địa danh hành chính thường đứng sau các tiền từ như:
huyện, xã, thị trấn, khối phố, thơn, …
Địa danh hành chính ở Điện Bàn có nguồn gốc chủ yếu là từ
Hán Việt và từ thuần Việt.
Số lượng địa danh hành chính là từ thuần Việt ở Điện Bàn 4
đơn vị (chiếm 1,9%). Hầu hết địa danh hành chính ở Điện Bàn là từ
Hán Việt.
b. Phạm vi biểu vật
Cũng như địa danh ở các nơi khác, địa danh hành chính ở Điện
Bàn từ thưở xa xưa đã sử dụng từ Hán Việt để đặt tên. Đó là các mỹ
từ mang ý nghĩa tốt đẹp để phản ánh tâm tư, nguyện vọng của người
dân sống ở nơi đó như An, Phú, Cẩm... Cách đặt tên này vẫn được sử
dụng rộng rãi, phổ biến cho tới hiện nay.
c. Một số địa danh hành chính tiêu biểu

c1. Cần Húc: Cần Húc là âm sắc thông tục dân gian thừa tiếp
gọi một xứ ở của cư dân cũ có tên là Kan Hu, nghĩa là lị luyện đúc
đồng. Ngữ danh Cần Húc chẳng qua là cách phiên âm từ tiếng Chăm,
một phương thức xưng hô địa danh phổ biến như đã từng xảy ra
trong quá trình Nam tiến của dân tộc Đại Việt từ thế kỷ XV trở về
sau.


19

c2. Điện Bàn
Về mặt ngữ nguyên, danh xưng Điện Bàn được trích từ hai
chữ trong câu: “Điện quốc gia ư Thái sơn bàn thạch chi an”
[84,tr.46] (nghĩa là: xây nền móng đất nước vững như bàn đá núi
Thái Sơn).
3.1.3. Địa danh chỉ cơng trình xây dựng
a. Ngữ ngun
Theo số liệu mà chúng tôi thống kê được, số lượng địa danh
chỉ cơng trình xây dựng ở Điện Bàn là 216 đơn vị chiếm 31,85%.
Loại địa danh này đứng liền sau các tiền từ như: ga, bến đò, cầu,
đường, cảng, cầu, chợ, khu cơng nghiệp, ...
Địa danh chỉ cơng trình xây dựng ở Điện Bàn có nguồn gốc
thuần Việt và Hán Việt như các loại địa danh khác.
Số lượng địa danh thuần Việt là 52 đơn vị, chiếm 24,5%. Loại
này tập trung chủ yếu ở tiểu loại cầu và chợ. Chẳng hạn như: cống
Nồi (Điện Nam Trung), cống Ca (Điện An), cống Ván (Điện Hồng)...
Địa danh chỉ cơng trình xây dựng có nguồn gốc Hán Việt là
110 địa danh, chiếm 50,9%.
b. Phạm vi biểu vật
Địa danh chỉ cơng trình xây dựng ở Điện Bàn phần lớn được

định danh dựa vào chất liệu như cầu Ván (Điện Hồng), cống Ca
(Điện An)…,màu sắc như cầu Đen (Điện Quang)…; hình dáng như
cầu Thang (Điện Dương), cống Nồi (Điện Nam Trung)…; tính chất
như chợ Mai (Thị trấn Vĩnh Điện, chợ chỉ đông vào buổi sáng), bến
Lội (Điện Nam Trung, bến nước cạn, có thể lội qua được)…
Điều đặc biệt là rất nhiều cơng trình xây dựng ở huyện Điện
Bàn lấy tên sản phẩm được buôn bán nhiều ở đó để gọi tên như bến
Mắm (Điện Nam Trung), bến Hến (Điện Phương)…
c. Một số địa danh chỉ cơng trình xây dựng tiêu biểu


20

c1.Ông Đốc
Nơi đây, đốc binh họ Bùi đã hy sinh trong kháng chiến chống
Pháp. Để tưởng nhớ ông, nhân dân gọi nơi ơng ngã xuống là bến đị
Ơng Đốc. “địa danh” ghi lại một sự kiện lịch sử, thể hiện lịng biết
ơn, tơn kính đối với vị anh hùng họ Bùi. Ngày nay, bến đị Ơng Đốc
ở thơn Vân Ly xã Điện Quang huyện Điện Bàn.
c2.Củi
Chợ Củi thuộc xã Điện Phương, huyện Điện Bàn. Chợ chuyên
bán củi được khai thác từ phía thượng nguồn sơng Thu Bồn.
3.1.4. Địa danh vùng
a. Ngữ nguyên
Trong tổng số 678 địa danh thống kê được ở Điện Bàn, địa
danh vùng chiếm số lượng tương đối với 105 đơn vị (15,4%). Địa
danh vùng thường đứng sau các tiền từ như: vùng, làng, khu, …
Địa danh vùng ở Điện Bàn cũng có nguồn gốc thuần Việt và
Hán Việt như các loại địa danh khác.
Số lượng địa danh thuần Việt là 21 đơn vị, chiếm 20 %. Loại

này tập trung chủ yếu ở tiểu loại vùng, làng và xóm. Chẳng hạn như:
vùng Gị Nổi, vùng Cát, xóm Chín Chủ (Điện Hịa), xóm bà Ngọt
(Điện Thọ)...
b. Phạm vi biểu vật
Kết quả khảo sát cho thấy, địa danh vùng ở Điện Bàn được gọi
tên theo các đối tượng liên cận trong đó chiếm phần lớn là tên người
nổi tiếng trong vùng, người đã có cơng khai phá hoặc người gắn bó
với địa danh ấy. Đó khơng phải tên “danh nhân lịch sử” mà là tên
của những có chức vị trong làng như xóm Xã Nhường (Điện Ngọc ),
xóm Thủ Hồnh (Điện Ngọc), biền Cửu Ngạch (Điện Hồng)… Bên
cạnh đó, tên làng, tên xóm ở Điện Bàn cũng là tên những người đã có
cơng khai phá như làng Diệm Sơn (Điện Tiến), làng Thanh Chiêm


21

(Điện Phương), làng Phước Kiều (Điện Phương) hoặc những cái tên
bình dị như xóm bà Ngọt (Điện Thọ ), xóm nhà Ký (Điện Ngọc) ....
Việc sử dụng tên người để gọi tên cho tên làng là những minh chứng
rõ nhất cho tính cách của con người Điện Bàn, con người Quảng
Nam.
c. Nguồn gốc, ý nghĩa của một số địa danh vùng
c1. Thanh Chiêm
Thanh Chiêm là ghép tên đất cũ Thanh Hóa với đất mới là
Chiêm Động. Điều này rất phù hợp với thực tế lịch sử đi khai phá
của cha ông ngày trước.
c2. Phước Kiều
Theo lời kể của các bô lão làng Phước Kiều thì danh xưng của
làng là ghép từ tổng Phước Ninh và xã Đề Kiều vì ơng tổ nghề đúc
đồng là nhà sư Dương Không Lộ, pháp hiệu là Giác Hải đại Thiền sư

sinh năm 1019 và mất năm 1094 vốn là người xã Đê Kiều, tổng Bình
Quân, châu Thất Truyền, Phủ Tường Cảnh, tỉnh Lạng Sơn.
c3. Gò Nổi
Vùng đất này nổi lên ở giữa chung quanh được bao bọc bởi
hai nhánh sông trước và sông sau của dịng sơng Thu Bồn. Kiên
cường, bất khuất đấu tranh chống giặc, Gò Nổi trở thành địa danh
nổi tiếng ở miền Nam “nhất Củ Chi, nhì Gị Nổi”.
3.2. GIÁ TRỊ PHẢN ÁNH CỦA HỆ THỐNG ĐỊA DANH Ở
HUYỆN ĐIỆN BÀN
3.2.1. Phản ánh sự kiện, biến cố lịch sử
Như mọi danh từ, danh ngữ chung, địa danh có chức năng
định danh sự vật. Đó là đứng trên quan điểm đồng đại. Nếu đứng
trên quan điểm lịch đại, địa danh có chức năng bảo tồn. Rất nhiều
những biến cố chính trị, lịch sử được lưu giữ trong địa danh.


22

Khi thực dân Pháp rồi kế đến là đế quốc Mỹ tiến hành xâm
lược Việt Nam thì những địa danh này là nơi khắc sâu tội ác của bọn
xâm lược, nơi chứa máu và nước mắt của người dân Điện Bàn như
Bồ Bồ, Trảng Nhật …
3.2.2. Phản ánh những tấm gương văn hoá, lịch sử
Vùng đất Điện Bàn đã sản sinh ra biết bao nhiêu “nhân kiệt”
nổi danh khắp cả nước. Tên tuổi của những con người ấy đã gắn liền
với quê hương, góp phần vinh danh danh hiệu “trung dũng, kiên
cường” của mảnh đất Điện Bàn như: đường Cao Sơn Pháo (Vĩnh
Điện), đường Trần Quý Cáp (Vĩnh Điện), đường Trần Thị Lý (Vĩnh
Điện), đường Phan Khôi (Vĩnh Điện), đường Mẹ Thứ (Vĩnh Điện…
3.2.3. Giá trị phản ánh về mặt địa lý tự nhiên

Với đặc điểm là một huyện đồng bằng ven biển của tỉnh
Quảng Nam, các địa danh ở huyện Điện Bàn chiếm tỉ lệ lớn là các
địa danh liên quan đến nước như bàu, đầm, sông, bến sông….
Địa danh Điện Bàn cũng có nhiều trường hợp mang tên của
cây cỏ như bàu Khế (Điện Quang), trảng Cỏ (Điện Nam ), trảng
Chuổi (Điện Ngọc), cồn Tùng (Điện Ngọc), biền Cỏ Voi (Điện
Hồng), biền Cỏ Chỉ (Điện Hồng), gò Sứ (Điện Phương), bàu Gừng
(Điện Nam)....
Tên của cầm thú cũng được phản ánh trong địa danh.Ví dụ:
bàu Ốc Thượng, bàu Ốc Hạ (Điện Nam Trung), bến Hến (Điện
Phương), cồn Rạn (Điện Nam Trung), bến Hến (Điện Phương)...
3.2.4. Giá trị phản ánh về mặt kinh tế
Địa danh khơng chỉ có giá trị phản ánh lịch sử, chính trị, địa lý
mà nó cịn phản ánh mặt kinh tế của xã hội đương thời. Với tổng số
địa danh mà chúng tôi thống kê được, có nhiều địa danh có nguồn
gốc từ các hoạt động kinh tế và phần nào thể hiện được thành phần
kinh tế đa dạng của tỉnh. Ví dụ: xóm Thuốc ở Điện Quang là địa


23

phương chuyên trồng thuốc lá, làng chiếu chẽ Triêm Tây, làng đúc
đồng Phước Kiều …
3.2.5. Giá trị phản ánh tín ngưỡng, tơn giáo
Trên đường Nam tiến của dân tộc, tín ngưỡng thờ nữ thần theo
chân các lớp lưu dân trải dài trên khắp đất nước, kết hợp với các yếu
tố bản địa đã tạo thành một hệ thống các nữ thần khá đông đảo. Ở
Điện Bàn, hiện tồn tại khá nhiều địa danh mang yếu tố “Bà”, chẳng
hạn như: sông Thu Bồn, nổng bà Chúa (Điện Ngọc) …
Điện Bàn cũng là nơi hội tụ của nhiều tôn giáo khác nhau,

như: Phật giáo, đạo Thiên Chúa, đạo Tin Lành, đạo Cao Đài, …
Những màu sắc tôn giáo này cũng phản ánh rất rõ trong địa danh
như: gò Chùa (Điện Thọ), gò Phật (Điện Phương), cồn Chùa (Điện
Ngọc), cồn Miễu ông Đông (Điện Nam Trung), sân vận động Bà Sơ
(Điện Minh), xóm Đạo (Điện Thọ)....
3.2.6. Giá trị phản ánh về mặt ngôn ngữ
a. Phản ánh ngôn ngữ cổ xưa
Thông qua địa danh, lớp từ cổ trong ngôn ngữ được bảo lưu.
Từ cổ là những từ ngữ được sử dụng ngày xưa và biểu thị những đối
tượng trong tiếng Việt hiện nay có các từ đồng nghĩa tương ứng. Ví
dụ: cồn Cai Hồnh (Điện Nam Trung), bến đị Ơng Đốc (Điện
Quang), xóm Xã Nhường (Điện Nam Trung), cồn Thủ (Điện Nam
Đông)…
b. Phản ánh ngơn ngữ các dân tộc anh em
Ngồi việc được cấu tạo từ các từ thuần Việt, từ Hán Việt, một
số lượng địa danh ở Điện Bàn còn được cấu tạo từ ngôn ngữ các dân
tộc khác như tiếng Chăm, tiếng Pháp…


×