Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Chuyển đổi số trong dạy và học đại học ở Việt Nam - Một vấn đề cần quan tâm hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (622.92 KB, 9 trang )

Phan Thị Hồng Duyên
Phạm Văn Cường
Trường Đại học Hoa Lư - Ninh Bình
Tóm tắt: Thực hiện đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo Việt Nam
trong những năm gần đây, các văn bản chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào
tạo đã đặt ra yêu cầu “Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dạy
và học” đáp ứng xu thế phát triển của cuộc cách mạng cơng nghiệp lần thứ tư. Vì vậy,
việc ứng dụng các thành tựu nghiên cứu về nền tảng công nghệ số và chuyển đổi số
trong giáo dục là vấn đề được đặt ra cấp thiết hiện nay. Bài viết trình bày khái quát
chung về chuyển đổi số, những thuận lợi và khó khăn về chuyển đổi số trong dạy và
học đại học; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao hiệu quả chuyển đổi số
trong dạy và học đại học hiện nay.
Từ khóa: Chuyển đổi số, dạy, học, giáo dục và đào tạo, công nghệ thông tin,
sinh viên, đại học.

1. Mở đầu
Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ trên thế giới
hiện nay đã và đang làm thay đổi căn bản mọi hoạt động của con người. Đây là
cuộc cách mạng công nghiệp dựa trên công nghệ số mà nền tảng là tích hợp của
hệ thống kết nối số hóa - vật lý - sinh học với sự phát triển của internet kết nối vạn
vật (IoT), dữ liệu lớn (Big data), trí tuệ nhân tạo (AI). Để thích ứng với cuộc cách
mạng công nghiệp lần thứ tư, các quốc gia trên thế giới đã và đang thực hiện
chuyển đổi số trong nhiều lĩnh vực. Đối với Việt Nam, ngày 03/6/2020, Thủ tướng
Chính phủ ký quyết định số 749/QĐ-TTg về việc phê duyệt “Chương trình chuyển
đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”, trong đó giáo dục và
đào tạo là một trong 8 lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu trong triển khai thực hiện.
2. Nội dung
2.1. Khái quát chung về chuyển đổi số và chuyển đổi số trong dạy và học đại học
Thứ nhất, khái niệm về chuyển đổi số.
Mặc dù đã xuất hiện từ lâu trên thế giới, song đến khi cách mạng công
nghiệp lần thứ tư bùng nổ, chuyển đổi số (Digital transformation) mới xuất hiện


và trở nên phổ biến trong thời gian gần đây. Chuyển đổi số được hiểu là “việc sử
dụng dữ liệu và công nghệ số để thay đổi một cách tổng thể và toàn diện tất cả
222


các khía cạnh của đời sống kinh tế - xã hội, tái định hình cách chúng ta sống, làm
việc và liên hệ với nhau”1.
Có thể hiểu một cách khái quát, chuyển đổi số là q trình chuyển từ mơ hình
truyền thống sang mơ hình số, bằng cách ứng dụng các công nghệ mới như dữ liệu
lớn (Big Data), Internet vạn vật (IoT), điện toán đám mây (Cloud Computing)…,
các phần mềm công nghệ để thay đổi cách thức điều hành, quy trình làm việc, văn
hóa cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp; chuyển các hoạt động từ thế giới thực sang thế
giới ảo ở trên môi trường mạng. Chuyển đổi số đã tạo ra các mơ hình hoạt động, sản
phẩm dịch vụ mới và nâng cao chất lượng các dịch vụ của người sử dụng. Nhờ đó,
con người dễ dàng và tiếp cận thông tin nhiều hơn, rút ngắn về khoảng cách, thu hẹp
về không gian, tiết kiệm về thời gian.
Hiện nay, nhiều nước trên thế giới như Úc, Đan Mạch, Anh, Estonia… đã
và đang triển khai các chiến lược quốc gia về chuyển đổi số. Nội dung chuyển
đổi số rất đa dạng, phong phú và tùy thuộc vào chiến lược phát triển kinh tế - xã
hội của mỗi quốc gia. Song, nhìn chung đều hướng tới các nội dung như: Chính
phủ số (như dịch vụ công trực tuyến, dữ liệu mở); kinh tế số (như tài chính số,
thương mại điện tử, phát triển các doanh nghiệp số); xã hội số (như giáo dục, y
tế, văn hóa, an tồn xã hội) và chuyển đổi số trong các ngành trọng điểm để phát
triển nền kinh tế (như du lịch, điện lực, giao thông, nông nghiệp).
Thứ hai, chuyển đổi số trong dạy và học đại học.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo nói chung, dạy và học đại học nói riêng,
chuyển đổi số là việc nhà trường ứng dụng công nghệ thông tin, đổi mới mơ hình,
phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động quản lý, giảng dạy, học tập và
nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập của giảng viên
và sinh viên, giúp người dạy và người học phát huy tối đa khả năng tư duy, tính

sáng tạo, chủ động, tích cực trong hoạt động dạy và học. Có thể nói, khi thực hiện
chuyển đổi số, toàn bộ các hoạt động giáo dục và đào tạo được tổ chức, thực hiện
và quản lý sẽ thay đổi.
Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo được thể hiện ở hai nội dung cơ yếu
là: chuyển đổi số trong quản lý giáo dục; chuyển đổi số trong dạy, học, kiểm tra,
đánh giá, nghiên cứu khoa học. Ở đây, chuyển đổi số trong quản lý giáo dục bao
gồm: số hóa thơng tin quản lý, tạo ra hệ thống cơ sở dữ liệu lớn, triển khai các dịch
vụ công trực tuyến, ứng dụng các thành tựu của cuộc cách mạng cơng nghiệp lần
thứ tư (AI, blockchain, phân tích dữ liệu) để điều hành, quản lý, định hướng, dự
báo trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo một cách nhanh chóng, chính xác. Trong
Bộ Thơng tin và Truyền thơng, Đề án chuyển đổi số quốc gia, Dự thảo 1.0 ngày 04/4/2019. Tải xuống
/>1

223


dạy, học, kiểm tra, đánh giá, nghiên cứu khoa học bao gồm: số hóa học liệu (sách
giáo trình, bài giảng điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, học liệu số đa phương
tiện, phần mềm mô phỏng và các học liệu khác), thư viện số, phịng thí nghiệm
ảo, triển khai hệ thống đào tạo, nghiên cứu khoa học trực tuyến.
Thứ ba, tầm quan trọng của chuyển đổi số trong dạy và học đại học.
Thực tế cho thấy, hiện nay cùng với việc chuyển đổi số trong các lĩnh vực
khác, chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo đại học ở nước ta là tất yếu. Bởi vì,
hiện nay cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã đặt ra những thách thức và yêu
cầu mới đối với nguồn nhân lực trong hiện tại và tương lai là phải có đầy đủ các
yếu tố như: có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt; có kiến thức, kỹ năng thực hành
nghề nghiệp, năng lực nghiên cứu, phát triển ứng dụng khoa học và cơng nghệ
tương xứng với trình độ đào tạo; có khả năng thích ứng nhanh chóng với mơi
trường lao động, tiến bộ khoa học và cơng nghệ mới; có khả năng làm việc nhóm
và hội nhập mơi trường quốc tế.

Chính vì vậy, những năm gần đây, đặc biệt từ cuối năm 2019 khi dịch
Covid-19 bùng nổ, ngành giáo dục đã quan tâm, thúc đẩy chuyển đổi số, tăng
cường việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động dạy, học. Điều đó, có
tầm quan trọng đặc biệt:
Một là, tạo mơi trường dạy và học linh hoạt, thích ứng với những biến đổi
của thực tiễn.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động dạy, học đã dần thay đổi
phương pháp giảng dạy, học tập từ truyền thống sang phương pháp giảng dạy
tích cực, giúp giảng viên và sinh viên phát huy được khả năng tư duy, sáng tạo,
chủ động trong các hoạt động.
Nếu như dạy, học theo kiểu truyền thống, giảng viên và sinh viên phải lên
lớp học, với công nghệ số việc giảng dạy và học tập được thực hiện ở không gian
dạy, học linh hoạt hơn. Từ mơ hình lớp học tập trung đã dần chuyển sang các mơ
hình dạy học trực tuyến, sử dụng cơng nghệ thông tin và truyền thông để hỗ trợ
các hoạt động giảng dạy, học tập. Giảng viên, sinh viên có thể giảng dạy, học tập
mọi lúc, mọi nơi nếu như được trang bị đầy đủ về máy tính, điện thoại, kết nối
internet. Theo đó, giảng viên và sinh viên chủ động trong việc giảng dạy, học tập
và ứng dụng kiến thực vào thực tiễn. Sự bùng nổ về công nghệ giáo dục đã, đang
và sẽ tạo ra những phương thức giáo dục phi truyền thống, thúc đẩy mạnh mẽ sự
phát triển của nền giáo dục mang tính chuyển đổi sâu sắc vì con người.
Hai là, truy cập tài liệu giảng dạy, học tập khơng giới hạn và tăng tính tương
tác, thực hành, ứng dụng.

224


Nếu như với dạy học truyền thống, phần lớn việc học tập tiếp thu kiến thức
của sinh viên được cung cấp từ sách vở và giảng viên, thì hiện nay, chuyển đổi
số sẽ tạo ra kho học liệu mở cho sinh viên. Sinh viên có thể tìm hiểu, tiếp cận để
khai thác các nguồn tài nguyên học tập phong phú, đa dạng một cách dễ dàng,

nhanh chóng qua việc ứng dụng cơng nghệ thơng tin và internet. Ngồi ra, chuyển
đổi số đã giúp việc chia sẻ tài liệu giữa giảng viên và sinh viên thuận tiện, nhanh
chóng, dễ dàng và tiết kiệm hơn do giảm thiểu được các chi phí về in ấn.
Bên cạnh đó, việc ứng dụng cơng nghệ mới như ứng dụng thực tế ảo
(Virtual Reality - VR), thực tế tăng cường (Augmented Reality - AR) để tạo dựng
các phịng thí nghiệm ảo, mơ hình thực tế ảo có khả năng tương tác với người
dùng giúp cho sinh viên có những trải nghiệm đa giác quan, dễ hiểu, dễ nhớ và
gây tò mò, hứng thú cho sinh viên, đồng thời tăng mối quan hệ tác động qua lại
giữa việc học tập lý luận với thực hành và ứng dụng kiến thức vào thực tiễn ngay
trong lớp học.
Ba là, nâng cao chất lượng dạy và học.
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chuyển đổi số sẽ hỗ trợ đổi mới dạy và
học theo hướng giảm thuyết giảng, truyền thụ kiến thức sang phát triển năng lực
người học, tăng cường khả năng tự học, tự nghiên cứu. Sự bùng nổ của nền tảng
công nghệ IoT, Big Data, AI, SMAC (mạng xã hội - di động - phân tích dữ liệu
lớn - điện tốn đám mây) đang hình thành nên hạ tầng giáo dục số. Nhờ đó, nhiều
mơ hình giáo dục thông minh đang được phát triển trên nền tảng ứng dụng cơng
nghệ thơng tin; hỗ trợ tích cực việc cá nhân hóa học tập.
Các thành tựu cơng nghệ như Big data giúp lưu trữ mọi kiến thức lên không
gian mạng, IoT giúp tăng cường quản lý, kiểm tra, giám sát trong các trường đại
học; phân tích hành vi học tập của sinh viên để có sự hỗ trợ, tư vấn kịp thời, phù
hợp, Blockchain giúp xây dựng hệ thống quản lý thông tin và hồ sơ của sinh viên,
cho phép hợp nhất, quản lý và chia sẻ dữ liệu từ nhiều cơ sở đào tạo, ghi chép lại
lịch sử học tập, bảng điểm của sinh viên, đảm bảo thông tin dữ liệu được đồng
nhất, cụ thể và minh bạch.
Với nguồn thông tin phong phú được giảng viên cung cấp và hướng dẫn
sinh viên tìm kiếm trên internet, nhờ kỹ thuật xây dựng các tư liệu dạy học hấp
dẫn (có sử dụng các thông tin và công cụ ICT), sinh viên sẽ có khả năng tiếp cận,
lĩnh hội và xử lý khối lượng thông tin lớn, phong phú. Điều này, thúc đẩy một
nền giáo dục mở, giúp người dạy và người học tiếp cận thông tin đa chiều, thu

hẹp mọi không gian, tiết kiệm tối ưu về thời gian, từ đó phát triển nhanh về kiến
thức, nhận thức và tư duy, góp phần tạo ra xã hội học tập và học tập suốt đời.
Đồng thời, do chuyển đổi số, ứng dụng công nghệ thông tin, các nhiệm vụ nhận
thức, các vấn đề học tập đã được giảng viên mã hóa và mô phỏng thông qua các
225


tư liệu, tình huống dạy học. Thơng qua sự tương tác sư phạm giữa sinh viên và các
tình huống trong dạy học (do giảng viên xây dựng), giúp sinh viên phát hiện và
giải quyết các vấn đề học tập nhanh chóng, chính xác và hiệu quả.
Bốn là, giảm và tiết kiệm chi phí đào tạo.
Ngày nay, việc sử dụng các phương tiện kỹ thuật dạy học và ứng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học đã trở nên phổ biến rộng rãi. Trong đó, cơng nghệ
đa phương tiện (multimedia technology), bao gồm các cơng cụ hỗ trợ việc trình
diễn, sự mơ phỏng nhờ máy tính và các lớp học ảo, học tập điện tử đã dần quen
thuộc với sinh viên. Do vậy, việc học tập khơng cịn bị ràng buộc bởi mơ hình
đào tạo truyền thống. Sinh viên cịn có thể tùy chọn những khóa học phù hợp với
bản thân và những môn mà bản thân họ thực sự quan tâm. Điều này giúp cho
việc học tập của sinh viên hiệu quả và chất lượng hơn.
Việc áp dụng công nghệ thơng tin trong dạy, học, nhất là các mơ hình dạy
học trực tuyến giúp nhà trường tiết kiệm được chi phí trang bị cơ sở vật chất, chi
phí chi trả cho giảng viên và chuyên gia; người học tiết kiệm học phí, chi phí sinh
hoạt và tài liệu học tập. Đồng thời, giúp quản lý giảng viên, sinh viên chính xác
hơn, giảm tải các lãng phí về kinh phí, nguồn nhân lực, tăng hiệu suất và chất lượng
làm việc của khối văn phòng và đào tạo.
2.2. Thực trạng về chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo đại học
Trong những năm qua, Đảng và Chính phủ ln quan tâm, coi trọng chuyển
đổi số, phát triển ứng dụng công nghệ thông tin trong nhiều lĩnh vực. Đối với
ngành giáo dục, việc chuyển đổi số cho các hoạt động quản lý giáo dục, dạy và
học thể hiện rõ xu thế phát triển của giáo dục và đào tạo trong bối cảnh cuộc cách

mạng cơng nghiệp lần thứ tư. Đến nay, tồn ngành giáo dục đã chủ trương, xác
định ứng dụng công nghệ thơng tin là 1 trong 9 nhóm nhiệm vụ trọng tâm triển
khai có hiệu quả Nghị quyết số 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng
“về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
và hội nhập quốc tế”. Thủ tướng Chính phủ cũng đã ban hành Đề án “Tăng cường
ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học,
nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn
2016 - 2020, định hướng đến năm 2025”. Trong đó, xác định mục tiêu chung là:
“Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin nhằm đẩy mạnh triển khai chính phủ
điện tử, cung cấp dịch vụ công trực tuyến trong hoạt động quản lý điều hành của
cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo ở trung ương và các địa phương;
đổi mới nội dung, phương pháp dạy - học, kiểm tra, đánh giá và nghiên cứu khoa
học và công tác quản lý tại các cơ sở giáo dục đào tạo trong hệ thống giáo dục
226


quốc dân góp phần hiện đại hóa và nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”2.
Nhiều chính sách, văn bản pháp luật được xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện
tạo hành lang pháp lý quan trọng nhằm thúc đẩy chuyển đổi số giáo dục như các
quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý, tổ chức đào tạo qua
internet; quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học; quy định quản lý, vận hành sử
dụng hệ thống cơ sở dữ liệu toàn ngành; hướng dẫn nhiệm vụ công nghệ thông
tin cho khối đại học, phổ thông và nhiều văn bản chỉ đạo điều hành khác.
Trong quản lý giáo dục đào tạo đại học đã triển khai số hóa, xây dựng cơ
sở dữ liệu dùng chung từ Trung ương đến các cơ sở giáo dục trong cả nước. Cơ
sở dữ liệu này đã hỗ trợ đắc lực công tác tuyển sinh và thống kê, báo cáo của các
trường đại học. Theo đánh giá của TS. Tô Hồng Nam: “Hệ thống quản lý hành
chính điện tử kết nối 63 sở GDĐT và hơn 300 trường đại học, cao đẳng trên cả
nước với Bộ GDĐT hoạt động thông suốt, ổn định, phát huy hiệu quả tích cực.

Về dạy - học, giáo viên toàn ngành được huy động tham gia, đóng góp chia sẻ
học liệu vào kho học liệu số tồn ngành; đóng góp lên Hệ tri thức Việt số hóa
gần 5.000 bài giảng điện tử e-learning có chất lượng, kho luận văn tiến sĩ với gần
7.000 luận văn, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm với trên 31.000 câu hỏi… góp phần
xây dựng xã hội học tập và đẩy mạnh học tập suốt đời… Trong giáo dục đại học,
triển khai cơ chế đặc thù đào tạo nhân lực CNTT, qua đó giúp các cơ sở đào tạo
gia tăng cơ hội hợp tác với doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế để huy động các
nguồn lực của xã hội tham gia vào quá trình đào tạo nhân lực CNTT, gắn đào tạo
với nhu cầu sử dụng nhân lực ở các doanh nghiệp và nhu cầu của xã hội”3.
Trong dạy, học đại học hiện nay, bên cạnh kết quả đạt được, chuyển đổi số
cũng gặp khơng ít khó khăn như: cơ sở vật chất, hạ tầng mạng, trang thiết bị (như
máy tính, camera, máy in, máy quyét, máy tính, laptop, smartphone,…), đường
truyền, dịch vụ internet … còn thiếu, lạc hậu, chưa đồng bộ, sinh viên nhiều địa
phương, đặc biệt ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa chưa đáp ứng yêu cầu cho chuyển
đổi số. Việc quản lý, điều hành đã được triển khai ở các trường đại học, song còn
thiếu đồng bộ. Cơ sở dữ liệu chưa được tích hợp, thiếu kết nối chia sẻ thông tin
một cách nhất quán, giảm hiệu quả, gây lãng phí.
Cơ sở dữ liệu số hóa chuyên ngành (dữ liệu người học, dữ liệu giảng
viên, học liệu …) cần có sự đầu tư lớn về nhân lực (gồm cả nhân lực quản lý
và nhân lực triển khai) cũng như tài chính để đảm bảo cho việc số hóa. Việc
Thủ tướng Chính phủ, số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017, Quyết định phê duyệt đề án “Tăng cường ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy - học, nghiên cứu khoa học góp phần
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025”.
3
TS. Tô Hồng Nam (2020), Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo: Thực trạng và giải pháp, Bài đăng
trên ấn phẩm in Tạp chí TT&TT, Số 2 tháng 4/2020). Truy cập từ cập nhật ngày
7/6/2020.
2

227



xây dựng kho học liệu số (thư viện, sách, ngân hàng câu hỏi trắc nghiệm, bài
giảng, phần mềm học điện tử, phần mềm ứng dụng mơ phỏng) chưa có kế
hoạch cụ thể và đồng bộ, còn phát triển tự phát dẫn đến lãng phí, mất thời
gian, cơng sức và tài chính.
Việc xây dựng chương trình học trực tuyến, thời lượng học, kiểm tra đánh
giá, kiểm định chất lượng học, công nhận kết quả học trực tuyến và quản lý việc
giảng dạy, học tập trực tuyến cịn gặp khó khăn.
Hầu hết, giảng viên ở các trường đại học, nhất là giảng viên lớn tuổi chưa
được đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu về công nghệ thông tin, do vậy việc sử dụng
các thiết bị cơng nghệ để giảng dạy cịn hạn chế. Chủ yếu mới chỉ dừng ở việc
soạn và trình chiếu bài giảng thay cho viết bảng trước đây, mà chưa thực sự đi
sâu vào vận dụng phần mềm, các công cụ trong thiết kế bài giảng, kiểm tra, quản
lý như: ứng dụng bộ PowerPoint Microsoft Office 365 trong giảng dạy; ứng dụng
OneNote và Skype trong lớp học; sử dụng Gnomio để quản lý học tập; Google
Classroom tổ chức và quản lý lớp học….
2.3. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong dạy và học đại học
hiện nay
Thứ nhất, phổ biến, tuyên truyền, nâng cao nhận thức, trách nhiệm, thống
nhất trong các cấp, các ngành về thực hiện chuyển đổi số, xây dựng văn hoá số
trong giáo dục và đào tạo nói chung, dạy và học đại học nói riêng. Đồng thời, rà
sốt, xây dựng, sửa đổi, bổ sung hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật,
các bộ tiêu chuẩn về ứng dụng công nghệ dạy và học đại học.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện tốt Nghị quyết số 17/NQ-CP ngày 07/03/2019
của Thủ tướng Chính phủ “về một số nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm phát triển
Chính phủ điện tử giai đoạn 2019-2020, định hướng đến 2025”. Chú trọng triển
khai hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu tồn ngành giáo dục và đào tạo nói chung,
giáo dục và đào tạo đại học nói riêng. Kết nối, liên thông, chia sẻ dữ liệu từ Trung
ương đến địa phương, nhà trường và đồng bộ với các cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ

sở dữ liệu chuyên ngành khác, góp phần hình thành cơ sở dữ liệu mở quốc gia;
thực hiện số hóa triệt để, thay thế văn bản, tài liệu giấy bằng sử dụng văn bản
điện tử (sổ sách, bài giảng, sổ điểm điện tử…); hoạt động chỉ đạo, điều hành,
giao dịch, họp, tập huấn, hội thảo được thực hiện chủ yếu trên môi trường mạng.
Tăng cường kết hợp công nghệ như Big data, Blockchain, AI, Open API… với
cơ sở dữ liệu số chuyên ngành để xây dựng các hệ thống thu thập thông tin, đưa
ra các dự báo, dự đoán và tạo ra các ứng dụng, dịch vụ phù hợp với đối tượng
sinh viên.
Thứ ba, hoàn thiện cơ sở hạ tầng, kết nối mạng internet đồng bộ, thiết bị
công nghệ thông tin đảm bảo phục vụ tốt cho dạy - học, tạo cơ hội học tập bình
228


đẳng cho sinh viên các trường, giữa các vùng miền có điều kiện kinh tế - xã hội
khác nhau, ưu tiên hình thức thuê dịch vụ và tăng cường xã hội hóa, hợp tác với
các doanh nghiệp lớn triển khai ứng dụng cơng nghệ thơng tin.
Thứ tư, hình thành cổng thơng tin thư viện điện tử tồn ngành liên thơng,
chia sẻ học liệu với các cơ sở đào tạo; áp dụng phương thức học tập kết hợp; phát
triển một số mơ hình đào tạo trực tuyến, thúc đẩy phát triển học liệu số phục vụ
dạy - học, kiểm tra, đánh giá, tham khảo, nghiên cứu khoa học; hình thành kho
học liệu số, học liệu mở, liên kết với quốc tế, đáp ứng nhu cầu tự học, tự nghiên
cứu, học tập suốt đời của sinh viên; tiếp tục đổi mới phương pháp, hình thức dạy
và học trên cơ sở áp dụng cơng nghệ số, khuyến khích và hỗ trợ áp dụng các mơ
hình giáo dục đào tạo mới, tiên tiến dựa trên các nền tảng số.
Thứ năm, kiểm tra, kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ đối với việc triển khai
mạng xã hội giáo dục, đảm bảo thống nhất, tạo môi trường số kết nối, chia sẻ
giữa cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, gia đình, giảng viên, sinh viên nhằm
nâng cao năng lực nghiên cứu, đào tạo trong giáo dục đại học; phát triển các khóa
học trực tuyến mở; triển khai hệ thống học tập trực tuyến dùng chung toàn ngành
phục vụ công tác bồi dưỡng giảng viên, hỗ trợ dạy học cho các vùng khó khăn.

Thứ sáu, chú trọng, tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực công
nghệ thông tin, ngoại ngữ cho đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên, sinh viên để
tác nghiệp trên môi trường số, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Các trường đại
học cần thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, hội thảo bồi dưỡng kỹ năng ứng
dụng công nghệ thông tin trong dạy học cho giảng viên, sinh viên. Đồng thời,
bản thân mỗi giảng viên, sinh viên phải nâng cao tính chủ động, tích cực tự học,
tự tìm hiểu về công nghệ thông tin để nâng cao năng lực ứng dụng trong dạy,
học, nghiên cứu khoa học trong mọi lúc, mọi nơi trong điều kiện có mạng
internet.
Thứ bảy, đổi mới nội dung chương trình đào tạo, phương pháp, hình thức tổ
chức, quản lý dạy và học phù hợp với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin.
Hiện nay, chương trình đào tạo, giáo trình nhiều mơn học bậc đại học đã bộc lộ
những hạn chế nhất định. Kiến thức nghiêng nhiều về lý thuyết hàn lâm, tính ứng
dụng vào thực tiễn còn hạn chế. Để nâng cao hiệu quả chuyển đổi số trong dạy,
học đại học đòi hỏi các tiêu chuẩn về nội dung đào tạo được xây dựng hiện đại,
chuẩn đầu ra phù hợp với từng chuyên ngành, có kèm điều kiện tích hợp cơng nghệ
thơng tin. Đây chính là cơ sở giúp cán bộ, giảng viên, sinh viên có những định
hướng đúng, tạo ra sự đồng thuận trong nhà trường đối với việc triển khai ứng
dụng công nghệ thông tin vào dạy và học. Bên cạnh đó, cần đổi mới phương pháp,
hình thức tổ chức, quản lý dạy và học, tận dụng tối đa các công cụ hỗ trợ cho quá
trình tổ chức, quản lý dạy và học mà công nghệ thông tin mang lại nhằm tiết kiệm
229


thời gian, công sức, “mở rộng được tầm mắt, kéo dài được đôi tay” để nâng cao
chất lượng, hiệu quả dạy và học.
3. Kết luận
Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học và công nghệ, lĩnh vực
chuyển đổi số, công nghệ thông tin cũng đã và đang không ngừng có các bước
phát triển đột phá mới và tác động đến nhiều lĩnh vực của xã hội. Trong lĩnh vực

giáo dục và đào tạo, những thành tựu của chuyển đổi số đã làm thay đổi tính chất
và hiệu quả của hoạt động dạy và học trong nhà trường để có thể bù đắp sự thiếu
hụt lao động trình độ cao, có chun mơn, kỹ năng do u cầu từ cơng nghệ số
hóa trong hoạt động kinh tế - xã hội. Vì vậy, “Chúng ta hãy cùng suy nghĩ thấu
đáo và chọn cho mình một niềm tin đúng, đi đến tận cùng, để xây dựng nên các
đại học xuất sắc thông qua chuyển đổi số. Đại học xuất sắc, giáo dục và đào tạo
xuất sắc là nền tảng quan trọng để Việt Nam bứt phá vươn lên và hùng cường,
thịnh vượng”4, như Bộ trưởng Bộ TT&TT Nguyễn Mạnh Hùng đã khẳng định.
Tài liệu tham khảo:
[1].

Bộ Thông tin và Truyền thông, Đề án chuyển đổi số quốc gia, Dự thảo 1.0 ngày
04/4/2019. Truy cập từ -AN-CHUYEN-DOI-SÓ-QG-VER-1.0.pdf.

[2].

Chuyển đổi số trong giáo dục: Cần thay đổi từ tư duy, cập nhật ngày
23/12/2020.

[3].

TS. Tô Hồng Nam (2020), Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo: Thực trạng và giải
pháp, Bài đăng trên ấn phẩm in Tạp chí TT&TT, Số 2 tháng 4/2020). Truy cập từ
cập nhật ngày 7/6/2020.

[4].

Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật số: 08/2012/QH13 (2012),
Luật giáo dục đại học, Hà Nội.


[5].

Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt
“Chương trình Chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030”.

[6].

Thủ tướng Chính phủ, số 117/QĐ-TTg ngày 25/01/2017, Quyết định phê duyệt Đề án
“Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý và hỗ trợ các hoạt động dạy học, nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn
2016-2020, định hướng đến năm 2025”.

Chuyển
đổi số trong giáo dục: Cần thay đổi từ tư duy, cập nhật ngày 23/12/2020.
4

230



×