Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

Tiểu luận Triết-Quy luật phủ định của phủ định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (88.86 KB, 20 trang )

Chủ đề : “Quy luật phủ định của phủ định và sự vận dụng quy luật này
vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà
bản sắc dân tộc”
PHẦN I – MỞ ĐẦU
Trải qua hơn 55 năm trên chặng đường phát triển văn hóa, từ văn kiện đầu
tiên “Đề cương văn hoá năm 1943”, Đảng và nhà nước ta đã tích luỹ kinh
nghiệm thực tiễn và lý luận để lại dấu ấn lịch sử, dấu ấn thời đại về tư duy văn
hố.
Khơng phải ngẫu nhiên mà trong Văn kiện Hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp
hành TW khoá VII Đảng ta đã xác định văn hố khơng chỉ là kết quả mà cịn là
ngun nhân của q trình cơng nghiệp hố, hiện đại hoá đất nước. Phát triển
quan điểm trên, Hội nghị lần thứ 10 Ban chấp hành TW Đảng khoá IX tiếp tục
xác định mục tiêu cần phải đạt tới là tạo được sự phát triển đồng bộ về chất
lượng văn hoá “Đảm bảo sự gắn kết giữa nhiệm vụ phát triển kinh tế là trung
tâm, xây dựng, chỉnh đốn Đảng là then chốt với khơng ngừng nâng cao văn hố
- nền tảng tinh thần của xã hội; tạo nên sự phát triển đồng bộ của ba lĩnh vực
trên chính là điều kiện quyết định đảm bảo cho sự phát triển toàn diện và bền
vững của đất nước” (Văn kiện Hội nghị TW 10 khố IX). Nghị quyết Đại hội
Đảng tồn quốc lần thứ X tháng 4 năm 2006 đã tiếp tục khẳng định: “...Xây
dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, đáp ứng yêu cầu
phát triển của xã hội và con người trong điều kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Qua gần 20 năm với đường lối đúng đắn của Đảng, cùng với công cuộc đổi
mới và chủ động hội nhập quốc tế, chúng ta từng bước vững chắc đạt được
những thành tựu rất đáng tự hào như: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa đang từng bước được xây dựng; nền dân chủ XHCN với nhà nước
pháp quyền của dân, do dân, vì dân đã được thiết định. Bên cạnh việc hội nhập
1


kinh tế, tiến trình hội nhập văn hóa cũng là một tất yếu khách quan. Tiến trình


giữa hội nhập kinh tế và hội nhập văn, nếu coi nhẹ hội nhập kinh tế thì đất nước
sẽ chậm thốt nghèo. Cịn coi nhẹ hội nhập văn hóa đơi khi lại nguy hiểm hơn
bởi có thể bị các nền văn hóa khác đồng hóa. Vì vậy bên cạnh chiến lược phát
triển kinh tế, chúng ta cần có chiến lược phát triển nền văn hóa đậm đà bản sắc
dân tộc phù hợp với phát triển kinh tế. Tất nhiên đậm đà bản sắc dân tộc khơng
thể đóng cửa nền văn hóa, mà chủ động chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân
loại để làm phong phú, giàu có thêm, hiện đại hơn nền văn hóa của dân tộc của
đất nước mình.
Văn hóa vốn bao giờ cũng là nền tảng quyết định của xã hội, một văn hóa
cho sự phát triển mạnh mẽ, sâu sắc tồn diện nhất tồn cầu hóa và hơi nhập,
tồn cầu hóa như một tất yếu. Có thể khẳng định: Văn hóa là cốt hồn của dân
tộc, một dân tộc, nếu khơng giữ được bản sắc văn hóa riêng thì dân tộc đó sẽ bị
lu mờ thậm chí khơng cịn dân tộc đó nữa. Vì thế, xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc khơng chỉ là trách nhiệm của
ngành văn hố mà cịn là trách nhiệm của tồn đảng, tồn dân và tồn xã hội.
Tơi quan tâm và chọn đề tài: “Quy luật phủ định của phủ định và sự vận
dụng quy luật này vào việc xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” để làm đề tài cho tiểu luận này.

2


PHẦN II: NỘI DUNG
Chương 1: Những vấn đề chung về quy luật của phủ định vào việc xây
dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
1. Khái niệm phủ định biện chứng.
Theo nghĩa thông thường, phủ định được hiểu là sự không thừa nhận, bác
bỏ hay sự thay thế một sự vật, hiện tượng nào đó. Trong Triết học có hai quan
điểm: quan điểm siêu hình và quan điểm biện chứng về sự phủ định.
Quan điểm siêu hình hiểu sự phủ định là sự can thiệp của những lực lượng

bên ngoài dẫn tới thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó. Quan điểm biện
chứng cho rằng phủ định là khâu tất yếu của bất kỳ sự phát triển nào. Đó là sự
thay thế sự vật này bằng sự vật khác trên cơ sở mất đi của cái cũ và xuất hiện
cái mới tiến bộ hơn, là quá trình giải quyết mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật
bị phủ định.
Vì vậy, phủ định biện chứng là quá trình tự thân phủ định, tự thân phát
triển dẫn tới sự ra đời của cái mới tiến bộ hơn so với cái bị phủ định (kết quả
của quá trình đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật ấy quyết định).
2.Nội dung quy luật:
Quy luật phủ định của phủ định là một trong 3 quy luật cơ bản của phép
biện chứng duy vật. Quy luật này khái quát khuynh hướng phát triển tiến lên
theo hình thức xốy ốc thể hiện tính chất chu kỳ trong q trình phát triển.
Đó là cơ sở phương pháp luận của nguyên tắc phủ định biện chứng, chỉ đạo
mọi phương pháp suy nghĩ và hành động của con người. Phủ định biện chứng
đòi hỏi phải tơn trọng tính kế thừa, nhưng kế thừa phải có chọn lọc, cải tạo, phê
phán, chống kế thừa nguyên xi, máy móc và phủ định sạch trơn, chủ nghĩa hư
3


vô với quá khứ. Nguyên tắc phủ định biện chứng trang bị phương pháp khoa
học để tiếp cận lịch sử và tiên đốn, dự kiến những hình thái cơ bản của tương
lai.
Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do
mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu
tranh và chuyển hóa giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật - giữa mặt khẳng
định và phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất diễn ra là do sự vật cũ chuyển thành
cái đối lập với mình. Sự phủ định lần thứ hai được thực hiện dẫn tới sự vật mới
ra đời. Sự vật này đối lập với cái được sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nó được
bổ sung nhiều nhân tố mới. Như vậy sau hai lần phủ định sự vật dường như
quay trở lại cái cũ, nhưng trên cơ sở mới cao hơn là đặc điểm quan trọng nhất

của sự phát triển biện chứng thông qua phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện sự vật mới là kết quả của sự tổng hợp
tất cả nhân tố tích cực đã có và đã phát triển trong cái khẳng định ban đầu và
trong những lần phủ định tiếp theo. Do vậy, sự vật mới với tư cách là kết quả
của phủ định của phủ định có nội dung tồn diện hơn, phong phú hơn, có cái
khẳng định ban đầu và kết quả của sự phủ định lần thứ nhất.
Kết quả của sự phủ định của phủ định là điểm kết thúc của một chu kỳ phát
triển và cũng là điểm khởi đầu của chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự vật lại tiếp tục
phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ như vậy sự vật mới ngày
càng mới hơn.
Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hướng tất yếu tiến lên của sự
vật - xu hướng phát triển. Song phát triển đó khơng theo hướng thẳng mà theo
đường "xoáy ốc". Sự phát triển "xoáy ốc" là sự biểu thị rõ ràng, đầy đủ các đặc
trưng của quá trình phát triển biện chứng của sự vật: tính kế thừa, tính lặp lại,
tính tiến lên. Mỗi vịng của đường xốy ốc dường như thể hiện sự lặp lại, nhưng
4


cao hơn, thể hiện trình độ cao hơn của sự phát triển. Tính vơ tận của sự phát
triển từ thấp đến cao được thể hiện ở sự nối tiếp nhau từ dưới lên của các vịng
trong đường "xốy ốc".
Trong q trình vận động của sự vật, những yếu tố mới xuất hiện sẽ thay
thế những nhân tố cũ, trong đó những nhân tố tích cực của sự vật cũ được giữ
lại. Song sự vật mới này sẽ lại bị phủ định bởi sự vật mới khác. Sự vật mới
khác ấy dường như là sự vật đã tồn tại, song không phải là sự trùng lặp hồn
tồn, mà nó được bổ sung những nhân tố mới và chỉ bảo tồn những nhân tố tích
cực thích hợp với sự phát triển tiếp tục của nó. Sau khi sự phủ định 2 lần của
phủ định được thực hiện thì sự vật mới hồn thành một chu kỳ phát triển.
3. Ý nghĩa:
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu

hướng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kì một sự vật nào cũng
khơng bao giờ đi theo một đường thẳng, nó gồm có nhiều chu kỳ khác nhau.
Chu kỳ sao bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ trước. Do đó, chúng ta phải hiểu
những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp với yêu cầu phát triển.
Theo đó, mọi sự vật luôn xuất hiện cái mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay
thế cái lạc hậu, cái mới ra đời trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực
của cái cũ. Do đó, trong hoạt động của mình, con người phải biết kế thừa tinh
hoa của cái cũ, tránh thái độ phủ định sạch trơn.
Trong giới tự nhiên cái mới phát triển một cách tự phát, còn trong xã hội
cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con người. Chính vì thế
trong hoạt động của chính mình con người phải biết phát hiện cái mới và ủng
hộ nó.

Chương 2: Vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây
dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
5


2.1. Những thành tựu và hạn chế trong quá trình hội nhập văn hóa và
thế giới.
Tồn cầu hóa là một xu thế không thể cưỡng lại đối với tất cả các quốc gia.
Chủ động để hội nhập là một thái độ tích cực, khơn ngoan, là khẳng định đường
hướng có chiến lược, có chiến thuật, có kế hoạch cho từng bước đi. Chủ động
hội nhập sẽ khai thác được nhiều nhất những thuận lợi, những cơ hội để dân tộc
có nhiều lợi ích nhất, hạn chế được đến mức thấp nhất những thách thức, những
tiêu cực nảy sinh.
Công cuộc đổi mới của đất nước ta hai mươi năm qua chính là sự chủ động
hội nhập quốc tế, từng bước vững chắc đạt được những thành tựu rất đáng tự
hào. Về kinh tế, Việt Nam là một trong những nền kinh tế có tốc độ phát triển
khá cao (từ 7,5 - 8% năm), cơ cấu kinh tế được chuyển địch theo hướng tích cực

phát triển cơng nghiệp và dịch vụ, tốc độ hiện đại hóa cơ sở hạ tầng, khoa học
cơng nghệ với những bước đi dài... tất cả đã tạo điều kiện chín muồi để Việt
Nam vững bước trên tiến trình hịa nhập Thương mại Quốc tế WTO.
Chiến lược là vậy, nhưng 20 năm hội nhập văn hóa thế giới quả là cuộc đấu
tranh quyết liệt. Đánh giá về thành tựu hội nhập văn hóa có nhiều ý kiến khác
nhau, không được đồng thuận như khi chúng ta đánh giá về thành tựu đổi mới
kinh tế. Điều này chứng tỏ q trình hội nhập văn hóa của chúng ta cịn có
những vấn đề non yếu. Khơng ai phủ nhận sau 20 năm đổi mới, đời sống văn
hóa tinh thần của nhân dân ta được nâng cao, được mở rộng, phong phú đa dạng
và giàu có hơn nhiều. Nhưng cũng phải thừa nhận rằng, bên cạnh những mặt tốt
đó, thì nhiều mặt tiêu cực của đời sống xã hội cũng nảy sinh. Đạo đức xã hội
xuống cấp nghiêm trọng, đời sống văn hóa bị lai căng, nhiều chuẩn mực xã hội
khơng cịn được tơn trọng, một số mặt xấu được duy trì cơng khai khơng có
người lên tiếng, nhiều tệ nạn không ngăn chặn được.

6


Riêng về lĩnh vực văn học nghệ thuật, 20 năm hội nhập thì văn chương
nghệ thuật thế giới ồ ạt tràn vào nước ta, cả những tác phẩm hay và những tác
phẩm dở. Văn hóa bạo lực, tình dục ngang nhiên thách thức những thuần phong
mỹ tục, những món hàng ăn liền rẻ tiền tấn công những giá trị sâu sắc, thâm
nghiêm... Những tính chất văn chương nghệ thuật ngoại lai đó đơi khi cịn có
sức mạnh chiếm lĩnh hắn được một bộ phận làm nhiệm vụ sáng tạo, biểu diễn
và một bộ phận công chúng nhất là khá đông đảo giới trẻ hoan hô môt cách vô
tội vạ, "đồng thanh tương ứng đồng khí tương cầu” khá rầm rộ.
Hội nhập thế giới, nghĩa là ra với đại dương với nhiều sóng to gió lớn. Ở
lĩnh vực nào cũng cần phải có người cầm lái có bản lĩnh và có tầm nhìn xa trơng
rộng. Trên thế giới đã có nhiều bài học về sự phát triển hài hòa giữa kinh tế và
văn hóa hóa. Những bài học nào cũng chỉ có những giá trị nhất định chứ khơng

thể là chìa khỏa vạn năng. Chiến lược xây dựng nền văn hóa Việt Nam phong
phú, đậm đà bản sắc dân tộc là hoàn toàn đúng đắn, nhưng triển khai xây dựng
quản lý văn hóa tồn xã hội là vơ cùng khó khăn phức tạp, là thách thức lớn cần
có sức mạnh của nhiều cấp nhiều ngành mới có thể làm được. Với quyết tâm
cao thì cuối cùng căn bệnh nào cũng tìm ra được thuốc đặc trị, cũng tìm được
giải pháp giải quyết đúng đắn.
Nền văn hóa Việt Nam trong hơn 4000 năm lịch sử tồn tại và phát triển đã
thể hiện sức sống mãnh liệt. Âm mưu đồng hóa của những nền văn hóa lớn hết
đợt sóng này đến đợt sóng khác trong những khoảng thời gian dài cũng khơng
xóa được bản lĩnh văn hóa Việt Nam. Có thể nói nền văn hóa Việt Nam đã được
tơi luyện và có sức đề kháng cao. Điều này cho chúng ta tin tưởng vào chặng
đường phát triển sắp tới của nền văn hóa dân tộc. Một vấn đề lớn và quan trọng
đặt ra là: Nền văn hoá tiên tiến, hiện đại do hội nhập quốc tế hình thành có mâu
thuẫn, có thủ tiêu nền văn hoá truyền thống và làm mất đi bản sắc dân tộc của
văn hoá truyền thống?
7


Phép biện chứng duy vật và thực tiễn xã hội cho thấy, đời sống tinh thần có
cuộc sống độc lập của nó so với nền tảng vật chất xã hội. Văn hoá, một khi ra
đời, dù là xuất phát từ tồn tại kinh tế, từ đời sống vật chất, nó trở thành thực thể
độc lập tương đối với cơ sở kinh tế - xã hội. Thực tế đã chứng minh, những hệ
tư tưởng, chính trị, văn hố đã đóng vai trò điều chỉnh và qui định chiều hướng
vận động của xã hội. Ngày nay, loài người càng nhận rõ rằng, văn hố khơng
chỉ là cái phái sinh của điều kiện kinh tế - xã hội, mà còn là động lực nội sinh
của sự phát triển đó.
Văn hố Việt Nam với bản sắc của mình, qua bao lần tiếp biến vẫn khơng
bị sai lạc, phai mờ, thậm chí qua bao lần đất nước bị xâm lăng, dân tộc bị thơn
tính, nhưng bản sắc đó khơng bao giờ mất, khơng những thế nó ngày càng được
khẳng định và phát triển. Mỗi lần tiếp biến, văn hoá Việt Nam với bản lĩnh và

sức sống của mình, lấy bản sắc dân tộc làm tiêu chí, nó gạn lọc, tiếp thu những
tinh hoa tốt đẹp của các nền văn hoá khác trên khắp thế giới, làm giàu có và
đậm đà thêm, phong phú thêm cho bản sắc của mình.
Nói như vậy khơng có nghĩa hội nhập văn hóa chỉ có đem lại những thuận
lợi, tạo ra tất cả những yếu tố tích cực cho và giữ gìn bản sắc văn hố Việt Nam.
Chúng ta dể dàng nhận thấy: “Tồn cầu hố và hội nhập” một mặt làm
nâng cao chất lượng sống, mặt khác cũng hình thành nên những chuẩn mực mới
lạ trong đời sống tinh thần, có thể dẫn đến "sự va chạm" giữa lối sống, lối tư
duy hiện đại với lối sống và tư duy truyền thống: Lối sống và cách tư duy hoà
với thiên nhiên, tình cảm cộng đồng tình làng nghĩa xóm dường như "mặc cảm"
với lối sống đơ thị và tốn tính kinh tế có tính cá nhân, nếp sống thanh bình dễ
"dị ứng” với nhịp độ gấp gáp của tác phong cơng nghiệp, ứng xử tình cảm
nghiêng về đạo đức thường tương phản với văn hố trí tuệ và nền pháp lý chặt
chẽ, lối sống tiêu xài không mấy phù hợp với truyền thống thanh đạm của con
người Việt Nam…
8


Hội nhập quốc tế không chỉ là nhập công nghệ mà là hoạt động toàn diện
khoa học kỹ thuật, kinh nghiệm sản xuất - quản lý kinh tế - xã hội. Sự hội nhập
sẽ làm tăng nhanh nhiều loại sản phẩm văn hố, trong đó, bên cạnh các yếu tố
tốt đẹp, có cả những yếu tố khơng phù hợp với văn hố truyền thống, thậm chí
độc hại nữa.
Chúng ta chủ động lựa chọn chính sách trong tiếp biến của cơng nghiệp
hoá - hiện đại hoá. Những thế mạnh trong đối sách đó là tương đối bởi trình độ
kinh tế - xã hội nước ta rất thấp so với các nước đầu tư vào ta. Trong biết bao
loại đầu tư, ở đó đồng thời cũng kèm theo những dạng văn hố nhất định. Cái ta
cần, nói chung là vượt hẳn cái ta có khả năng cho. Trong một xã hội nghèo, sự
thâm nhập ồ ạt từ bên ngoài làm đảo lộn nhiều thói quen, nếp sống, kể cả suy
nghĩ của nhân dân ta trên một bình diện rộng hơn bao giờ hết.

Vài năm gần đây, không chỉ ở thành thị mà cả ở nông thôn, điều kiện sống,
tiện nghi sinh hoạt, lối sống đã có sự thay đổi lớn, sự thay đổi đó diễn ra khơng
chỉ ở bề ngồi mà cả ở chiều sâu. Sự khủng hoảng một số mặt trong nhiều
phương diện đời sống đang hình thành liên quan đến từng gia đình. Trước đây
một số người đi tìm sự thoả mãn lối sống của họ ở nước ngồi, thì nay lối sống
đó đã nảy nở tại Việt Nam, trên một số lĩnh vực lối sống đó đã khống chế lối
sống truyền thống Việt Nam, nhiều cách sinh hoạt, cách sống, cách nghĩ... thực
sự đã xung đột với những chuẩn mực mà nhân dân ta cho là lành mạnh. Nhiều
hiện tượng trước đây hồn tồn xa lạ thì nay ở khơng ít người được xem như là
chuyện bình thường: bạo lực, xem tiền là tối thượng, xem hưởng thụ vật chất là
mục đích của cuộc đời... Đồng minh của lối sống buông thả là luận điệu tự do,
dân chủ không ranh giới. Tất cả những cái đó nếu khơng kịp thời ngăn chặn, đến
một lúc, an ninh quốc gia, thậm chí độc lập dân tộc sẽ là cái bia bắn phá, lối
sống dân tộc, văn hoá dân tộc sẽ bị coi là lạc hậu, lạc lõng.

9


2.2. Sự vận dụng quy luật phủ định của phủ định vào việc xây dựng và
phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tôc.
Hiện nay, vấn đề bản sắc văn hóa dân tộc và những biến thể của nó đang là
một trong những vấn đề được đặc biệt quan tâm ở Việt Nam. Nỗi ám ảnh về bản
sắc hiện diện ở khắp nơi, từ những diễn ngơn chính trị như "xây dựng nền văn
hóa tiên tiến, hiện đại, đậm đà bản sắc dân tộc", "hội nhập nhưng khơng hịa
tan" cho đến các hoạt động kinh tế, văn hóa xã hội như xây dựng thương hiệu
Việt, tự kiểm điểm tính cách dân tộc hay phê bình văn học nghệ thuật. Khơng
thể phủ định, đây là một định hướng đúng đắn, một mối quan tâm lành mạnh
của toàn xã hội khi Việt Nam ngày càng tham gia một cách tồn diện hơn vào
q trình tồn cầu hóa nhưng tự bản thân những khát vọng bảo tồn, phát huy
bản sắc dân tộc cũng đặt ra những câu hỏi hóc búa đối với tồn xã hội, trước hết

là trong việc xác định bản sắc văn hóa dân tộc và sau đó là việc ứng xử với bản
sắc văn hóa đó.
«Bản» là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân của một sự vật; «Sắc» là
thể hiện ra ngồi. Nói bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam tức là nói những
giá trị gốc, căn bản, cốt lõi, những giá trị hạt nhân của dân tộc Việt Nam. Nói
những hạt nhân giá trị hạt nhân tức là khơng phải nói tất cả mọi giá trị, mà chỉ là
nói những giá trị tiêu biểu nhất, bản chất nhất, chúng mang tính dân tộc sâu sắc
đến nỗi chúng biểu hiện trong mọi lĩnh vực như: văn học nghệ thuật, sân khấu,
hội họa, điêu khắc, kiến trúc, trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hằng ngày của
người Việt Nam.
Những giá trị hạt nhân đó khơng phải tự nhiên mà có, nó được tạo thành dần
dần và được khẳng định trong quá trình lịch sử xây dựng, củng cố và phát triển
của nhà nước Việt Nam. Những giá trị đó khơng phải là khơng thay đổi trong
q trình lịch sử. Có những giá trị cũ, lỗi thời bị xóa bỏ, và có những giá trị
mới, tiến bộ được bổ sung vào. Có những giá trị tiếp tục phát huy tác dụng, dưới
10


những hình thức mới. Dân tộc Việt Nam, với tư cách là chủ thể sáng tạo, thường
xuyên kiểm nghiệm những giá tri hạt nhân đó, quyết định những thay đổi và bổ
sung cần thiết, tái tạo những giá trị đó từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Khơng nên có tư tưởng tĩnh và siêu hình đối với những giá trị hạt nhân đó,
thậm chí đối với những giá trị mà chúng ta vốn cho là thiêng liêng nhất. Nếu
dân tộc khơng có ý thức giữ gìn, bồi dưỡng, tái tạo để trao truyền từ thế hệ này
sang thế hệ khác thì chúng cũng bị mai một và tàn lụi đi theo năm tháng.
Chúng ta thử so sánh bản sắc chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong những
người cuộc Cách mạng Tháng tám sôi sục, trong cuộc kháng chiến chống Pháp,
Nhật, Mỹ với cái gọi là "Bản sắc" chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong những
năm tháng cuối đời nhà Nguyễn thì thấy rõ. Hay là đối với chủ nghĩa yêu nước
Việt Nam thời kỳ Lê Mạt với chủ nghĩa u nước Việt Nam thời Lý -Trần.

Khơng thể nói, đấy là cùng một bản sắc chủ nghĩa yêu nước được!
Có người hỏi có thể có những giá trị bản sắc là tiêu cực, hay là đã nói bản
sắc là nói cái gì tiến bộ, tích cực, xứng đáng được trao truyền và thừa kế.
Như trên vừa nói, khơng nên có cái nhìn tĩnh tại và siêu hình đối với bản sắc
dân tộc. Cái gì sống đều thay đổi và phải thay đổi. Bản sắc dân tộc cũng vậy.
Giai cấp lãnh đạo phải sáng suốt và chủ động đối với quá trình diễn biến của
bản sắc dân tộc. Những giá trị nào lỗi thời phải xóa bỏ, những giá trị mới nào
cần bổ sung thêm vào, những giá trị nào cần kế thừa, nhưng dưới một hình thức
mới, và hình thức mới đó thêm ra sao? Trong những bước chuyển cách mạng,
những sự kiện đổi đời của dân tộc ta như cuộc cách mạng Tháng tám, chiến
thắng của Ngô Quyền kết thúc đêm dài mười thế kỷ Bắc thuộc, sự kiện Tây
Sơn..., bộ phận lãnh đạo của dân tộc thời bấy giờ phải nghiêm túc kiểm nghiệm
lại những giá trị bản sắc đương thời của dân tộc. Khơng phải khơng có lý do mà
sau 10 thế kỷ Bắc thuộc, bộ phận lãnh đạo của dân tộc thời bấy giờ đã gạt bỏ
11


Nho giáo và chấp nhận tư tưởng Phật giáo. Cũng với những lý do xác đáng, dân
tộc ta kinh qua cuộc cách Mạng tháng tám đã chấp nhận hệ tư tưởng Mác-Lênin
như là dòng tư tưởng chủ lưu hiện nay của mình.
Những cuộc kiểm nghiệm như thế cũng cần được tiến hành khi xảy ra giao
tiếp văn hóa rộng rãi giữa các nền văn hóa khác nhau, ví dụ giữa văn hóa Việt
Nam và văn hóa Xơ Viết, văn hóa Việt Nam và văn hóa Ấn Độ, Trung Hoa, văn
hóa Việt Nam và văn hóa Âu, Mỹ... khơng có biên giới. Thời đại hiện nay là
thời đại của kỹ thuật giao thông liên lạc và thông tin cực kỳ phát triển. Trái đất
như bị thu nhỏ lại hàng mấy trăm lần, so với chục năm về trước. Do đó sự tiếp
xúc văn hóa giữa các dân tộc sống cách xa nhau là tất nhiên và tất yếu. Qua
những cuộc tiếp xúc đó, bản sắc văn hóa của các dân tộc đều có sự thay đổi, bên
cạnh những cái khẳng định. Thật là vô lý nếu chúng ta gạt bỏ mọi yếu tố tiến bộ
và cái hay, đẹp của văn hóa nước khác chỉ vì chúng ta sợ bị ngoại lai. Nhưng

cũng sẽ là vô lý hơn, nếu chúng ta tiếp thu hàng loạt khơng có phê phán mọi yếu
tố của văn hóa nước ngồi, chỉ vì chúng là mới lạ, tân kỳ.
Những yếu tố tiến bộ của văn hóa nước ngoài, một khi đã được dân tộc ta
chấp nhận và biến thành sở hữu của mình rồi, thì chúng có thể trở thành một bộ
phận của giá trị bản sắc văn hóa Việt Nam, của dân tộc Việt Nam. Khơng ai có
thể phủ nhận rằng, nhiều yếu tố Phật giáo, Nho giáo, mặc dù bắt nguồn từ nước
ngoài, nhưng đã trở thành bộ phận khăng khít của bản sắc dân tộc và văn hóa
Việt Nam, đã được dân tộc Việt Nam biến thành sở hữu thật sự của mình.
Nói tóm lại, cái lỗi thời nhưng không được cải tiến, cái tốt nhưng lại bị
cường điệu, cái tốt ngoại lai nhưng khơng được bản địa hóa nhuần nhuyễn đều
có thể biến thành tiêu cực và tạo trở ngại cho sự phát triển bình thường của nền
văn hóa dân tộc. Vì vậy, mà chúng tôi khẳng định, những giá trị bản sắc của dân
tộc Việt Nam, của nền văn hóa Việt Nam cần phải được bộ phận lãnh đạo của
dân tộc thường xuyên kiểm nghiệm, theo dõi, gìn giữ, cải tiến, bổ sung, gạt bỏ
12


những cái lỗi thời, đổi mới những hình thức khơng cịn thích hợp, tiếp thu và
bản địa hóa mọi tinh hoa của văn hóa nước ngồi... khiến cho những giá trị gọi
là bản sắc văn hóa của dân tộc ta phát huy tới mức cao nhất của hai tác dụng
xúc tác và hội tụ, đối với sự phát triển toàn diện và mọi mặt của dân tộc Việt
Nam chúng ta. Tác dụng xúc tác là tác dụng thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển.
Tác dụng hội tụ là tác dụng gắn bó, kết hợp với mặt, các yếu tố thành một hệ
thống nhất.
2.3. Thành quả của việc vận dụng vào xây dựng và phát triển nền văn
hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
Đối với nước ta những năm vừa qua, trong quá trình mở cửa giao lưu với
thế giới, chúng ta không chỉ tiếp thu những giá trị hiện đại, tiên tiến mà còn bổ
sung, điều chỉnh một số nét của các giá trị truyền thống cho phù hợp với thời
đại, thẩm thấu và làm đa dạng thêm bản sắc của dân tộc. Chúng ta ngày càng ý

thức rõ hơn về quá trình hội nhập. Trong quá trình thực tiễn phát triển đất nước,
chúng đã được những thành quả trong việc xây dựng và phát huy bản sắc văn
hóa đó là:
Q trình hội nhập văn hóa đã làm cho các quốc gia đang ngày càng xích lại
gần nhau hơn bởi những giá trị truyền thống chung, đồng thời tạo điều kiện cho
mỗi dân tộc phát huy nét độc đáo, đặc trưng của mình. Quá trình này cũng sẽ
tạo điều kiện cho thế giới luôn tồn tại trong sự thống nhất chung của tất cả
những cái riêng, cái đặc thù; cái chung không bài trừ cái riêng mà cùng với cái
riêng làm tiền đề cho nhau để cùng thúc đẩy nhau phát triển và tiến bộ.
Vận dụng quy luật phủ định của phủ định, ta không thể bảo vệ thụ động
bản sắc mà chỉ hòa nhập cọ sát và biến đổi bản sắc mới xuất hiện và chói sáng.
Từ Truyện Kiều, thơ Nơm hay tranh khắc gỗ dân gian, tuồng chèo, nhã nhạc
Cung Đình Huế, Quan Họ hay Ca trù... chứa đựng bản sắc dân tộc vì từng là sự
13


giao thoa, cọ sát, khai thác lẫn nhau của các dịng văn nghệ, văn hóa khác nhau.
Gần đây thì chiếc áo dài, cái nón tới tranh sơn mài, lụa, sơn dầu từ thời Đông
Dương tới Đổi Mới, Thơ Mới, tiểu thuyết, kiến trúc "Đông Dương", cải lương...
đều là những suối nguồn, và "kho chứa" của bản sắc dân tộc. Nó trừu tượng
song không chung chung mà nằm ở các tác phẩm cụ thể của các tác giả cụ thể.
Nếu có những nghiên cứu nhận dạng được những nét chung nào đó của các tác
phẩm, tác giả đó thì ta có thể gọi tên "bản sắc dân tộc" ta.
Giữ gìn bản sắc khơng co vào cố thủ trong tính riêng biệt , khước từ giao
lưu văn hoá. Trên thế giới này khơng có một nền văn hố nào có tính thuần nhất
bản địa. Sự thay đổi giữa các nền văn hoá là do trao đổi. Khi trao đổi ngừng thì
cả hai địa bàn đều chững lại trong phát triển. Đây là phép biện chứng của nhân
tố ngoại sinh trong sự phát triển nội sinh. Tuy nhiên sự hội nhập các giá trị văn
hóa khác với sự tha hóa về văn hóa cũng như sự lai giống tốt khác với lai ghép
vào cơ thể những gien lạ hoắc, gây nên sự biến dị , thậm chí những qi thai.

Chẳng nói gì xa. Nửa đầu thế kỷ XX, văn hoá và lối sống Pháp, theo đó là
Âu châu, xâm nhập vào ta nhanh và mạnh, tưởng như ngự trị, trong khi văn hoá
dân tộc có dấu hiệu suy yếu. Thế mà những năm 20 - 30 và đầu 40, dưới sự tác
động của làn sóng ấy và cùng với vốn liếng văn hố giàu bản sắc có sẵn, đã nảy
nở cả một nền văn học - nghệ thuật Việt Nam mới hầu như chỉ tầng lớp tiểu tư
sản mới hình thành tạo ra, với văn xuôi và thi ca, âm nhạc, hội hoạ, sân khấu,
phê bình văn học… cịn âm vang đến tận ngày nay. Cuộc hội họa đầu của thời
mới bị đứt quãng ấy đã làm cho văn hoá Việt, con người Việt phong phú hơn, bổ
túc những nét mới cho bản sắc. Ta chối bỏ những cái gì đó, ta tiếp thu và sản
sinh ra những cái gì đó mới hơn, phù hợp hơn, có sức nâng cao ta lên.
Cuộc hội nhập thời nay mạnh mẽ hơn, toàn diện và toàn cục, sức chi phối,
sức tác động của nó khơng thể so sánh với trước được. Song ta sở hữu cả một
vốn liếng gien, vốn liếng bản sắc của ta vô cùng sâu lắng, vô cùng dai bền,
14


khơng việc gì phải e ngại! Thử xem, mình bắt chước ăn cá sống với mù tạt theo
kiểu Nhật, nhưng thêm vào đấy là rau diếp cá, lá cải xanh, củ cải sống. Mình hát
nhạc pop, nhạc rock, song giai điệu và cách thể hiện thì chẳng giống ai. Thậm
chí, ở những sân bay quốc tế này nọ, cứ gặp dăm ba đồng bào mình túm tụm, là
nhận ra ngay. Ấy là trong cuộc sống thường nhật, chứ ở những phạm trù lớn lao
như cách nghĩ, cách sống, cách phấn đấu… mình chẳng giống ai hết.
Một thành quả vững chắc nữa trong giữ gìn bản sắc là chúng ta khơng sợ
tồn cầu hóa tấn cơng mà cịn tấn cơng ngược lại nó. Xin nêu hai ví dụ: thức ăn
và y phục.
Thức ăn là yếu tố mạnh nhất trong bản sắc, cho nên nó phát triển với tồn
cầu hóa. Su-si của Nhật ngày nay tồn cầu hóa thực đơn khắp năm châu bốn
biển. Mà đơn giản quá: chỉ chút cơm bọc rau câu. Thế giới nhà giàu càng chán
mỡ càng chuộng su-si. Nắm yếu điểm đó, su-si tiến cơng trên thị trường chuộng
thức ăn nhẹ: nó đùa với cái bao tử, hư hư thực thực, ăn vào như có như khơng.

Phở của ta bây giờ cũng thế, cũng tồn cầu hóa trong nhu cầu “fastfood”.
Trái với su si, nó thực chất, làm một tô bự là giải quyết xong bữa trưa, mà mùi
vị lại đậm đà, kích thích. Chưa nói đến chả giò (nem rán) chẳng những đi vào
các nhà hàng sang trọng mà còn đi vào tận căn-tin của các trường học, các xe
đẩy trên đường phố. Học trò thấy nem rán, chưa ăn đã thèm chảy nước miếng.
Nhưng dù là nem rán hay phở, dù phở do bếp Tàu nấu hay dù nem rán đang
lai giống với bánh tráng Thái Lan, cái đặc biệt, cái khác với Tàu, với Thái của
Việt Nam, cái làm cho món ăn Việt Nam được ưa chuộng trên thế giới, cái làm
cho con người Việt Nam mn đời vẫn tự định nghĩa mình là Việt Nam bất chấp
không gian, bất chấp luật quốc tịch, vẫn là cái đó, cái mùi thum thủm, cái vị
mặn mặn, mà nếu thiếu nó cuộc đời nhạt nhẽo như thiếu tố quốc: “cái chai nước
mắm”, nước mắm là đại nguyên soái bách chiến bách thắng. Thực dân, đế quốc,
15


bá quyền, Bắc thuộc, Tây thuộc... chẳng coi nó ra gì. Nhưng đối với Việt Nam
đó là “bản sắc”.
“Áo dài” là y phục của dân tộc, là yếu tố then chốt thứ hai của bản sắc. Áo
dài tuy không phải là truyền thống lâu đời, chỉ là y phục cải cách từ những năm
1930 thôi, cũng là thời trang chế biến để thích nghi với thời đại mới. Nhưng nó
thành công bao nhiêu, thân thương bao nhiêu, yêu kiều ban nhiêu, thích hợp bao
nhiêu! Nó đi vào lịng dân tộc như thể nó đã được khai sinh từ thuở dân tộc cịn
nằm nơi. Và nó hãnh diện phất phới trên thế giới, thế giới thán phục nó. Ngày
nay, dù thời trang tha hồ vẽ vời, thêm bớt, nhân lên nhiều kiểu mới, nhưng nó
vẫn là nó, vẫn được tơn vinh ca ngợi. Cái gì hợp với dân tộc trải qua bao nhiêu
thử thách, cái ấy là bản sắc, chúng ta không sợ lu mờ, ai lấy, ai cướp cả! Như
vậy thì chẳng sợ ai. Như chén nước mắm. Như chiếc áo dài. Thì mn đời của
dân tộc Việt Nam.
2.4. Những vấn đề đặt ratrong việc xây dựng và giữ gìn bản sắc dân
tộc trong q trình tồn cầu hố và hội nhập văn hóa hiện nay.

Để khắc phục những hạn chế, yếu kém, tiếp tục giữ gìn và phát huy bản sắc
văn hóa dân tộc, đáp ứng yêu cầu phát triển của xã hội và con người trong điều
kiện đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, trước
mắt chúng ta cần thực hiện một số nhiệm vụ cơ bản, cấp thiết sau:
Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sức
mạnh tổng hợp của đất nước, tạo sự chuyển biến cơ bản và bước phát triển
mạnh mẽ trong xây dựng, nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân
tộc đồng bộ với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Chúng ta nhất định phải đẩy mạnh hơn nữa phong trào ''Toàn dân đoàn kết,
xây dựng đời sống văn hoá'' gắn chặt với cuộc vận động chính trị sâu rộng trong
tồn Đảng, tồn dân, tồn qn học tập và thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về
16


đạo đức, lối sống, làm chuyển biến mạnh mẽ công tác giáo dục, rèn luyện đạo
đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là đối với cán bộ chủ
chốt các cấp và thanh niên.
Chúng ta phải gắn chặt nhiệm vụ xây dựng văn hoá với nhiệm vụ trung
tâm xây dựng kinh tế và nhiệm vụ then chốt xây dựng Đảng, bảo đảm hoạt động
văn hoá tiến hành đồng bộ với hoạt động kinh tế, hình thành nền tảng tinh thần
vững chắc cho xã hội. Cũng cần nói thêm rằng, để thực hiện tốt các nhiệm vụ cụ
thể về xây dựng và phát triển văn hoá, trong khi đặt lên hàng đầu nhiệm vụ xây
dựng con người với những đức tính cơ bản, tốt đẹp, chúng ta phải xây dựng và
phát triển hài hoà các nhiệm vụ khác, từ xây dựng mơi trường văn hố, phát
triển văn học - nghệ thuật, thông tin đại chúng, bảo tồn và phát huy các di sản
văn hoá đến việc bảo tồn và phát triển văn hoá các dân tộc thiểu số, chính sách
văn hố đối với tơn giáo và hợp tác quốc tế về văn hoá...
Chúng ta tiếp tục tăng cường các nguồn lực và phương tiện cho hoạt động
văn hoá, trước hết và tăng mức đầu tư từ ngân sách cho phát triển sự nghiệp văn
hố đi đơi với việc huy động sự đóng góp của các tầng lớp nhân dân và sử dụng

một cách có hiệu quả nhất các nguồn lực đó; sớm xây dựng và thực hiện chiến
lược tuyển chọn, đào tạo, phát triển các tài năng văn hoá, nghệ thuật; tăng
cường và đổi mới mạnh mẽ phương thức lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của
Nhà nước đối với văn hố.
Để làm được điều đó, trước hết là cán bộ, đảng viên, cần nâng cao nhận
thức và trình độ lãnh đạo trên lĩnh vực văn hố, song song với các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, xã hội ...; nêu cao tinh thần gương mẫu về tư tưởng, đạo đức,
lối sống; nâng cao chất lượng, hiệu quả cơng tác tư tưởng theo phương châm
''nói đi đơi với làm”, đã nói là làm để cho các quyết định lần này được quán triệt
trong từng cán bộ, đảng viên, nhất và cán bộ chủ chốt, và mọi tầng lớp nhân
dân. Các cấp, các ngành cần có ngay các chương trình, kế hoạch và biện pháp
17


cụ thể để đưa những nội dung đó thấm sâu vào từng địa phương, từng ngành,
từng đơn vị, từng cộng đồng, từng gia đình, từng con người, tạo thành phong
trào thi đua sôi nổi, xây dựng con người mới và mơi trường văn hố mới phong
phú, lành mạnh, phát huy những truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc ta.
Nếu như mỗi ngày, mỗi người chúng ta đều làm được một việc tốt hay vài ba
việc tốt, và toàn xã hội đều làm như vậy thì chắc chắn chúng ta sẽ đẩy lùi được
các hiện tượng tiêu cực, làm cho xã hội ta ngày càng tốt đẹp hơn, nền văn hoá
của chúng ta ngày càng được nâng cao hơn.

18


PHẦN II - KẾT LUẬN.
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đắn về xu
hướng phát triển của sự vật. quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng
không bao giờ đi theo đường thẳng mà diễn ra quanh co, phức tạp trong đó bao

gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn chu kỳ
trước. Vì vậy, quá trình đổi mới của nước ta cùng đều diễn ra theo chiều hướng
đó. Nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa đặt dưới sự
quản lý điều tiết của nhà nước tạo tiền đề phủ định nền kinh tế tập trung, bao
cấp đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tương lai đó là xã hội
xã hội chủ nghĩa.
Như vậy, trong thời đại ngày nay, hội nhập đang trở thành một xu thế
khách quan. Dân tộc Việt Nam, hay bất cứ một dân tộc nào khác khơng thể nằm
ngồi quĩ đạo đó. Hội nhập là con đường tất yếu, là lẽ sống còn của cả dân tộc.
Vấn đề đặt ra là chúng ta hội nhập như thế nào. Rõ ràng, chúng ta với tư thế chủ
động, hội nhập trên cơ sở tự khẳng định mình, nổ lực để vượt lên chính mình,
nghĩa là, thơng qua q trình hội nhập, chúng ta có thể nhận thức đầy đủ hơn, có
ý thức hơn trong việc bảo tồn, phát huy bản sắc của dân tộc mình. Đồng thời
trong q trình đó, chúng ta sẽ thấy được những hạn chế của những truyền
thống có khả năng cản trở sự tiến bộ để tìm cách khắc phục. Một khi đã nhận
thức được như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ kết hợp hài hoà các giá trị truyền
thống với các giá trị hiện đại, trên cơ sở bảo tồn bản sắc dân tộc, giữ lấy những
gì là tinh hoa, loại bỏ dần các yếu tố lỗi thời, tăng cường giao lưu, học hỏi với
bên ngồi thì sẽ vượt qua được những thử thách, sẽ khơi dậy được vai trò động
lực của các giá trị truyền thống. Với tinh thần và bản lĩnh của người Việt Nam,
chúng ta sẽ “phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa”, kết hợp sức mạnh dân tộc với

19


những ưu thế của thời đại để phát triển đất nước và từng bước khẳng định vị thế
bản lĩnh của dân tộc mình trước cộng đồng./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình triết học Mác-Lênin
2. Hỏi đáp triết học
3. Văn kiện đại hội Đảng
4. Wikipedia.org
5. Đường lối, chính sách của Đảng, nhà nước Việt Nam về các lĩnh vực của
đời sống xã hội

20



×