Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Hôn nhân đồng giới tiếp cận dưới góc độ nhân quyền

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (728.25 KB, 48 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
HƠN NHÂN ĐỒNG GIỚI - TIẾP CẬN DƯỚI GĨC ĐỘ NHÂN QUYỀN
Mã số: PLHC.ĐTSV.2022.39

Chủ nhiệm đề tài
Lớp
Cán bộ hướng dẫn

: Phạn Cẩm Tú
: 1905LHOA
: Nguyễn Đức Thiện

Hà Nội, tháng 04 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC
HƠN NHÂN ĐỒNG GIỚI - TIẾP CẬN DƯỚI GĨC ĐỘ NHÂN QUYỀN
Mã số: PLHC.ĐTSV.2022.39

Cán bộ hướng dẫn

: Nguyễn Đức Thiện


Chủ nhiệm đề tài

: Phạn Cẩm Tú

Thành viên nhóm

: Phùng Minh Châu

Hà Nội, tháng 04 năm 2022

ii


LỜI CAM ĐOAN
Chúng em xin cam đoan đề tài nghiên cứu khoa học “Hơn nhân đồng giới- tiếp
cận dưới góc độ nhân quyền” là đề tài do chúng em thực hiện.
Đề tài nghiên cứu đã sử dụng các số liệu có nguồn gốc rõ ràng theo đúng quy định
trong quá trình nghiên cứu. Những kết quả nghiên cứu mà đề tài đạt được là do nhóm
tác giả tự tìm hiểu, phân tích một cách trung thực, khách quan.
Hà Nội, ngày 18 tháng 04 năm 2022
Chủ nhiệm đề tài

iii


LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành đề tài nghiên cứu khoa học “Hơn nhân đồng giới - tiếp cận dưới
góc độ nhân quyền” chúng em đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của rất nhiều cá
nhân tổ chức. Em xin chân thành cảm ơn đến:
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội, Khoa Pháp luật hành chính đã tổ chức cuộc thi

sinh viên nghiên cứu khoa học để chúng em có điều kiện hồn thiện nâng cao tri thức
của mình.
Xin bày tỏ sự biết ơn và kính trọng đến là giảng viên Nguyễn Đức Thiện đã tận
tình hướng dẫn chúng em trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
Xin cám ơn các bạn sinh viện Trường Đại học Nội vụ Hà Nội đã phối hợp với
nhóm điềm bảng khảo sát về thực trạng và giải pháp nâng năng lực tự học của sinh viên
Trường Đại học Nội vụ Hà Nội trong bối cảnh học trực tuyến.
Trong quá trình tìm hiểu thực tế và nghiên cứu, mặc dù đã có cố gắng tìm tịi tài
liệu nhưng do cịn có sự hạn chế về thời gian, cho nên không tránh khỏi những thiếu sót.
Chúng em kính mong nhận được sự quan tâm của Hội đồng nghiên cứu, thầy cô, bạn bè
để chúng em có thể hồn thiện hơn bài làm của mình, cũng như góp phần làm cho đề tài
có giá trị hơn trong thực tiễn.
Chúng em xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày 18 tháng 04 năm 2022
Chủ nhiệm đề tài

iv


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................... iii
LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... iv
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ........................................................................................ 1
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 2
3.1. Mục tiêu nghiên cứu ............................................................................................... 2
3.2. Nhiệm vụ .................................................................................................................. 2
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 3
5. Phương pháp nghiên cứu.......................................................................................... 3

10. Kết cấu đề tài ........................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HƠN NHÂN ĐỒNG GIỚI DƯỚI GĨC ĐỘ
QUYỀN CON NGƯỜI.................................................................................................. 4
1.1. Khái quát chung về hôn nhân đồng giới .............................................................. 4
1.2. Nhận thức của xã hội về hôn nhân đồng giới ...................................................... 7
1.3. Quyền kết hôn giữa người đồng giới dưới góc độ quyền con người ................ 11
1.4. Tác động của kết hôn đồng giới đến xã hội........................................................ 15
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI ......... 18
2.1. Quy phạm pháp luật quốc tế của một số quốc gia trên thế giới về quyền kết hôn
của người đồng tính .................................................................................................... 18
2.2. Thực trạng pháp luật hơn nhân đồng giới và nhu cầu thừa nhận hôn nhân
đồng giới ở Việt Nam .................................................... Error! Bookmark not defined.2
2.3. Sự tác động của pháp luật lên quan hệ hôn nhân đồng giới ............................ 24
2.4. Nguyên nhân của các hạn chế, khó khăn trong việc xây dựng và thi hành pháp
luật về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính tại Việt
Nam............................................................................................................................... 25
CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN TRONG VIỆC ĐẢM
BẢO QUYỀN KẾT HƠN CỦA NGƯỜI ĐỒNG GIỚI ........................................... 31
3.1. Quan điểm hồn thiện .......................................................................................... 31
3.2. Một số kiến nghị ................................................................................................... 34
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 40
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 41

v


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Kết hôn đồng giới, ở một số quốc gia, đã tạo ra những tranh cãi quan

trọng từ quan điểm pháp lý xã hội. Trong những thập kỷ gần đây, đồng tính
luyến ái đã trở thành một vấn đề ngày càng gia tăng ở Việt Nam khi có nhiều
tiếng nói yêu cầu luật pháp bảo vệ quyền của người đồng tính, song tính và
chuyển giới. Những quyền này, trong số những quyền khác, bao gồm quyền kết
hôn, quyền được mưu cầu hạnh phúc... Nghiên cứu này là một nghiên cứu pháp
lý xã hội thảo luận về các vấn đề hôn nhân đồng giới bằng cách sử dụng các
cách tiếp cận luật pháp và nhân quyền. Nghiên cứu cho thấy hôn nhân đồng giới
được hợp pháp hóa ở một số quốc gia thơng qua việc cơng nhận và tơn trọng các
ngun tắc nhân quyền, địi hỏi mọi cá nhân phải được đối xử không phân biệt.
Theo thống kê mới nhất đến năm 2019 đã có 28 quốc gia và vùng lãnh thổ trên
thế giới công nhận hơn nhân giữa những người có cùng giới tính như: Hà Lan,
Mỹ, Pháp… Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 Việt Nam không thừa nhận hôn
nhân giữa những người có cùng giới tính. Trong khi đó, hơn nhân cần được xem
là một quyền tự do chính đáng của mỗi người dù họ thuộc thiên hướng tình dục
nào đi nữa.
Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài " Hơn nhân đồng giới - tiếp
cận dưới góc độ nhân quyền" làm đề tài nghiên cứu khoa học.
Qua đề tài này, tơi mong muốn xây dựng và góp phần hoàn thiện các quy
định của pháp luật về quyền kết hôn của những người đồng giới cũng như sự
phát triển của xã hội.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

- Tình hình nghiên cứu trong nước: Về tổng thể, các cơng trình nghiên
cứu trong nước liên quan đến pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính,
chuyển giới cịn khá khiêm tốn so với các lĩnh vực khác.
- Tình hình nghiên cứu thế giới: Trên thế giới, các nghiên cứu về người
đồng tính, song tính, chuyển giới, pháp luật về quyền của người đồng tính, song

1



tính, chuyển giới đã được tiến hành từ lâu dưới nhiều góc độ khác nhau, gắn liền
với sự phát triển của các nền kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa khác nhau.
- Danh mục các cơng trình đã nghiên cứu có liên quan: Lê Quang Bình
(2012), "Hơn nhân cùng giới: xu hướng thế giới, tác động xã hội và bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam", Tọa đàm chuyên gia: Lồng ghép vấn đề giới trong dự án
luật, Ủy ban các vấn đề xã hội của Quốc hội tổ chức ngày 08/10/2012, Hà Nội;
Nguyễn Thu Nam (2012), "Quan điểm xã hội về đồng tính và hơn nhân đồng
giới", Hội thảo khoa học: Hôn nhân đồng giới, Viện ISEE tổ chức ngày
13/12/2012, Hà Nội; Trương Hồng Quang (2012), "Pháp luật một số quốc gia
trên thế giới về quyền của người đồng tính", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
7; Trương Hồng Quang (2012), "Nhận thức về người đồng tính và quyền của
người đồng tính", Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 3; Trương Hồng Quang
(2014), "Thực tiễn ghi nhận quyền kết hơn bình đẳng của người đồng tính trên
thế giới", ngày 10/02/2014 v.v...
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục tiêu nghiên cứu

Đưa ra được những lập luận xác đáng, toàn diện và phù hợp cho một hệ
thống giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về quyền của người
đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ

Nghiên cứu những vấn đề lý luận về người đồng tính, song tính, chuyển
giới và liên giới tính; lý luận về quyền và pháp luật về quyền của người đồng
tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính; các yếu tố ảnh hưởng đến việc xây
dựng, thi hành pháp luật về quyền của các đối tượng này; xu hướng phát triển
của pháp luật quốc tế, pháp luật các quốc gia trên thế giới về quyền của các đối
tượng này.
Nghiên cứu thực tiễn pháp luật về quyền của người đồng tính, song tính,

chuyển giới và liên giới tính tại Việt Nam (thực trạng người đồng tính, song

2


tính, chuyển giới và liên giới tính; quy định pháp luật về quyền của các đối
tượng này và các vấn đề đặt ra trong thực tiễn thi hành pháp luật).
Trên cơ sở kết quả đạt được từ việc nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề tài
nghiên cứu đưa ra các quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới, liên giới tính và góp
phần thúc đẩy thi hành pháp luật về quyền của các đối tượng này thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nhận thức, thực tiễn và pháp luật về quyền của người
đồng tính, song tính, chuyển giới và liên giới tính tại Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu quyền của người đồng tính, song tính,
chuyển giới và liên giới tính trong hệ thống pháp luật Việt Nam, trọng tâm đánh giá là
các quyền đặc thù, đang bị hạn chế, chưa được ghi nhận hoặc đã được ghi nhận nhưng
có nhiều vấn đề trong thực tế; có đối chiếu với pháp luật quốc tế, pháp luật một số
quốc gia trên thế giới về quyền của người đồng tính, song tính, chuyển giới và liên
giới tính.
5. Phương pháp nghiên cứu

- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Phương pháp cấu trúc hệ thống
- Phương pháp luật học so sánh
- Phương pháp thống kê, phân tích số liệu
- Phương pháp phân tích tình huống thực tiễn
- Phương pháp lịch sử
10. Kết cấu đề tài


Ngoài phần mở đầu, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chủ yếu của đề tài được bố cục thành 4 chương:
Chương 1: Tổng quan về hôn nhân đồng giới và quyền kết hôn của họ dưới góc
độ quyền con người
Chương 2: THỰC TRẠNG ĐÁNH GIÁ VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI
Chương 3: Một số kiến nghị nhằm bảo đảm quyền của người đồng giới dưới
góc độ quyền con người

3


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI DƯỚI GĨC
ĐỘ QUYỀN CON NGƯỜI
1.1. Khái qt chung về hơn nhân đồng giới
1.1.1. Khái niệm “đồng giới”
“Đồng giới” có thể hiểu là đồng tính luyến ái, hoặc đồng tính, là sự hấp
dẫn tình yêu, hấp dẫn tình dục hoặc việc yêu đương hay quan hệ tình dục giữa
những người cùng giới tính với nhau trong hồn cảnh nào đó hoặc một cách lâu
dài.
Người đồng tính khơng phải trong xã hội hiện đại mới có mà sự xuất hiện
và tồn tại người đồng tính đã được chứng minh có tính lịch sử. Tuy nhiên trong
mỗi thời điểm lịch sử những vấn đề pháp lý liên quan đến người đồng tính đến
nay đối với mỗi quốc gia đều có những quy định khác nhau, sự khác nhau trong
các quy định pháp luật của mỗi quốc gia có nhiều yếu tố tác động đến như yếu
tố chính trị, yếu tố văn hóa, truyền thống, tôn giáo, đạo đức…
Tuy nhiên trên thế giới hiện nay đều thống nhất về khái niệm về người
đồng tính như sau: Nói về cộng đồng những người đồng tính nữ (Lesbian), đồng
tính nam(Gay), những người song tính (Bisexual), chuyển giới (Transgender) và
người liên giới tính (Intersex) viết tắt LGBTI.
Người đồng tính: Người đồng tính (Lesbian, Gay) là người có cảm giác

hấp dẫn về tình cảm, thể chất với người cùng giới.
Người song tính: Người song tính (Bisexsual) là người khơng cho rằng
mình mang giới tính khác với giới tính sinh học của bản thân và bị hấp dẫn với
cả hai giới tính nam và nữ.
Người dị tính: Người dị tính là người có cảm giác hấp dẫn về tình cảm,
thể chất với người khác giới.
Người chuyển giới: Người chuyển giới (Transgender) là trạng thái khi một
người có giới tính sinh học không trùng với bản dạng giới hay thể hiện giới của
họ (ví dụ có cơ thể là nam và nghĩ mình là nữ, hoặc bề ngồi như nữ).

4


Người chuyển giới liên quan tới việc người đó nhận dạng hoặc thể hiện
mình là nam hay nữ, trong khi người đồng tính lại liên quan tới việc người đó
u người cùng giới hay khác giới.
Người liên giới tính: để chỉ tất cả những trạng thái dẫn đến sự phát triển
khơng điển hình của các đặc điểm giới tính và sinh l trên cơ thể. Những trạng
thái này có thể liên quan đến những đặc điểm bất thường của các bộ phận sinh
dục bên ngoài, các cơ quan sinh sản bên trong, nhiễm sắc thể giới tính, hoặc các
hóc - mơn (hormone) giới tính.
1.1.2. Hơn nhân đồng giới
Dưới góc độ ngôn ngữ học, “hôn nhân” không phải là một cụm từ xa lạ.
Nó xuất hiện nhiều trong các cuộc trị chuyện thường ngày, và đặc biệt vào
những dịp cưới hỏi. Tuy nhiên để đưa ra được khái niệm chung nhất về nó lại có
nhiều lý giải khác nhau. Theo quan điểm của tác giả Đồn Văn Chúc trong
quyển “Văn Hóa Học”; hôn nhân được ghép bởi hai danh từ gốc Hán là “hơn”
và “nhân”. “Hơn có nghĩa là bố mẹ cơ dâu, nhân có nghĩa là bố mẹ chú rễ; hôn
nhân chỉ việc cha mẹ hai bên lấy vợ gả chồng cho con”. Các tác giả trong “Từ
điển tiếng Việt” (do Hồng Phê - chủ biên) thì cho cho rằng: “Hơn nhân là việc

nam nữ chính thức lấy nhau làm vợ chồng”.
Dưới góc độ xã hội học, hơn nhân là một trong những quan hệ cơ bản, là
nền tảng quan trọng để xây dựng gia đình ở hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Nó vừa liên quan mật thiết đến toàn bộ hệ thống xã hội, vừa ảnh hưởng trực tiếp,
thường xuyên đến đời sống của mỗi cá nhân; biểu hiện sinh động sắc thái văn
hóa dân tộc. Hơn nhân mang lại quyền lợi và trách nhiệm cho những người đã
trở thành vợ chồng. Mục đích của hơn nhân là duy trì sự kết hợp bền vững giữa
hai chủ thể trong một mối quan hệ lâu dài, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất
và tinh thần của hai bên; cũng như thực hiện việc sinh sản, sinh sản và giáo dục
con cái, giúp thể hiện rõ nét tính cách cơ bản của gia đình. Hơn nhân sẽ được xã
hội chính thức cơng nhận thơng qua lễ cưới được tổ chức theo đúng phong tục
cưới hỏi.

5


Dưới góc độ pháp lý, hơn nhân là một thể chế chịu nhiều quy định kể từ
khi xuất hiện. Nhà nước với tư cách là cơ quan quản lý xã hội. Các nhà khoa học
pháp lý, các nhà làm luật trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều quan niệm khác
nhau về hôn nhân.
Ở các nước theo hệ thống pháp luật Anh - Mỹ (Common law), phổ biến
những khái niệm như: “Hôn nhân là sự liên kết pháp lý giữa một người nam và
một người nữ với tư cách là vợ chồng”, hoặc: “Hơn nhân là hành vi hoặc tình
trạng chung sống giữa mộtngười nam và một người nữ với tư cách là vợ chồng”.
Ở Việt Nam, theo quy định tại Khoản 1, Điều 3 Luật hôn nhân và gia đình
năm 2014, thì: “Hơn nhân là quan hệ giữa vợ và chồng sau khi đã kết hơn”, cùng
với đó là quy định “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với
nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn” tại
Khoản 5 Điều 3.
Bản chất pháp lý của hôn nhân ở nước ta đã khẳng định hôn nhân không

phải là một hợp đồng mà là một sự kết hợp đặc biệt; Sự kết nối này không phụ
thuộc vào những tính tốn vật chất, mà dựa trên nền tảng tình u giữa hai cá
thể.
Từ những điều trên có thể thấy, tuy có cách hiểu khác nhau nhưng tóm lại,
quan hệ hôn nhân là quan hệ dân sự đặc biệt được hình thành trên cơ sở đời sống
vợ chồng. Để quan hệ hôn nhân được xác lập trên cơ sở pháp luật và nhận được
sự bảo vệ của Nhà nước thì phải trải qua một sự kiện pháp lý cần thiết gọi là kết
hôn. Tuy nhiên, không phải ai cũng được sử dụng quyền kết hôn để xác lập quan
hệ hơn nhân. Chủ thể là cá nhân có đầy đủ năng lực pháp luật và năng lực hành
vi; đồng thời chấp hành nghiêm chỉnh các điều kiện về nội dung và hình thức
mới được phép kết hơn. Theo Luật Hơn nhân và Gia đình Việt Nam hiện hành,
một cuộc hơn nhân được coi là hợp pháp khi hội tụ đủ hai yếu tố sau:
Thứ nhất, ý chí tự nguyện của nam và nữ phải xuất phát từ nguyện vọng
kết hôn, được thể hiện bằng lời khai của họ trong bản đăng ký kết hôn cũng như
trước cơ quan quản lý hộ tịch theo quy định. quy định của pháp luật.

6


Thứ hai, hôn nhân chỉ được Nhà nước công nhận, khi việc xác lập quan hệ
hôn nhân mà cụ thể là việc kết hôn phải tuân theo các quy định của pháp luật về
điều kiện kết hôn và đăng ký kết hơn.
Đó là khái niệm hơn nhân truyền thống, vậy khái niệm “hơn nhân đồng
giới” là gì?
Hơn nhân đồng giới là hơn nhân giữa hai người có cùng giới tính sinh
học.
Chủ thể của quan hệ hôn nhân này là những người đồng tính, có xu hướng
tình dục đồng giới. Việc xây dựng tình cảm giữa họ cũng tuân theo một quy luật
bất di bất dịch của tự nhiên: từ tình cảm ban đầu là tình yêu, rồi đi đến kết tinh
cuối cùng là hơn nhân và gia đình. Hơn nhân đồng giới được nhìn nhận như một

xu hướng về sự đa dạng của các hình thức hơn nhân trong thời đại mới bên cạnh
hôn nhân khác giới.
1.2. Nhận thức của xã hội về hôn nhân đồng giới
1.2.1. Các quan điểm về đồng tính
Đồng tính là thuật ngữ và là một hiện tượng đã có từ rất lâu trong lịch
sử lồi người, các tài liệu đầu tiên liên quan đến người đồng tính đến từ Hy
lạp cổ đại. Mối quan hệ đó đã khơng thay thế hơn nhân giữa người nam và
người nữ, nhưng xảy ra trước và bên cạnh nó. Như đại đế Alexander và
Hephaestion, nhưng người đàn ông lớn tuổi thường sẽ là erastes (người yêu) một
thanh niên eromenos (người thân).
Ở Trung Quốc từ thời cổ đại đồng tính đã được công nhận Scholar Pan
Guangdan đi đến kết luận rằng gần như tất cả các hoàng đế trong triều đại nhà
Hán đều có một hoặc nhiều bạn tình nam. Ngồi việc là người đồng tính nam,
người đồng tính nữ cũng được mô tả trong một số cuốn sách lịch sử. Tình yêu
đồng giới đã được thể hiện trong nghệ thuật Trung Quốc. Mặc dù cịn lại ít tài
liệu, nhưng nhiều bức tranh lụa nghệ thuật có thể được tìm thấy trong các bộ sưu
tập tư nhân.
Trong thời kỳ hiện đại, đồng tính luyến ái được nhiều quốc gia quan tâm
hơn, nhiều nhà khoa học đã tiến hành các nghiên cứu về người đồng tính luyến

7


ái, trước thế kỷ XIX nhiều nước đã đưa đồng tính luyến ái vào danh sách các
bệnh tâm thần. Quan điểm cho rằng đồng tính luyến ái là một chứng rối loạn tâm
lý là một quan niệm phổ biến ở phương Tây từ thế kỷ 19 và một phần của thế kỷ
20, và nó có lẽ đã lan rộng cùng với sự phổ biến của y học phương Tây. Vào
những thập kỷ cuối của thế kỷ XX, khoa học khẳng định đồng tính khơng phải
là bệnh. Nhiều quốc gia đã lần lượt loại bỏ đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh
tâm thần, bắt đầu từ Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ đã loại bỏ đồng tính ra khỏi danh

sách các bệnh tâm thần vào năm 1973. Ở Trung Quốc năm 2001 cũng đã loại bỏ
đồng tính luyến ái. đồng tính luyến ái khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Đồng
tính được coi là một phần của sự đa dạng giới tính của con người, khơng phải là
một căn bệnh, cũng khơng phải là giới tính thứ ba. Năm 1990, Tổ chức Y tế Thế
giới - cơ quan của Liên hợp quốc tư vấn cho các quốc gia về sức khỏe - đã loại
đồng tính ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Bên cạnh đó, tháng 6/2011, Hội
đồng nhân quyền của Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết khẳng định:
"mọi người đều có quyền bình đẳng, bất kể thiên hướng tình dục như thế
nào". Đến ngày 7/3/2012, Tổng thư ký Liên hợp quốc Ban Ki-moon đã có bài
phát biểu lịch sử kêu gọi các quốc gia trên toàn thế giới phi hình sự hóa đồng
tính, chấm dứt kỳ thị với những người đồng tính, lưỡng tính và chuyển giới
(thuật ngữ tiếng Anh viết tắt là LGBT).
Như vậy, quan niệm về người đồng tính rất đa dạng và điều này phản ảnh
sự đa dạng về cách hiểu thế nào là người đồng tính của xã hội. Sự đa dạng này
xuất phát từ cách nhìn nhận các khía cạnh khác nhau trong cuộc sống xã hội - từ
góc độ con người sinh học, đặc điểm cấu tạo cơ thể, thay đổi nội tiết tố bên
trong cơ thể, thể hiện giới bên ngồi, hay vai trị giới v.v… Cho dù quan niệm
về người đồng tính được nói đến ở khía cạnh nào thì hầu hết cũng dựa trên bản
chất "là hai người cùng giới yêu nhau và có ham muốn quan hệ tình dục với
nhau". Như vậy, có thể khái niệm người đồng tính là người có sự hấp dẫn về
cảm xúc hoặc tình cảm hoặc tình dục với người cùng giới. Người đồng tính nam
thường gọi là "gay" và người đồng tính nữ thường được gọi là "les"/"lesbian".
1.2.2. Các quan điểm về hôn nhân đồng giới

8


Các nước trên thế giới tồn tại nhiều kiểu hôn nhân khác nhau như hôn
nhân một vợ một chồng, một vợ một chồng, một vợ một chồng, hôn nhân giữa
những người cùng giới tính, nam và nữ chung sống như một vợ. chồng ... Riêng

đối với hôn nhân đồng giới, hiện đã có 28 quốc gia và vùng lãnh thổ công nhận
quan hệ hôn nhân này. Việc kết hôn giữa những người cùng giới tính được pháp
luật bảo vệ và điều chỉnh theo quy định của pháp luật; họ có các quyền trong
hôn nhân về nhân thân, tài sản, con cái như các cặp nam nữ bình thường. Đơn cử
Hà Lan là đất nước đầu tiên đặt ra vấn đề cơng nhận hơn nhân giữa những người
có cùng giới tính[12], từ những năm 1998 Hà Lan đã quy định về việc đăng ký
kết hợp dân sự giữa những người có cùng giới tính[13]. Cho đến năm 2001 pháp
luật Hà Lan mới thừa nhận chính thức hơn nhân hợp pháp giữa những người có
cùng giới tính lúc này quan hệ hơn nhân của họ mới được pháp luật bảo vệ và
quy định một cách rõ ràng.[14][15]
Hiện nay, câu hỏi đặt ra là khi công dân của nước được công nhận và
công dân của nước chưa được cơng nhận kết hơn thì quyền và lợi ích hợp pháp
của họ sẽ được quy định như thế nào? Có sự cơng nhận trong trường hợp này
hay không? Nếu một công dân Việt Nam kết hôn với công dân của một nước
được công nhận như Hà Lan thì quyền lợi của cơng dân hai nước sẽ như thế
nào? Vì khi hai người sống ở Hà Lan thì hơn nhân của họ sẽ được cơng nhận, họ
sẽ giống như những cặp vợ chồng hợp pháp khác. Họ sẽ có quyền theo đuổi hơn
nhân, được bảo đảm các quyền và lợi ích mà con người đáng được hưởng, khi
có tranh chấp trong quan hệ hơn nhân sẽ được pháp luật ở Hà Lan điều chỉnh và
giải quyết. Nhưng khi hai người ở Việt Nam, một quốc gia chưa đặt vấn đề cơng
nhận thì quyền kết hơn của họ nói riêng và quyền con người nói chung sẽ không
được đảm bảo, quan hệ hôn nhân của họ sẽ không được công nhận. Và kết hôn
là quyền tự nhiên mà bất kỳ công dân nào cũng được hưởng, vậy trong trường
hợp này, quyền con người có cịn được đề cao và coi là quyền “tuyệt đối” hay
không?

9


Lúc này ở Việt Nam, các nhà lập pháp, nhà nghiên cứu, nhà hoạt động xã

hội, bác sĩ, luật sư đang tranh luận và đưa ra ý kiến về việc có nên ủng hộ việc
thừa nhận hơn nhân đồng giới hay khơng. trong Luật Hơn nhân và Gia đình. Cụ
thể, hiện nay có nhiều quan điểm về hơn nhân giữa những người cùng giới tính
nhưng có hai quan điểm chính đối lập nhau và mỗi quan điểm đều có những lý
lẽ riêng để bảo vệ quan điểm đó.
Thứ nhất, quan điểm nhìn nhận quan hệ hơn nhân giữa những người cùng
giới tính. Quan điểm này được xuất phát từ những lập luận dựa trên các yếu tố
tâm sinh lý và quyền con người được quy định tại Điều 3 của Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013. Dưới góc độ con người, những
người cùng giới có quyền kết hôn và mưu cầu hạnh phúc như mọi người. Vì luật
pháp được thiết kế để bảo vệ các giá trị của con người, nên không thể từ chối
quyền con người của họ vì sự khác biệt về xu hướng tính dục. Bên cạnh đó,
đồng tính khơng phải là bệnh nên người đồng tính có quyền lựa chọn xác lập
quan hệ hơn nhân theo ý muốn của mình. Năm 1973, Hội đồng quản trị Hiệp hội
Tâm thần Hoa Kỳ - tổ chức nghiên cứu tâm thần học lớn nhất thế giới - đã loại
bỏ đồng tính luyến ái ra khỏi danh sách các bệnh tâm thần. Hành động này được
thực hiện sau khi xem xét các tài liệu khoa học và lời khuyên của chuyên gia
trong lĩnh vực này, họ nhận thấy rằng đồng tính khơng đáp ứng các tiêu chuẩn
để được coi là một bệnh tâm thần[19][20]. Vì những suy nghĩ lạc hậu đó, nhiều
người đồng tính phải sống trong vỏ bọc, một trong hai người phải thiết lập một
mối quan hệ hoặc một cuộc hôn nhân khác để che giấu giới tính thật của mình.
Điều này khơng chỉ ảnh hưởng đến quyền lợi của chính họ mà cịn ảnh hưởng
đến những người xung quanh. Vì vậy, việc thừa nhận hơn nhân giữa những
người cùng giới tính sẽ giảm kỳ thị, phân biệt đối xử và định kiến xã hội, khiến
mọi người có cái nhìn cởi mở hơn về quan hệ hơn nhân cùng giới tính.
Thứ hai, quan điểm không thừa nhận quan hệ hôn nhân giữa những người
cùng giới tính. Quan điểm này chủ yếu dựa trên nguyên tắc bảo vệ các giá trị
văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam. Các giá trị hôn nhân truyền
thống bị phá vỡ, làm mất đi bản sắc truyền thống dân tộc vốn có. Nhìn nhận về


10


mối quan hệ giữa những người cùng giới tính, bên cạnh những mặt tích cực, ở
khía cạnh nào đó, nó có thể khiến một bộ phận giới trẻ có những suy nghĩ chưa
chín chắn dẫn đến những suy nghĩ lệch lạc, coi đó là một trào lưu, trào lưu. Hậu
quả là mối quan hệ này bị ảnh hưởng nghiêm trọng và tạo ra những định kiến
khó thay đổi trong xã hội. Ngồi ra, khi chấp nhận quan hệ hơn nhân đồng giới,
thế hệ tương lai có thể hiểu nhầm rằng hơn nhân khơng phải vì con cái mà chỉ
đơn giản là sự gắn kết quan hệ và thỏa mãn nhu cầu cá nhân của vợ, chồng.
trong quan hệ hôn nhân. Kết hơn là tạo dựng gia đình, gia đình phải đảm bảo
chức năng ni dưỡng và xã hội hóa trẻ em, nhưng các cặp đồng giới không
được đảm nhận vai trò này.
Như vậy, mỗi quan điểm khi nêu ra đều có lý lẽ và có cơ sở nhất định.
Khơng thể phủ nhận rằng hôn nhân giữa những người cùng giới tính khơng phải
là một vấn đề mới hiện nay. Đây là vấn đề gây nhiều tranh cãi đối với xã hội
cũng như các nhà làm luật, nhưng tựu chung lại, mục đích hướng tới là hồn
thiện pháp luật Việt Nam về hôn nhân cùng giới.
1.3. Quyền kết hôn giữa người đồng giới dưới góc độ quyền con người
1.3.1. Khái niệm quyền con người
Quyền con người là một phạm trù nhiều mặt, do đó có nhiều định nghĩa
khác nhau. Theo một tài liệu của Liên hợp quốc, gần 50 định nghĩa về quyền
con người đã được công bố. Mỗi định nghĩa đều tiếp cận vấn đề ở một góc độ
nhất định, chỉ ra những thuộc tính nhất định, nhưng khơng có định nghĩa nào
bao hàm tất cả các thuộc tính của quyền con người.
Ở cấp độ quốc tế, định nghĩa của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về
quyền con người thường được các nhà nghiên cứu trích dẫn. Theo định nghĩa
này, quyền con người là bảo đảm pháp lý phổ quát bảo vệ các cá nhân và
nhóm chống lại các hành vi hoặc thiếu sót làm tổn hại đến nhân phẩm, quyền
và tự do của con người. bởi cơ sở của con người.

Bên cạnh định nghĩa trên, một định nghĩa khác thường được sử dụng

11


trích dẫn. Theo đó, quyền con người là quyền mà mọi thành viên trong cộng
đồng con người, không phân biệt giới tính, chủng tộc, tơn giáo, địa vị xã hội ...
có quyền ngay từ khi sinh ra. đơn giản vì họ là con người.
Định nghĩa này mang dấu ấn của học thuyết về quyền tự nhiên.
Ở Việt Nam, một số định nghĩa về quyền con người được một số
chuyên gia và cơ quan nghiên cứu đưa ra khơng hồn tồn giống nhau, nhưng
nhìn chung, quyền con người thường được hiểu là những nhu cầu và lợi ích tự
nhiên. Tuy nhiên, bản chất vốn có và khách quan của con người được thừa
nhận và bảo vệ trong luật quốc gia và các hiệp định pháp lý quốc tế.
Như vậy, ở bất kỳ góc độ nào và ở cấp độ nào, quyền con người cũng
được xác định là những tiêu chuẩn được cộng đồng quốc tế thừa nhận và tuân
thủ. Những chuẩn mực này kết tinh những giá trị nhân văn của toàn nhân loại,
chỉ áp dụng cho con người, cho tất cả mọi người. Nhờ những tiêu chuẩn này,
mọi thành viên trong gia đình nhân loại có thể được bảo vệ nhân phẩm và có
cơ hội phát triển tồn bộ tiềm năng của cá nhân với tư cách là một con người.
Mặc dù có những khác biệt nhất định về quan điểm, nhưng rõ ràng quyền con
người là giá trị cao quý cần được tôn trọng và bảo vệ trong mọi xã hội và
trong mọi thời kỳ lịch sử.
1.3.2. Vấn đề quyền kết hơn giữa người đồng giới dưới góc độ quyền
con người
Theo truyền thống chung dựa trên các nền văn hóa thì quan niệm đồng
tính và sinh hoạt đồng tính luôn được coi là quan niệm và sinh hoạt bất bình
thường, bệnh hoạn. Tâm lý và tâm thần học cũng xếp xu hướng và hành động
đồng tính vào danh sách bệnh lý. Không những thế, xét về mặt luân lý và đạo
đức khuynh hướng và hành động này còn được coi như một trọng tội.

Tuy nhiên, do ảnh hưởng của nền văn minh hiện đại, và do những tư
duy đổi mới, phóng khống hiện nay, theo sau quyết định của Hiệp Hội
Các Nhà Tâm Thần Học vào năm 1973, năm 1975 Hiệp Hội Các Nhà Tâm Lý
Học Hoa Kỳ cũng đã loại khỏi danh sách tâm bệnh những suy nghĩ và hành
động đồng tính. Như vậy, từ sau năm 1975 cả tâm thần học và tâm lý học

12


khơng cịn xếp quan niệm và hành động đồng tính trong danh sách những hội
chứng tâm bệnh hay tâm lý nữa. Sau đó, năm 1990 Cơ Quan Y Tế Thế Giới
cũng cơng nhận rằng đồng tính khơng phải là “bệnh”. Và gần đây nhất năm
2001, Hiệp Hội Các Nhà Tâm Thần Học Trung Hoa cũng đã loại bỏ đồng tính
khỏi danh sách tâm bệnh.
Trong cộng đồng xã hội, người đồng tính cũng là Con Người, như mọi
Con Người khác, cũng khơng nên nói là Con Người bình thường hay Con
Người dị thường. Như vậy, họ có mọi quyền và nghĩa vụ làm Người như mọi
người khác. Tổ chức Y tế Thế giới coi họ là một nhóm người, nhưng khơng
có nghĩa là Tổ chức này đặt họ là một nhóm đối lập với “nhóm” cịn lại là
những người có tình yêu và tình dục khác giới. Hơn nữa, người đồng tính
cũng là cơng dân, họ có mọi quyền và nghĩa vụ của một công dân theo quy
định của pháp luật. Do đó, họ cũng có những quyền bình đẳng như mọi cơng
dân khác. Quyền bình đẳng, vừa là một quyền, vừa là một nguyên tắc của
Luật Nhân quyền Quốc Tế. Mọi cá nhân, khơng phân biệt giới tính, tơn giáo,
sắc tộc, địa vị đều được quyền đó, trong mọi lĩnh vực của đời sống, kể cả lĩnh
vực hôn nhân. Tuy vậy, cho đến nay, do chịu sự chi phối của yếu tố truyền
thống nên Luật Nhân quyền Quốc Tế dường như chưa thể được vận dụng để
bảo vệ quyền kết hơn của những người đồng tính, cho dù Cơng ước Quốc tế
về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR, được Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc
thông qua vào năm 1966, Việt Nam trở thành thành viên từ năm 1982) bảo vệ

quyền kết hôn của mọi người tại Điều 23:
“Gia đình là đơn vị tự nhiên và căn bản trong xã hội và phải được xã
hội và quốc gia bảo vệ. Thanh niên nam nữ đến tuổi thành hơn có quyền
kết hơn và lập gia đình. Hơn thú chỉ được thành lập nếu có sự ưng thuận hồn
tồn tự do của những người kết hơn”.
Nhìn dưới góc độ Quyền con người thì quyền của người đồng tính cần
được ghi nhận và bảo vệ trong pháp luật. Quyền con người trong pháp luật là
sự cụ thể hóa các quyền tự nhiên của con người vào một cơ chế rõ ràng, minh
bạch. Có thể thấy, việc thừa nhận và bảo vệ quyền cho người đồng tính, một

13


phạm trù của quyền tự nhiên chỉ mang tính khả thi khi được pháp luật chính
thức hóa và pháp lý hóa. Quy định quyền của người đồng tính trong pháp luật
vừa đảm bảo cho người đồng tính có cơ sở pháp lý vững vàng để tự bảo vệ
quyền lợi cho chính mình và vừa đảm bảo sự tn thủ, tơn trọng các quyền đó
của các chủ thể khác trong xã hội.
Cũng giống như các chủ thể khác trong xã hội, quyền kết hôn của người
đồng giới được hiểu là những nhu cầu, khả năng, đặc quyền tự nhiên vốn có.
Điều này được thể hiện qua hai góc độ: (i) sự công bằng trong quyền được
sống và được tự do; (ii) quyền mưu cầu hạnh phúc.
Về sự công bằng trong quyền được sống và được tự do, người đồng giới
là người bình thường như mọi cá nhân khác trong xã hội có khả năng thực
hiện các nghĩa vụ và được quyền hưởng các quyền bình đẳng, ngang bằng
như những người khác. Một trong những quyền quan trọng nhất là quyền
được công nhận và tơn trọng. Xã hội cần nhìn nhận người đồng giới như
người bình thường với đầy đủ các quyền và nghĩa vụ, không được phép miệt
thị, xúc phạm hoặc coi họ như những bệnh nhân lệch lạc về tâm thần. Quyền
tự nhiên cho rằng “con người sinh ra tự do”[4], trong đó, theo John Locke

(1632-1704) [16] thì tự do là khả năng con người có thể làm bất cứ điều gì mà
mình mong muốn mà khơng gặp bất kì cản trở nào. Như vậy, quyền cơng khai
xu hướng tính dục và bản dạng giới của mình và được sống theo bản năng của
xu hướng tính dục, bản dạng giới đó là một phần của quyền tự do. Nhưng trên
thực tế, những người đồng giới khi công khai xu hướng tính dục và bản dạng
giới của mình, khi thực hiện quyền “tự do” nói trên, họ gặp rất nhiều trở ngại
từ những định kiến, quan điểm sai trái của xã hội, dẫn đến thiệt thòi cho họ.
Hạn chế của quan điểm trên của John Locke là quá đề cao quyền tự do của cá
nhân mà không chú ý đến lợi ích chung của toàn xã hội và lợi ích hợp pháp
của cá nhân khác. Tuy nhiên, xét để yêu cầu được cơng khai và được xã hội
cơng nhận thì u cầu này của những người đồng giới hồn tồn khơng ảnh
hưởng hay đe dọa đến lợi ích hợp pháp chung.

14


Về quyền mưu cầu hạnh phúc, Trước hết, cần hiểu mưu cầu hạnh phúc
là một hình thức biểu hiện của tự do, con người bằng khả năng của mình mà
mưu cầu hạnh phúc và sống những giá trị cho mình. Điều này thể hiện rõ
trong mọi chế độ chính trị - xã hội. Một trong những giá trị sống đó được tạo
nên từ việc kết hơn, xây dựng gia đình hạnh phúc và được nhà nước tôn trọng,
bảo vệ. Đối với những người thuộc cộng đồng đồng giới, việc kết hơn là một
việc tương đối khó khăn vì quyền kết hôn của các cặp đôi đồng giới không
được công nhận ở khắp mọi nơi hoặc hình thức hơn nhân đơi khi bị thay thế
bằng các hình thức pháp lý khác hạn chế hơn. Ví dụ, hiện nay có những hình
thức pháp luật thừa nhận việc chung sống hợp pháp của các cặp đồng tính
như: cho phép kết hơn như các cặp đơi khác giới, cơng nhận dưới hình thức
kết hợp dân sự (civil union) như kết hợp dân sự, đối tác chung nhà (domestic
partnership), hình thức hợp danh (partnership)… Về mặt pháp lý, họ được coi
như một cặp vợ chồng, nhưng trên thực tế, họ bị hạn chế hơn so với các cặp

khác giới khác trong việc được hưởng các chính sách về miễn giảm thuế
chung cho vợ chồng, các chế độ an sinh xã hội, bảo hiểm, quyền lợi, quyền
nhận con nuôi, thừa kế,… Mặt khác, giá trị pháp lý của giấy chứng nhận kết
hợp dân sự nêu trên là rất hạn chế, khơng đương nhiên có giá trị trên phạm vi
toàn quốc. hoặc toàn thế giới. Hầu hết các loại hình kết hợp dân sự trên chỉ có
hiệu lực trong phạm vi các bang và khu vực cho phép đăng ký kết hôn đồng
giới, điều này đã gây ra nhiều khó khăn cho các cặp vợ chồng trên khi di
chuyển, thay đổi nơi cư trú.
Cũng cần lưu ý rằng mặc dù bản chất của quyền đồng giới là một nhu
cầu tự nhiên, nhưng không phải lúc nào việc công nhận các quyền này cũng
đầy đủ như đối với các chủ thể khác trong xã hội. Điều này còn phụ thuộc vào
nhiều yếu tố khác nhau như truyền thống, chính trị, tơn giáo… ở mỗi quốc gia
và khu vực.
1.4. Tác động của kết hôn đồng giới đến xã hội
Viện Nghiên cứu Xã hội, Kinh tế và Môi trường (iSEE) và Trung tâm
Nghiên cứu Chiến lược và Kinh tế Việt Nam (VESS) vừa công bố nghiên cứu

15


đầu tiên tại Việt Nam về tác động của hôn nhân đồng giới đối với nền kinh
tế[11].
Lợi ích này đến từ việc gia tăng các lựa chọn về quyền tài sản, quyền
nhận con ni và quyền chăm sóc trẻ em, cải thiện năng suất lao động của người
LGBT và sự ra đời của các ngành kinh tế mới liên quan đến LGBT. khi hôn
nhân đồng giới được công nhận, tăng khả năng cạnh tranh và thu hút nguồn lực
quốc gia ...
Nhóm đã xây dựng các mơ hình mơ phỏng tác động kinh tế của việc hợp
pháp hóa hơn nhân đồng giới, bao gồm một mơ hình dự đốn chi phí trực tiếp
của việc giảm thiểu từ việc giảm các rối nhiễu tâm lý (dựa trên số năm kết hôn).

tuổi thọ có thể bị giảm do các bệnh tâm lý); mơ hình ước tính mức tăng năng
suất lao động tác động đến GDP nếu những người đồng tính, song tính và
chuyển giới (LGBT) được chuyển đến sống trong môi trường xã hội cởi mở
hơn; và một mơ hình ước tính mức tăng trưởng doanh số bán hàng trong các
ngành liên quan vốn có truyền thống loại trừ việc cung cấp hàng hóa và dịch vụ
cho người LGBT.
Theo đó, việc thừa nhận hôn nhân đồng giới sẽ tiết kiệm cho Việt Nam từ
13 triệu USD đến 71 triệu USD mỗi năm chi phí phát sinh từ những thiệt hại do
rối loạn tâm lý (rối loạn trầm cảm và rối loạn lo âu). lo lắng) do tình trạng thiểu
số của người LGBT.
Việc cơng nhận hôn nhân đồng giới cũng sẽ làm tăng năng suất lao động,
nhưng tác động của sự thay đổi sẽ không xảy ra một lúc mà kéo dài trong nhiều
năm. “Việt Nam sẽ mất khoảng 10 năm để hồi phục sau chấn thương tâm lý và
cung cấp đầy đủ cơ chế hịa nhập cho người LGBT”, đại diện nhóm nghiên cứu,
ông Phạm Quốc Việt từ VESS cho biết.
“Trong ngắn hạn, lợi ích GDP bổ sung có thể dao động từ 0,16% đến 0,44% /
năm dựa trên tốc độ tăng của GDP cơ sở. Đó là những con số rất ấn tượng trong
bối cảnh tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của cả nước hiện ở mức 6-7% ”,
ông Việt cho biết thêm.

16


Công nhận hôn nhân đồng giới cũng mang lại lợi ích doanh thu bổ sung từ
5,26% đến 12,36% cho các ngành liên quan như tổ chức đám cưới, đồ dùng trẻ
em, giáo dục trẻ em (giả sử công dân LGBT sử dụng hàng hóa ở mức độ tương
tự như cơng dân dị tính).
Qua tính tốn, nhóm nghiên cứu kết luận rằng tác động của hôn nhân
đồng giới ở Việt Nam là “rất đáng kể” và “đa dạng, đến từ nhiều khía cạnh khác
nhau” - từ cá nhân, gia đình, doanh nghiệp. , đối với xã hội và bối cảnh quốc tế.

Các tác giả của báo cáo khuyến nghị Việt Nam nên thực hiện một chương
trình thay đổi nhận thức ở cấp quốc gia, hướng tới việc công nhận những người
LGBT khơng bị loại trừ khỏi pháp luật (ví dụ như luật dân sự, luật hơn nhân và
gia đình) và khơng bị phân biệt đối xử - dù cố ý hay vơ ý - trong các tổ chức xã
hội có liên quan như giáo dục, y tế, doanh nghiệp, tôn giáo, v.v.
Tại Việt Nam, Luật Hơn nhân & Gia đình (2014) đã chính thức bỏ quy
định cấm kết hơn đồng giới, nhưng vẫn chưa thừa nhận hôn nhân của các cặp
đồng tính này ở Việt Nam. Tuy nhiên, trong 7 năm qua, cộng đồng người đồng
tính, song tính và chuyển giới (LGBT) và bối cảnh văn hóa, xã hội, luật pháp
xung quanh họ đã có nhiều thay đổi theo hướng cởi mở hơn.
Việc chung sống, kết hôn và nuôi dạy con cái của các cặp đồng tính ngày
càng trở nên phổ biến ở Việt Nam, được sự đồng tình ủng hộ của nhiều gia đình,
người thân. Nhưng khi chưa được pháp luật thừa nhận và bảo vệ, các gia đình
LGBT vẫn gặp nhiều trở ngại trong việc chung sống và nuôi dạy con cái.
Cộng đồng LGBT tại Việt Nam trong nghiên cứu được xác định chiếm
khoảng 9 -11% dân số, dựa trên sự phân bố của tỷ lệ LGBT trung bình trên thế
giới.

17


CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ NHU CẦU THỪA NHẬN
HÔN NHÂN ĐỒNG GIỚI Ở VIỆT NAM
2.1. Quy phạm pháp luật quốc tế của một số quốc gia trên thế giới về
quyền kết hơn của người đồng tính:
Trên thế giới, vào ngày 7/12 các nhà lập pháp Chile đã thông qua sự luật
hôn nhân đồng giới và đến nay đã có 30 quốc gia cơng nhận hơn nhân đồng giới
là hợp pháp.
Đan Mạch là quốc gia đầu tiên tiến hành kết hôn dân sự nhưng về việc
trao quyền nhiều hơn cho người đồng tính thì Hà Lan là nước đầu tiên cho phép

hơn nhân đồng tính (04/2001)
Kể từ đó, 16 quốc gia châu Âu khác đã chấp nhận hôn nhân đồng tính
gồm Áo, Bỉ, Anh, Đan Mạch, Phần Lan, Pháp, Đức, Iceland, Ireland,
Luxembourg, Malta, Na Uy, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Thụy Điển và gần đây
nhất là Thụy Sĩ.
Các quốc gia châu Âu khác chỉ cho phép các quan hệ đối tác dân sự yếu
hơn đối với cộng đồng LGBT. Croatia, Cyprus, Cộng hòa Czech, Estonia, Hy
Lạp, Hungaria, Italy và Slovenia đã từ chối công nhận hôn nhân đồng tính trong
một cuộc trưng cầu dân ý vào năm 2015.
Sau đó, Chính phủ Cộng hịa Czech đã ủng hộ dự thảo luật trên, đưa nước
này trở thành thành viên tiêp theo của Liên minh châu Âu hợp pháp hóa hơn
nhân đồng giới.
Ở Romania, một cuộc trưng cầu dân ý nhằm đưa lệnh cấm kết hơn đồng
tính vào hiến pháp đã thất bại vào năm 2018 vì tỷ lệ cử tri đi bầu thấp.
Châu Âu chính là tiên phong mở đầu cho việc hợp pháp hóa hơn nhân
đồng tính.
Tuy nhiên Luật pháp về quan hệ đồng tính nói chung hay về hôn nhân
đồng giới rất khác biệt ở các nước là khác nhau. Vẫn cịn có một số các quốc gia
cấm cản triệt để, coi đó là phạm pháp và xử phạt rất nặng nề
Ở đây chúng ta có thể kể đến một số các văn bản nổi bật liên quan tới
người đồng tính như : Hiến chương Liên hợp quốc, Những nguyên tắc
Yogakarta, bộ luật nhân quyền do Liên hợp quốc soạn thảo (1948), Công ước
Cedaw (1979) mà Việt Nam tham gia ngày 27/11/1981, Cơng ước các quyền
dân sự- chính trị (1966) cùng hai nghị định thư đính kèm và công ước quốc tế về

18


các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa ( có hiệu lực năm 1976), Nghị quyết nhân
quyền về việc đối xử và bạo lực đối với người đồng tính, song tính và chuyển

giới được Việt Nam bỏ phiếu thơng qua vào ngày 26/9/2014.
Theo báo các của tổ chức ILGA (International Lesbian, Gay, Bisesexual,
Trans and Intersex Association) thì cho đến tháng 5/2010 đã có 32 quốc gia trên
thế giới chấp nhận đồng tính nữ chứ khơng chấp nhận đồng tính nam và có tới
44 quốc gia trên thế giới cấm quan hệ đồng tính. Nhìn chung , quan hệ đồng tính
đã phần nào có được một cái nhìn bớt khắt khe hơn, tuy nhiên người đồng tính
vẫn khơng biết có thể sử dụng quy định pháp luật nào để tự bảo vệ mình trong
trường hợp quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm. Vấn đề nhận thức về quyền
để bảo vệ người LGBT cũng khá hạn chế.
Một số nước trên thế giới nhận thấy việc ngăn cấm kết hôn đồng tính là vi
phạm trên góc độ nhân quyền. Và theo quan điểm nghiên cứu đề tài của nhóm
thì chúng tơi hồn tồn đồng ý với quan điểm này dù việc hơn hơn đồng tính cịn
chưa được nhiều quốc gia cơng nhận và cho rằng đó là vi phạm đạo đức nghiêm
trọng.
Theo thống kê dưới đây đến ngày 15/06/2012 thì đã có 11 nước trên thế
giới hợp pháp hóa hơn nhân đồng giới ( nếu tính cả hình thức Nhà nước Liên
bang thì số lượng này là 21).
Bân cạnh đó cũng có 21 quốc gia và 19 vùng lãnh thổ thừa nhận hình
thứuc “kết đơi có đăng ký” cho các cặp đơi cùng giới và có 3 quốc gia cho phép
việc sống chung không đăng ký cho các cặp đôi cùng giới.
Cụ thể qua bảng sau:
Hình thức
Hơn nhân

Số quốc gia công
nhận
11 (Hà Lan, Bỉ,
Argentina,
Tây Ban Nha,
Canada,

Nam Phi, Na Uy,
Thụy
Điển, Bồ Đào
Nha,
Iceland, Đan
Mạch)

Số vùng lãnh thổ
công nhận
10 (Mexico:
Mexico City;
Hoa Kỳ:
Connecticut,
Iowa,
Massachusetts,
New
Hamsphire, New
York,
Vermont,
Wahsington,
Maryland và đặc

19

Tổng số quốc gia
và vùng lãnh thổ
21


Kết đơi có đăng



21 (Andorra, Bỉ,
Brazil,
Colombia, Cộng
hịa Séc,
Ecuador, Phần
Lan, Pháp,
Đức, Greenland,
Hungary,
Ireland, Isle of
Man,
Jersey,
Liechtensein,
Luxembourg,
New
Zealand, Slovenia,
Thụy
Sỹ, Vương quốc
Anh,
Uruguay)

Chung sống
không đăng ký
Tổng

3 (Úc, Croatia,
Israel)
35


khu thủ
đô Columbia)
19 (Úc: New
South Wales,
Queensland,
Tasmania,
Victoria, địa hạt
thủ đô
Úc; Mexico:
Coahuila;
Hoa Kỳ:
California,
Colorado,
Delaware,
Hawaii, Illinois,
Maine,
New Jersey,
Nevada,
Oregon, Rhode
Island,
Washington,
Wisconsin;
Venezuela:
Mérida)
0
29

40

3

-

Nguồn: Chuyên đề thông tin: Hôn nhân đồng giới: "Kinh nghiệm một
số nước và thực tế Việt Nam" - Viện nghiên cứu lập pháp
(phục vụ kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XIII)
Xuất phát từ nhiều quan điểm khác nhau, một số quốc gia không thừa
nhận quyền của người đồng tính, quan hệ tình dục của người đồng tính bị xem
như một tội phạm . Trên thế giới hiện nay có khoảng hơn 70 quốc gia coi hơn
quan hệ đồng tính là tội phạm. Ngay cả ở những quốc gia mặc dù luật pháp đã
thừa nhận hôn nhân đồng giới xong khơng ít phong trào ở các nước đó vẫn nổ ra
phản đối hơn nhân đồng giới. Về qui mơ phải kể đến cuộc biều tình tại Pháp
trong mấy năm gần đây. Vậy chúng ta chúng ta cùng tìm hiểu về hơn nhân đồng
giới ở một số nước trên thế giới, đầu tiên là Pháp.

20


×