Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Bảo đảm quyền con người trong quy định từ chối thực hiện các yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (421.11 KB, 9 trang )

BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG QUY ĐỊNH TỪ CHỐI THỰC HIỆN CÁC
U CẦU TƯƠNG TRỢ TƯ PHÁP HÌNH SỰ
Hồng Thị Vĩnh Quỳnh
TÓM TẮT: Tương trợ tư pháp (TTTP) về hình sự là một trong những nội dung quan
trọng được đặt ra trong các giai đoạn thực hiện cải cách tư pháp hình sự. Hoạt động hợp
tác quốc tế nói chung và về tương trợ tư pháp hình sự nói riêng được thực hiện dựa trên
nguyên tắc đảm bảo chủ quyền, an ninh quốc gia. Điều này có nghĩa rằng, bên cạnh nội
dung về phạm vi thực hiện thì các quốc gia đều quy định về các trường hợp từ chối thực hiện
yêu cầu tương trợ tư pháp hình sự. Các căn cứ từ chối thực hiện các yêu cầu TTTP về hình
sự đã được các văn bản pháp luật trong nước quy định từ Bộ Luật Tố tụng hình sự 2003 với
02 trường hợp, Luật Tương trợ tư pháp 2007 quy định 05 căn cứ từ chối, và sau này Bộ luật
Tố tụng hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung cũng đã có những thay đổi một cách phù hợp về vấn
đề này. Bài viết dựa trên một số nghiên cứu về quyền con người trong lĩnh vực TTTP về hình
sự trước đây, nhằm đánh giá và nhấn mạnh hơn nữa việc pháp luật Việt Nam nên có những
sửa đổi, bổ sung về quy định từ chối thực hiện TTTP hình sự theo hướng bảo vệ quyền con
người. Đây là một nội dung cần thiết phù hợp với Hiến pháp 2013, đáp ứng xu hướng của
pháp luật quốc tế và đặc biệt thống nhất với các Điều ước quốc tế (ĐƯQT) về TTTP hình sự
mà Việt Nam tham gia ký kết hoặc là thành viên.
Từ khóa: Luật Tương trợ tư pháp 2007, quyền con người, từ chối tương trợ tư pháp
hình sự.
ABSTRACT: Mutual legal assistance in criminal matters is one of the important
contents set out in the stages of criminal justice reform. International cooperation activities
in genẻal and on mutual criminal justice assistance in particular are carried out on the
basic of the principle of ensuring national sovereignty and security. This means that, in
addition to the scope of implementation, countries have provision on cases of refusal to
perform a request for criminal legal assistance. Grounds for refusing to perform requests
for mutual legal assistance in criminal matters are proviđe for in two cases by domestic


ThS. Giảng viên Trường Đại học luật thuộc Đại học Huế; Email:
544




legal document from the 2003 Criminal Procedure Code, the 2007 Mutual Legal Assistance
Law stipulating five grounds for refusal, and later the amended and supplemented Criminal
Procedure Code 2015 also made more appropriate changes on this issue. The article is
based on a number of previous studies on human rights in the field of mutual criminal legal
assistance in particular, in order to evaluate and futher emphasize that the Vietnamese law
should have amendments and supplement grounds for refusing to provice criminal legal
assistance in the direction of protecting human rights. This is a necessary content in
accordance with the 2013 Constitution, meeting the trend of international law and especially
in agreement with the international treaties on mutual legal assistance in criminal matters to
which Vietnam is a signatory member.
Key words: Mutual Legal Assistance Law, year 2007, human rights, refuse mutual
criminal legal assistance.
1. Xu hướng mở rộng việc bảo vệ quyền con người trong quy định từ chối thực hiện
yêu cầu TTTP hình sự của một số Hiệp định về TTTP hình sự mà Việt Nam đã tham
gia ký kết
Hầu hết các Hiệp định về TTTP hình sự mà Việt Nam tham gia ký kết đều quy định các
trường hợp từ chối thực hiện yêu cầu TTTP thành hai nhóm rõ ràng: nhóm quy định tuyệt
đối bao gồm các trường hợp bị từ chối thực hiện và nhóm quy định tùy nghi thể hiện các
trường hợp có thể từ chối thực hiện các yêu cầu TTTP1. Tùy thuộc vào yêu cầu, phạm vi và
mức độ quan tâm mà nội dung bảo vệ quyền con người trong các Hiệp định này được quy
định ở nhóm tuyệt đối hay tùy nghi. Cụ thể:
Hiệp định TTTP về hình sự giữa các nước ASEAN năm 2004 quy định các căn cứ bắt
buộc mà các quốc gia ký kết từ chối TTTP về hình sự nhằm bảo đảm quyền con người của
người liên quan bao gồm:
Yêu cầu tương trợ liên quan đến việc điều tra, truy tố hoặc trừng phạt một người về
một tội mà tội đó, hoặc xét tình tiết phạm tội, là tội phạm mang tính chất chính trị

Thiếu tá, Thạc sỹ Vũ Văn Hùng, Một số nhận thức về các trường hợp từ chối tương trợ tư pháp về hình sự,

Tạp chí Khoa học và Gi dục an ninh, 42/2015, Tr.57-62.
545
1


Có đủ căn cứ để cho rằng việc yêu cầu tương trợ là nhằm mục đích điều tra, truy tố, trừng
phạt hay gây khó khăn cho một người vì lý do chủng tộc, tơn giáo, giới tính, nguồn gốc dân
tộc, quốc tịch, hay chính kiến;
Yêu cầu tương trợ liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét xử một người về một tội
phạm mà họ đã bị kết án, tuyên vơ tội hoặc được ân xá bởi cơ quan có thẩm quyền ở nước
yêu cầu hoặc nước được yêu cầu; hoặc liên quan đến một tội phạm mà học đã chấp hành
xong hình phạt.
Yêu cầu tương trợ liên quan đến việc điều tra, truy tố, xét xử một người về hành vi
cấu thành tội phạm ở nước yêu cầu, nhưng không bị coi là tội phạm ở nước được yêu cầu
(ngoại trừ trường hợp nước được yêu cầu có thể thực hiện tương trợ tư pháp mà khơng địi
hỏi “tính tội phạm kép”).
Sự thực hiện yêu cầu tương trợ tư pháp đòi hỏi phải tiến hành những hoạt động trái
với pháp luật của các nước được yêu cầu.
Bên cạnh đó, Hiệp định ASEAN 2004 cũng quy định một căn cứ tùy nghi mà các
quốc gia ký kết có thể từ chối TTTP về hình sự khi xét thấy việc thực hiện tương trợ sẽ hoặc
chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến sự an tồn của một người, bất kể người đó đang ở trong hay
ngoài lãnh thổ của Quốc gia được yêu cầu.
Một số Hiệp định song phương mà Việt Nam ký kết có hiệu lực trong những năm gần
đây tiếp tục đề cập đến vấn đề bảo vệ quyền con người trong quy định từ chối thực hiện
TTTP về hình sự.
Hiệp định TTTP hình sự được ký kết giữa Việt Nam và Cộng Hịa In-đơ-nê-xia vào
năm 2013, có Hiệu lực năm 2016 quy định yêu cầu tương trợ sẽ bị từ chối nếu:
- Yêu cầu liên quan đến một tội phạm mà người bị buộc tội đã chính thức được tun là
khơng có tội phạm hoặc được ân xá;
- u cầu liên quan đến truy cứu trách nhiệm hình sự một người về một tội phạm mà người

đó đã bị kết án;
- Bên được yêu cầu có căn cứ chắc chắn để tin rằng yêu cầu tương trợ tư pháp được lập với
mục đích truy tố một người vì lý do chủng tộc, tôn giáo, quốc tịch, nguồn gốc dân tộc, quan
điểm chính trị của người đó hoặc vì những lý do này mà người đó có thể bị đối xử không
công bằng trong các thủ tục tố tụng tư pháp;
546


- Yêu cầu liên quan đến việc điều tra, truy tố hay trừng phạt một người về một hành vi mà
hành vi đó, nếu xảy ra ở Bên được yêu cầu, không cấu thành tội phạm theo quy định của
pháp luật Bên được yêu cầu, trừ trường hợp Bên được u cầu vẫn có thể thực hiện tương
trợ mà khơng cần tuân thủ nguyên tắc tội phạm kép nếu được pháp luật nước mình cho phép;
- Yêu cầu liên quan đến việc truy tố một người về một tội phạm mà người đó khơng thể bị
truy tố vì hết thời hiệu nếu tội phạm đó được thực hiện trong phạm vi thẩm quyền của Bên
được yêu cầu.
Hiệp định cũng có quy định tùy nghi về yêu cầu tương trợ có thể bị từ chối khi xét
thấy việc thực hiện tương trợ sẽ, hoặc có thể sẽ gây phương hại đến sự an toàn của bất kỳ
người nào, cho dù người đó đang ở trong hay ngồi lãnh thổ của Bên được yêu cầu. Nội
dung này cũng đã được đề cập đến trong quy định từ chối thực hiện TTTP hình sự của Hiệp
định ký kết giữa Việt Nam và Ô-xtơ-rây-li-a có hiệu lực năm 2017. Đồng thời, Hiệp định
này cũng đã có một điểm mới khi quy định về việc từ chối TTTP hình sự khi “Bên được yêu
cầu cho rằng có căn cứ vững chắc để tin rằng nếu yêu cầu được chấp thuận, có người có thể
bị tra tấn”.
Xem xét một số ĐƯQT mà Việt Nam tham gia ký kết, có thể thấy những vấn đề sau
liên quan đến việc bảo vệ quyền con người của quy định từ chối thực hiện tương trợ tư pháp
về hình sự:
Vấn đề bảo vệ quyền con người khi các quốc gia không thực hiện hồi đáp các yêu cầu
tương trợ tư pháp về hình sự đã được đề cập đến trong ĐƯQT song phương là Hiệp định
TTTP về hình sự giữa các nước ASEAN 2004 mà Việt Nam là một trong các thành viên
tham gia ký kết. Thời điểm này, các Hiệp định về TTTP hình sự song phương mà Việt Nam

tham gia thì vấn đề quyền con người được nhắc đến nhưng chỉ trong một vài giới hạn nhất
định. Các Hiệp định song phương TTTP hình sự mà Việt Nam tham gia ký kết trong những
năm gần đây bắt đầu mở rộng hơn nữa các quy định bảo đảm quyền con người khi từ chối
thức hiện các yêu cầu TTTP hình sự.
Mức độ và cách thức quy định ở trong các ĐƯQT mà Việt Nam tham gia là khác
nhau, nhưng nhìn chung vấn đề bảo vệ quyền con người khi từ chối thực hiện các yêu cầu
tương trợ tư pháp được thể hiện ở các nội dung chủ yếu sau:
547


-

Đối tượng được bảo đảm quyền con người mà các ĐƯQT quan tâm chủ yếu là những

người liên quan trực tiếp đến hoạt động tương trợ tư pháp được bảo đảm một số quyền cơn
bản, quyền không bị xét xử hai lần, quyền và lợi ích hợp pháp nói chung là căn cứ về tính
“tội phạm kép” hay tính “trái pháp luật”.Hầu hết việc quy định đảm bảo quyền con người
cho đối tượng này đều được thể hiện tuyệt đối, là căn cứ buộc phải từ chối tương trợ tư pháp.
Bên cạnh đối tượng này thì những người khơng có sự liên quan trực tiếp đến hoạt động
TTTP hình sự cũng đã bắt đầu được một số Hiệp định quy định bảo vệ, tuy nhiên các Hiệp
định vẫn chưa có giải thích rõ nên quyền con người mà đối tượng này được bảo vệ chỉ có
tính tùy nghi2.
-

Các Hiệp định ký kết song phương giữa Việt Nam và một số nước trong những năm

gần đây đã có sự phát triển đáng ghi nhận. Trước đây, nội dung quyền con người mới bắt
đầu được quan tâm đến thì chỉ có Hiệp định TTTP về hình sự giữa các nước ASEAN 2004
mới có một số quy định đề cập đến. Cịn các ĐƯQT song phương thì lại khơng có sự liệt kê
cụ thể các trường hợp từ chối TTTP và chỉ chú ý đến nội dung đảm bảo chủ quyền, an ninh

quốc gia. Vấn đề bảo vệ quyền con người liên quan đến TTTP hình sự lúc này chủ yếu mang
tính chất giới hạn trong pháp luật của riêng các quốc gia thực hiện điều chỉnh. Các Hiệp định
song phương về TTTP hình sự mà Việt Nam tham gia ký kết, có hiệu lực trong những năm
gần đây như: Hiệp định được ký kết giữa Việt Nam và Tây Ban Nha có hiệu lực năm 2017,
Việt Nam ký với Ơ-xtơ-rây-li-a có hiệu lực năm 2017, Việt Nam ký kết với Mơ-Dăm-Bích
có hiệu lực năm 2018, Việt Nam và Cộng Hịa Pháp có hiệu lực năm 2020, Việt Nam và
Cam-pu-chia có hiệu lực năm 2020 đã có những quy định được liệt kê cụ thể liên quan đến
bảo vệ quyền con người. Điều này thể hiện cho việc các quốc gia trên thế giới ngày càng
nâng cao nhận thức và đánh giá tầm quan trọng của việc ghi nhận bảo vệ quyền con người
trong hoạt động tương trợ tư pháp.
2. Sự cần thiết sửa đổi, bổ sung Luật TTTP 2007 theo hướng mở rộng việc bảo vệ
quyền con người trong quy định về từ chối thực hiện các yêu cầu TTTP hình sự

Nguyễn Thị Phương Hoa, Từ chối thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự và vấn đề bảo đảm quyền con
người, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 06(61)/2010, Tr.59-end.
2

548


Thứ nhất, đây là một nội dung đã được đề cập đến trong một số nghiên cứu trước đây
nhưng nhìn chung vẫn chưa thực sự được quan tâm trong hơn 10 năm qua kể từ khi Luật
TTTP 2007 được ban hành. Kể cả trước thời điểm Luật TTTP 2007 ra đời, Việt Nam đã
tham gia ký kết một số ĐƯQT về TTTP hình sự và các ĐƯQT này dù chưa phổ biến nhưng
cũng đã cung cấp một số quy định liên quan đến việc bảo vệ quyền con người khi từ chối
thực hiện các yêu cầu TTTP hình sự. Điển hình là Hiệp định TTTP hình sự giữa các nước
ASEN năm 2004.
Thứ hai, hoạt động TTTP hình sự được thực hiện dựa trên nguyên tắc phù hợp với Hiến
pháp. Một nội dung mới được nhấn mạnh trong Hiến pháp 2013 của nước CHXHCN Việt
Nam đó chính là bảo vệ quyền con người. Cụ thể, một số quyền cơ bản được quy định:

-

Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật.

-

Khơng ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội.

-

Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức

khoẻ, danh dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm.
-

Không ai bị kết án hai lần vì một tội phạm.
Trên thế giới, vấn đề bảo vệ quyền con người đã được đặt ra từ sớm, được thể hiện

qua những văn bản quy định như Tuyên ngôn nhân quyền thế giới năm 1948, Cơng ước về
các quyền dân sự, chính trị năm 1966.3 Việt Nam là một trong những quốc gia sau một quá
trình xây dựng, phát triển quy định pháp luật trong nước thì ngày càng có sự hưởng ứng một
cách phù hợp với pháp luật quốc tế. Chính vì vậy, việc Luật TTTP 2007 cần có những thay
đổi một cách kịp thời, cụ thể đối với quy định các từ chối thực hiện u cầu TTTP hình sự
khơng nằm ngồi u cầu nỗ lực để góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật và đáp ứng
chiến lược cải cách tư pháp.
Thứ ba, sửa đổi và bổ sung Luật TTTP 2007 theo hướng mở rộng bảo vệ quyền con
người là phù hợp với các ĐƯQT mà Việt Nam đã tham gia hoặc là thành viên. Luật TTTP
2007 được ban hành cùng với Bộ luật TTHS 2015 sửa đổi, bổ sung đã góp phần điều chỉnh
trong một mức độ thống nhất nhất định giữa các văn bản pháp luật trong nước. Theo đó Luật

Nguyễn Thị Phương Hoa, Từ chối thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự và vấn đề bảo đảm quyền con
người, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 06(61)/2010, Tr.59-end.
3

549


TTTP 2007 quy định về 5 căn cứ từ chối thực hiện TTTP hình sự, cụ thể uỷ thác tư pháp về
hình sự của nước ngồi bị từ chối thực hiện nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây:
- Không phù hợp với điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, các quy định của pháp
luật Việt Nam;
- Gây phương hại đến chủ quyền, an ninh quốc gia;
- Liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi phạm tội mà người
đó đã bị kết án, được tun khơng có tội hoặc được đại xá, đặc xá tại Việt Nam;
- Liên quan đến hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam;
- Liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam.
Nguyên tắc bảo vệ chủ quyền, an ninh quốc gia luôn được các quốc gia quan tâm và
giới hạn quy định về từ chối thực hiện yêu cầu TTTP hình sự. Pháp luật Việt Nam cũng đã
thể hiện sự tương thích này với các Hiệp định mà mình đã ký kết. Tuy nhiên q trình cải
cách tư pháp ln đặt ra những u cầu mới và có tính chiến lược để từ các quy định của
pháp luật quốc tế hướng đến việc nội luật hóa một cách phù hợp và kịp thời. Chính vì vậy,
bên cạnh việc đảm bảo chủ quyền, an ninh quốc gia thì việc hướng đến bảo vệ quyền con
người đã dần được chú ý và lan truyền rộng rãi, phổ biến nhiều hơn ở các quốc gia, đồng
thời cũng đã có sự ảnh hưởng đến các hoạt động hợp tác quốc tế về hình sự nói chung và
TTTP nói riêng. So sánh với các quy định về từ chối thực hiện TTTP hình sự trong một số
Hiệp định mà Việt Nam tham gia ký kết, có thể thấy một số điểm chưa phù hợp sau:
Về cách thức quy định, Luật TTTP 2007 quy định việc từ chối thực hiện yêu cầu
TTTP hình sự chỉ giới hạn trong 05 trường hợp và tất cả đều là quy định mang tính chất

tuyệt đối. Trong khi đó, hầu hết các ĐƯQT về TTTP hình sự mà Việt Nam tham gia ký kết
đều phân chia thành hai nhóm cụ thể. Theo đó nội dung bảo vệ quyền con người tùy theo
mức độ nhất định thì các Hiệp định TTTP hình sự có thể quy định là tuyệt đối hay tùy nghi.
Về nội dung bảo vệ quyền con người khi từ chối TTTP về hình sự, Luật TTTP 2007
có quy định ở 03 căn cứ:
- Liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự một người về hành vi phạm tội mà người
đó đã bị kết án, được tun khơng có tội hoặc được đại xá, đặc xá tại Việt Nam;
550


- Liên quan đến hành vi phạm tội đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy
định của Bộ luật hình sự Việt Nam;
- Liên quan đến hành vi vi phạm pháp luật nhưng không cấu thành tội phạm theo quy định
của Bộ luật hình sự Việt Nam.
Có thể thấy rằng Luật TTTP 2007 vẫn chưa đề cập đến những quyền cơ bản của con
người mà nhiều Hiệp định TTTP hình sự được ký kết có hiệu lực trong những năm gần đây
ngày càng hết sức quan tâm và đưa vào làm căn cứ để từ chối thực hiện TTTP hình sự.
3. Kiến nghị về việc mở rộng căn cứ từ chối tương trợ tư pháp về hình sự của Luật
TTTP 2007 để bảo vệ tốt hơn quyền con người
Từ những phân tích ở trên, nhằm đảm bảo sự phù hợp với Hiến pháp và sự thống nhất
với các ĐƯQT mà Việt Nam tham gia hoặc là thành viên thì việc bảo đảm quyền con người
là vấn đề mà pháp luật về TTTP hình sự cần có sự chú trọng. Tác giả có một số kiến nghị
sau về việc mở rộng căn cứ từ chối tương trợ tư pháp hình sự trong Luật TTTP 2007 để bảo
vệ tốt hơn quyền con người:
Một là, Luật TTTP 2007 nên có những quy định rõ ràng về các trường hợp bị từ chối
tương trợ và các trường hợp có thể từ chối tương trợ. Điều này sẽ khiến cho các quy định
của pháp luật Việt Nam có sự mềm mại hơn. Đặc biệt, với vấn đề bảo vệ quyền con người
thì việc lựa chọn những quyền nào thuộc các trường hợp từ chối TTTP là quy định tuyệt đối
và những quyền nào thuộc trường hợp từ chối TTTP là quy định tùy nghi cũng sẽ giúp cho
Luật TTTP 2007 có sự thay đổi từ từ phù hợp với chính những đặc thù của Việt Nam. Bởi lẽ

không phải quốc gia nào trên thế giới cũng có sự tương đồng về nhận thức, giá trị kinh tế
hay văn hóa-xã hội,…
Hai là, Luật TTTP 2007 cần bổ sung quy định nhằm bảo đảm quyền con người khi từ
chối TTTP về hình sự như:
-

Trường hợp xét thấy viêc tương trợ tư pháp hình sự nhằm mục đích điều tra, truy tố,

trừng phạt hay gây khó khăn cho một người vì lý do chủng tộc, tơn giáo, giới tính, nguồn
gốc dân tộc, quốc tịch hay chính kiến của họ.

551


-

Trường hợp xét thấy việc tương trợ tư pháp có thể dẫn đến việc người liên quan đến

hoạt động tương trợ bị tra tấn, hoặc phải chịu sự đối xử hoặc hình phạt tàn ác, vơ nhân đạo,
làm hạ thấp phẩm giá con người.
Ba là, bên cạnh đối tượng được quan tâm là những người có liên quan trực tiếp đến
hoạt động tương trợ tư pháp, Luật TTTP 2007 có thể xem xét để bổ sung thêm quy định thực
hiện bảo vệ quyền con người cho những đối tượng khác, không trực tiếp liên quan đến hoạt
động TTTP trong trường hợp xét thấy việc thực hiện tương trợ sẽ hoặc chắc chắn sẽ ảnh
hưởng đến sự an toàn của một người, bất kể người đó đang ở trong hay ngồi lãnh thổ của
Quốc gia được yêu cầu.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và các
nước ASEAN, ngày 29 tháng 11 năm 2004.
2. Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự giữa Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và

Cộng hịa In-đơ-nê-xi-a, ngày 27 tháng 6 năm 2013.
3. Hiệp định tương trợ tư pháp hình sự giữa Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Ốtxtơ-rây-li-a, ngày 02 tháng 7 năm 2014.
4. Nguyễn Thị Phương Hoa, Từ chối thực hiện tương trợ tư pháp về hình sự và vấn đề
bảo đảm quyền con người, Tạp chí Khoa học pháp lý Việt Nam, 06(61)/2010, Tr.59-end.
5. Thiếu tá, Thạc sỹ Vũ Văn Hùng, Một số nhận thức về các trường hợp từ chối tương
trợ tư pháp về hình sự, Tạp chí Khoa học và Gi dục an ninh, 42/2015, Tr.57-62.
6. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2013), Hiến pháp nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
7. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2003), Bộ Luật Tố tụng hình sự,
Hà Nội.
8. Quốc hội nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2015), Bộ Luật Tố tụng hình sự,
Hà Nội.
9. Quốc hội nước cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (2007), Luật Tương trợ Tư pháp,
Hà Nội.

552



×