Tải bản đầy đủ (.pdf) (96 trang)

Pháp luật lao động việt nam hiện hành về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 96 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA
LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
Mã số: ĐTSV.2022.28
Chủ nhiệm đề tài

: Nguyễn Phương Chi

Lớp

: Luật 19B

Giảng viên hướng dẫn : TS.Vũ Thị Thu Hằng

Hà Nội, tháng 4 năm 2022


TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH

BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƯỜI HỌC

PHÁP LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH
VỀ BẢO VỆ QUYỀN VÀ LỢI ÍCH HỢP PHÁP CỦA


LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
Mã số: ĐTSV.2022.28
Chủ nhiệm đề tài: Nguyễn Phương Chi – Lớp Luật 19B
Thành viên tham gia:
1. Trương Nguyễn Uyển Nhi

- Lớp: Luật 19B

2. Đỗ Ánh Nguyên

- Lớp: Luật 19B

Hà Nội, tháng 4 năm 2022


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là đề tài nghiên cứu khoa học của nhóm tơi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Vũ Thị Thu Hằng – Trường Đại học Nội Vụ Hà
Nội. Các luận điểm, dẫn chứng, số liệu, ví dụ nêu trong luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực.
Chủ nhiệm đề tài NCKH

Nguyễn Phương Chi


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu: ................................................................. 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:............................................................... 5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:............................................................... 5
5. Phương pháp nghiên cứu:............................................................................. 5
6. Tính khó và tính mới của đề tài: ................ Error! Bookmark not defined.
7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu khoa học....................................................... 6
NỘI DUNG.......................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA
THÀNH NIÊN VÀ BẢO VỆ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN .............. 7
1.1. Lao động chưa thành niên và bảo vệ lao động chưa thành niên ........ 7
1.1.1. Lao động chưa thành niên .................................................................. 7
1.1.2. Bảo vệ lao động chưa thành niên ..................................................... 14
1.2. Pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên ................................... 17
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên ............... 17
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về lao động chưa thành niên . 19
1.2.3. Quy định của pháp luật về các biện pháp bảo vệ lao động chưa thành
niên ............................................................................................................. 22
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN ..................................................................................... 33
2.1. Nội dung quy định về bảo vệ việc làm đối với lao động chưa thành
niên và thực tiễn áp dụng ............................................................................ 33
2.1.1. Nội dung quy định về bảo vệ việc làm............................................. 33
2.1.2. Thực tiễn áp dụng quy định về bảo vệ việc làm .............................. 36
2.2. Nội dung quy định về bảo vệ lao động chưa thành niên trong giao kết
và thực hiện hợp đồng lao động và thực tiễn áp dụng .............................. 39
2.2.1. Nội dung quy định về bảo vệ lao động chưa thành niên trong giao kết
và thực hiện hợp đồng lao động ................................................................. 39
2.2.2. Thực tiễn áp dụng quy định về bảo vệ lao động chưa thành niên trong
giao kết và thực hiện hợp đồng lao động ................................................... 42
2.3. Nội dung quy định về bảo đảm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi
và thực tiễn áp dụng ..................................................................................... 44

2.3.1. Nội dung quy định về bảo đảm thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi .... 44
2.3.2. Thực tiễn áp dụng quy định về bảo đảm thời giờ làm việc, thời giờ
nghỉ ngơi..................................................................................................... 47
2.4. Nội dung quy định về bảo vệ tiền lương của lao động chưa thành niên
và thực tiễn áp dụng ..................................................................................... 50


2.4.1. Nội dung quy định về bảo vệ tiền lương .......................................... 50
2.4.2. Thực tiễn áp dụng quy định về bảo vệ tiền lương............................ 51
2.5. Nội dung quy định về bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động đối
với lao động chưa thành niên và thực tiễn áp dụng .................................. 53
2.5.1. Nội dung quy định về bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động.........53
2.5.2. Thực tiễn áp dụng quy định về bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao
động ............................................................................................................ 55
2.6. Nội dung quy định về bảo vệ lao động chưa thành niên trong xử lý kỷ
luật lao động, giải quyết tranh chấp lao động và thực tiễn áp dụng ....... 56
2.6.1. Nội dung quy định về bảo vệ lao động chưa thành niên trong xử lý kỷ
luật lao động và giải quyết tranh chấp lao động ........................................ 56
2.6.2. Thực tiễn áp dụng quy định về bảo vệ lao động chưa thành niên trong
xử lý kỷ luật lao động và giải quyết tranh chấp lao động .......................... 59
CHƯƠNG 3. ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT LAO ĐỘNG VIỆT NAM HIỆN HÀNH VỀ BẢO VỆ LAO ĐỘNG
CHƯA THÀNH NIÊN ..................................................................................... 64
3.1. Định hướng hoàn thiện pháp luật về lao động chưa thành niên ...... 64
3.1.1. Bảo đảm phù hợp tiêu chuẩn lao động quốc tế ................................ 64
3.1.2. Bảo vệ quyền trẻ em ......................................................................... 65
3.1.3. Bảo đảm phù hợp với chính sách kinh tế - xã hội ở Việt Nam ........ 66
3.1.4. Phòng ngừa và giảm thiểu lao động chưa thành niên ...................... 67
3.2. Hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ lao
động chưa thành niên ................................................................................... 68

3.2.1. Hoàn thiện chế định pháp luật về việc làm và bảo đảm việc làm .... 68
3.2.2. Hoàn thiện chế định pháp luật về giao kết và thực hiện hợp đồng lao
động đối với lao động chưa thành niên ...................................................... 70
3.2.3. Hoàn thiện chế định pháp luật về tiền lương đối với lao động chưa
thành niên ................................................................................................... 73
3.2.4. Hoàn thiện chế định pháp luật về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ
ngơi của lao động chưa thành niên............................................................. 74
3.2.5. Hoàn thiện chế định pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động
đối với lao động chưa thành niên ............................................................... 75
3.2.6. Hoàn thiện chế định pháp luật về xử lý kỷ luật lao động, giải quyết
tranh chấp lao động đối với lao động chưa thành niên .............................. 76
3.2.7. Hồn thiện chính sách, pháp luật về phòng ngừa và giàm thiểu lao động
chưa thành niên....................................................................................................81

KẾT LUẬN ....................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 84
PHỤ LỤC...........................................................................................................87


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam ta đang bước vào công cuộc công nghiệp
hoá, hiện đại hoá và hội nhập quốc tế sâu rộng, cùng với đó là những tác động của
cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 nên đã đặt ra một yêu cầu rất lớn đối với việc giải
quyết vấn đề lao động và việc làm. Mở rộng thị trường, phát triển kinh tế - xã hội sẽ
đồng thời đem lại nhiều lợi ích song cũng mang đến nhiều tác động tiêu cực. Đó vừa là
cơ hội nhưng cũng vừa là thách thức đối trong việc sử dụng lao động, đặc biệt là lao
động chưa thành niên. Do đó, một trong những vấn đề quan trọng đặt ra hiện nay đó
chính là pháp luật về lao động Việt Nam cần phải tạo ra cơ chế tốt nhất nhằm để bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên với yêu cầu vừa đáp ứng

các tiêu chuẩn lao động quốc tế vừa thống nhất với hệ thống pháp luật Việt Nam, phù
hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam và bảo đảm thích ứng với các
tiêu chuẩn quốc tế về sử dụng lao động chưa thành niên. Đặc biệt là việc giải quyết
được mối tương quan trong quan hệ lợi ích giữa các bên trong quan hệ lao động.
Hiện nay, Bộ luật Lao động năm 2019 và các văn bản pháp luật hiện hành khác
đã có những bước tiến lớn trong việc quy định các vấn đề liên quan đến lao động chưa
thành niên, qua đó tạo nên hành lang pháp lý quan trọng và tối ưu nhất để bảo vệ
quyền và lợi ích của lao động chưa thành niên. Song, thực tế, việc áp dụng pháp luật
còn nhiều điểm bất cập và cần có định hướng, giải pháp để nâng cao hiệu quả thực thi
pháp luật đối với lao động chưa thành niên. Bởi, pháp luật về lao động Việt Nam hiện
hành cịn nhiều mâu thuẫn. Điển hình là ở một số chế định liên quan đến độ tuổi lao
động tối thiểu, hợp đồng lao động, thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương,
các danh mục công việc hay an toàn vệ sinh lao động, kỷ luật lao động đối với lao
động chưa thành niên còn nhiều khoảng trống, hạn chế trong việc thi hành trên thực tế.
Và thực tiễn hiện nay cũng cho thấy, việc thực hiện các quy định pháp luật về lao động
chưa thành niên chưa nghiêm túc, chưa đạt hiệu quả cao. Tình trạng lao động chưa
thành niên tham gia vào quan hệ lao động nhưng chưa được ký kết hợp đồng lao động
bằng văn bản, phần lớn là hợp đồng bằng lời nói nên khơng có ràng buộc về mặt pháp
lý giữa người sử dụng lao động và người lao động chưa thành niên, nếu có ký kết hợp
đồng lao động thì hầu hết chưa quy định rõ thời gian làm việc, chế độ nghỉ ngơi. Tình
trạng lao động chưa thành niên làm việc ở những ngành nghề nặng nhọc, độc hại, nguy
hiểm hoặc nơi làm việc cấm sử dụng lao động chưa thành niên như công trường xây
dựng, nấu bếp, phục vụ ở các phòng hát karaoke, cơ sở lưu trú, khách sạn, nhà
nghỉ…vẫn còn diễn ra; nhiều cơ sở sử dụng lao động trong độ tuổi chưa thành niên,
khơng đăng ký khai trình lao động với cơ quan quản lý lao động địa phương, do đó rất
khó khăn trong cơng tác quản lý, giám sát.
1


Như vậy, vấn đề liên quan đến lao động chưa thành niên hiện nay cịn nhiều bất

cập và cần có những giải pháp để giải quyết bởi nó ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
của lao động chưa thành niên cũng như ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của
nhóm lao động này. Chính vì vậy, nhóm nghiên cứu chúng em lựa chọn đề tài “Pháp
luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động
chưa thành niên” để có cái nhìn tồn diện, sâu sắc về các vấn đề liên quan đến lao
động chưa thành niên và nghiên cứu các quy định pháp luật về lao động chưa thành
niên trong hệ thống pháp luật nói chung và Bộ luật Lao động năm 2019 nói riêng để
qua đó phân tích, đánh giá những quy định này cũng như thực tiễn áp dụng pháp luật
với vấn đề lao động chưa thành niên và trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp, kiến
nghị hoàn thiện pháp luật để bảo về quyền và lợi ích cho lao động chưa thành niên.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu:
- Tình hình nghiên cứu trong nước:
Cho đến nay đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học nghiên cứu về lao
động chưa thành niên như các luận văn, luận án, các tạp chí khoa học pháp lý chuyên
ngành. Tuy nhiên, mỗi nghiên cứu đề cập đến vấn đề này dưới một góc độ khác nhau
và chưa có nhiều cơng trình nghiên cứu về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao
động chưa thành niên theo pháp luật hiện hành mà mới chỉ dừng lại nghiên cứu vấn đề
lao động chưa thành niên ở các Bộ luật Lao động giai đoạn trước đó. Thực tế, Bộ luật
Lao động năm 2019 mới có hiệu lực thi hành nên nhìn nhận một cách tổng quan, có rất
ít các đề tài nghiên cứu về những thay đổi trong quy định pháp luật hiện hành liên
quan đến vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên.
Nhóm 1, các cơng trình nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và nguyên tắc sử
dụng lao động chưa thành niên. Đây là vấn đề lý luận chung mang tính khái quát về
lao động chưa thành niên và thực tế, hầu hết các cơng trình nghiên cứu về lao động
chưa thành niên đều nghiên cứu vấn đề này.
Hiện nay, các vấn đề về lao động chưa thành niên được đề cập trong trong các
giáo trình Luật lao động của một số cơ sở đào tạo luật như Trường Đại học Luật Hà
Nội, Khoa Luật Đại học quốc gia Hà Nội,…Trong phạm vi nghiên cứu và mục đích
của cuốn giáo trình nên vấn đề lao động chưa thành niên được đề cập tương đối khái
quát, ngắn gọn để người đọc dễ hiểu, dễ tiếp cận và thường nằm xen kẽ trong các nội

dung về liên quan đến các phần học nghề, hợp đồng lao động, tiền lương, thời giờ làm
việc, thời giờ nghỉ ngơi…Do được thể hiện dưới hình thức giáo trình nên các nội dung
này chủ yếu là sự cụ thể hoá các quy định của pháp luật, khơng nghiên cứu chun sâu
và tồn diện về lao động chưa thành niên nên mới chỉ đưa ra khung lý thuyết cơ bản về
lao động chưa thành niên mà chưa thực sự giải quyết các vấn đề theo hướng cụ thể.
2


Bài viết “Một số vấn đề pháp lý về lao động chưa thành niên” của tác giả Đào
Mộng Điệp, đăng trên Thông tin khoa học số 13 năm 2004 của Trường Đại học Huế.
Trong bài viết này, tác giả mới chỉ sơ lược đề cập đến các vấn đề mang tính khung lý
thuyết chung về một số quy định của pháp luật lao động liên quan đến lao động chưa
thành niên như quy định về việc làm, hợp đồng lao động, tiền lương, an toàn lao động,
vệ sinh lao động. Song, về bài viết chưa nghiên cứu cụ thể về các biện pháp bảo vệ
quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên.
Luận văn Thạc sĩ của Nguyễn Thị Nhàn với đề tài “Lao động chưa thành niên
theo pháp luật lao động Việt Nam” năm 2016 về cơ bản đã khái quát đầy đủ những
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến vấn đề lao động chưa thành niên. Luận văn
đã khái quát các vấn đề lý luận chung về lao động chưa thành niên, các quy định pháp
luật liên quan đến lao động chưa thành niên cũng như thực tiễn áp dụng cũng như đưa
ra định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật với lao động chưa thành niên. Song ở
luận văn này chưa nêu cụ thể các vấn đề liên quan đến việc bảo vệ quyền và lợi lao
động chưa thành niên mà mới chỉ đề cập đến vấn đề lao động chưa thành niên dưới
góc độ pháp lý. Theo quan điểm của Luận văn, thuật ngữ lao động chưa thành niên
chưa thực sự nổi bật, được làm rõ và ở luận văn đang đồng nhất giữa “trẻ em” và
“người chưa thành niên”, có nghĩa là chưa có sự phân biệt giữa lao động trẻ em và lao
động chưa thành niên. Song, theo quan điểm của nhóm nghiên cứu, nhóm nghiên cứu
khơng hồn tồn đồng tình và sẽ giải quyết vấn đề này trong bài nghiên cứu. Bên cạnh
đó, luận văn phân tích, nghiên cứu pháp luật về lao động chưa thành niên trong Bộ luật
Lao động năm 2012 nên có những nghiên cứu khơng cịn đúng ở hiện tại khi Bộ luật

Lao động năm 2019 đã có hiệu lực.
Nhìn chung, đa phần các cơng trình nghiên cứu về khung pháp lý chung đối với
lao động chưa thành niên đều được đề cập. Ở mỗi cơng trình nghiên cứu về cơ bản đều
thống nhất quan điểm “lao động chưa thành niên là lao động dưới 18 tuổi”.
Nhóm 2, các cơng trình nghiên cứu về bảo vệ quyền và lợi ích của lao động
chưa thành niên
Bài viết : “Lao động trẻ em và vấn đề vi phạm pháp luật đối với lao động trẻ
em” của tác giả Đỗ Thị Dung đăng trên tạp chí Luật học số 2 năm 2012. Tại bài viết
này tác giả đã khái quá cơ bản về lao động trẻ em cũng như đưa ra các vấn đề liên
quan đến vi phạm pháp luật và các biện pháp xử lý đối với lao động trẻ em. Song, bài
viết này mới chỉ dừng lại ở việc phân tích lao động trẻ em và các vấn đề vi phạm pháp
luật đối với lao động trẻ em mà chưa đề cập đến lao động chưa thành niên cũng như
việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên.
Luận văn Thạc sĩ Luật học năm 2008 của tác giả Lê Thị Huyền Trang với đề tài
“Pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên ở Việt Nam” về
3


cơ bản sát với nội dung nghiên cứu của nhóm đề tài. Luận văn đã nghiên cứu một cách
đầy đủ, hệ thống cơ sở lý luận chung, các quy định pháp luật của Việt Nam và khái
quát các quy định của thế giới, thực tiễn thực hiện quy định pháp luật cũng như định
hướng, giải pháp để bảo vệ quyền lợi của người lao động chưa thành niên. Song, Luận
văn nghiên cứu khá rộng đối với vấn đề lao động chưa thành niên, ở đây, luận văn tập
trung nghiên cứu về vấn đề bảo vệ lao động chưa thành niên. Do đó, trong phạm vi
nghiên cứu, nhóm đề tài thu hẹp phạm vi nghiên cứu, theo đó, nhóm nghiên cứu sẽ tập
trung nghiên cứu về pháp luật lao động Việt Nam hiện hành trong bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của lao động chưa thành niên. Bên cạnh đó, Luận văn được viết khá lâu
nên các quy định không còn phù hợp, một số quy định đã được sửa đổi, bổ sung nên
một số nghiên cứu tại Luận văn khơng cịn tính ứng dụng.
Luận án Tiến sỹ Luật học của tác giả Trần Thắng Lợi với đề tài “Hoàn thiện

pháp luật về lao động chưa thành niên trong điều kiện hội nhập quốc tế” đã nghiên
cứu các vấn đề lý luận chung cũng như các quy định và thực tiễn thực hiện các quy
định pháp luật về lao động chưa thành niên. Song, dưới góc độ nghiên cứu, Luận án
mới chỉ nghiên cứu và tập trung nghiên cứu các vấn đề về hoàn thiện pháp luật chưa
thành niên trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nghĩa là, tập trung nghiên cứu vấn đề lao
động chưa thành niên ở một khía cạnh trong điều kiện hội nhập quốc tế nên chưa giải
quyết được triệt để yêu cầu bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành
niên trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Mặt khác, Luận án này vẫn nghiên cứu dựa trên
các quy định tại Bộ luật Lao động năm 2012.
Tóm lại, qua việc phân tích tình hình nghiên cứu của các cơng trình nghiên cứu
liên quan đến lao động chưa thành niên cho thấy, đến nay đã có khá nhiều cơng trình
nghiên cứu dưới các dạng khác nhau về vấn đề lao động chưa thành niên nhưng các
cơng trình nghiên cứu này chỉ dừng lại ở một phạm vi nhất định. Do vậy, đề tài nghiên
cứu “Pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền và lợi ích của lao động
chưa thành niên” là cơng trình khoa học trực tiếp nghiên cứu tới vấn đề bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên dưới góc độ pháp luật một cách
tương đối toàn diện, hệ thống. Song, dưới việc tìm hiểu về tình hình nghiên cứu về lao
động chưa thành niên cho thấy, các cơng trình này chính là nguồn tài liệu tham chất
lượng đối với nhóm nghiên cứu.
- Tình hình nghiên cứu thế giới: trên thế giới có rất nhiều cơng trình nghiên
cứu liên quan đến vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của lao động chưa thành niên và các
cơng trình đó có tính tiến bộ cao, là cơ sở để Việt Nam có thể tiếp thu và học hỏi. Đặc
biệt là các công ước, nghiên cứu của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) và các tổ chức
bảo vệ trẻ em chính là điểm tựa để hoàn thiện các chế định về các vấn đề bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên.
4


3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu:
- Mục tiêu nghiên cứu: đề tài nghiên cứu khoa học nghiên cứu các quy định của pháp

luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động
chưa thành niên.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Nghiên cứu, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về lao động chưa thành
niên và bảo vệ lao động chưa thành niên.
+ Nghiên cứu, phân tích làm rõ nội dung quy định của pháp luật lao động Việt
Nam hiện hành về bảo vệ quyền và lợi ích của lao động chưa thành niên.
+ Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật lao động Việt
Nam hiện hành trong vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích của lao động chưa thành niên.
+ Đưa ra định hướng và một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật nhằm
nâng cao các quy định và bảo vệ quyền và lợi ích của lao động chưa thành niên.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
- Đối tượng nghiên cứu: dưới phạm vi nghiên cứu của đề tài, nghiên cứu khoa
học tập trung nghiên cứu các quy định của pháp luật về lao động chưa thành niên trong
Bộ luật Lao động năm 2019, các văn bản hướng dẫn thi hành cũng như các văn bản
quy phạm pháp luật khác có liên quan đến vấn đề bảo vệ lao động chưa thành niên.
Bên cạnh đó đề tài cũng nghiên cứu một cách khái quát các quy định của pháp luật
quốc tế về bảo vệ lao động chưa thành niên để có cái nhìn tồn diện, khách quan đối
với các quy định về lao động chưa thành niên cũng như có sự so sánh, đối chiếu phù
hợp với pháp luật lao động Việt Nam hiện hành.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của lao động chưa
thành niên đã được pháp luật lao động quy định. Tuy nhiên, để hoàn thiện việc nghiên
cứu các quy định của pháp luật lao động, trong phạm vi nghiên cứu, nhóm đề tài sẽ
hướng tới nghiên cứu vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho lao động chưa
thành niên theo quy định của pháp luật lao động hiện hành.
+ Về không gian: pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên
+ Về thời gian: giai đoạn từ năm 2019 đến nay
5. Phương pháp nghiên cứu:


* Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
- Phương pháp phân tích: căn cứ vào nguồn tài liệu tham khảo, các số liệu
cùng với việc tổng hợp tài liệu và nghiên cứu các quy định pháp luật lao động
Việt Nam hiện hành nhóm đề tài sẽ phân tích để đưa ra khung lý luận và thưc
5


tiễn về pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ lao động chưa thành
niên
- Phương pháp tổng hợp: xuất phát từ kết quả đã phân tích, nhóm đề tài sẽ
tổng hợp dựa trên những luận điểm, minh chứng phù hợp với đề tài nghiên cứu
- Phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử: trong đề tài nghiên
cứu khoa học của nhóm đề tài, nhóm đề tài dựa trên những cơ sở sự thật khách
quan và tiến trình phát triển của lịch sử làm căn cứ để thực hiện nghiên cứu nội
dung của đề tài
- Phương pháp so sánh: trên những cơ sở nghiên cứu hệ thống quy định
của pháp luật Việt Nam, nhóm nghiên cứu đã phân tích, so sánh các quy định
của pháp luật. Bên cạnh đó, trong việc nghiên cứu các quy định của pháp luật
quốc tế, nhóm đề tài đã sử dụng phương pháp so sánh để đối chiếu với các quy
định pháp luật Việt Nam về bảo vệ lao động chưa thành niên
* Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Phương pháp quan sát: dựa trên việc quan sát thực tiễn thực hiện quy định của
pháp luật lao động Việt Nam hiện hành về bảo vệ lao động chưa thành niên, nhóm
nghiên cứu đã rút ra và đưa ra định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật đối với
vấn đề bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên
6. Đóng góp của đề tài

- Đề tài nghiên cứu khoa học cung cấp cơ sở lý luận chung về lao động
chưa thành niên, bảo vệ lao động chưa thành niên và pháp luật lao động Việt

Nam hiện hành về bảo vệ lao động chưa thành niên
- Đề tài sẽ góp phần đưa ra các định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật
lao động về bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa thành niên
7. Kết cấu của đề tài nghiên cứu khoa học
Kết cấu của đề tài nghiên cứu khoa học gồm có phần mở đầu, phần kết luận,
danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục và 03 chương:
Chương 1: Lý luận và pháp luật về lao động chưa thành niên và bảo vệ lao động
chưa thành niên
Chương 2: Nội dung quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật lao động Việt
Nam hiện hành về bảo vệ lao động chưa thành niên
Chương 3: Định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật lao động Việt Nam
hiện hành về bảo vệ lao động chưa thành niên.

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN VÀ BẢO
VỆ LAO ĐỘNG CHƯA THÀNH NIÊN
1.1. Lao động chưa thành niên và bảo vệ lao động chưa thành niên
1.1.1. Lao động chưa thành niên
1.1.1.1. Khái niệm lao động chưa thành niên
Quá trình phát triển từ khi sinh ra đến khi trưởng thành của con người được
phân chia thành các giai đoạn khác nhau, trong đó có giai đoạn chưa thành niên. Nhìn
nhận một cách tổng quan, có nhiều quan niệm khác nhau để giải thích khái niệm về
người chưa thành niên. Thuật ngữ “người chưa thành niên” được sử dụng khá phổ
biến trong nhiều ngành khoa học và ở mỗi ngành lại có cách hiểu, cách giải thích khác
nhau tuỳ thuộc vào đặc trưng nghiên cứu của ngành đó.
Xét dưới góc độ pháp lý, thuật ngữ “người chưa thành niên” được giải thích

trong nhiều văn bản pháp luật và ở mỗi giai đoạn khác nhau, có cách giải thích khác
nhau song tựu chung lại, thuật ngữ “người chưa thành niên” được hiểu là thuật ngữ
nhằm xác định giới hạn về độ tuổi, quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm pháp lý của đối
tượng này. Song, việc xác định cụ thể độ tuổi bắt đầu và kết thúc của giai đoạn này có
nhiều ý kiến khác nhau. Thơng thường, một cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
là khi có sự phát triển đến mức độ hồn chỉnh về cả trí tuệ lẫn thể chất. Nhìn chung,
theo các nghiên cứu thì để con người đạt được sự phát triển này là khi đủ mười tám
tuổi. Như vậy, người có độ tuổi từ đủ 18 tuổi trở lên được gọi là người thành niên, còn
người dưới 18 tuổi sẽ được coi là người chưa thành niên. Quan niệm này được thể hiện
trong Điều 1 Công ước quốc tế về quyền trẻ em được Đại hội đồng Liên Hợp quốc
thông qua ngày 20/11/1989: “Trong phạm vi Công ước này, trẻ em có nghĩa là người
dưới 18 tuổi, trừ trường hợp luật pháp áp dụng đối với trẻ em có quy định tuổi thành
niên sớm hơn” [19]. Bên cạnh đó, tại Điều 11 Quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ
người chưa thành niên bị tước quyền tự do năm 1990 cũng quy định “những người
chưa thành niên là người dưới mười tám tuổi”.
Như vậy, về cơ bản trong phạm vi nghiên cứu có thể định nghĩa, người chưa
thành niên là “những người dưới 18 tuổi”.
Trong quá trình con người hình thành và phát triển, lao động là hoạt động
không thể thiếu, thông qua lao động, con người mới tạo ra được những yếu tố vật chất
và tinh thần để phát triển. Theo Từ điển Tiếng Việt, lao động được giải thích là “hoạt
7


động có mục đích của con người nhằm tạo ra các loại sản phẩm vật chất và tinh thần
cho xã hội”. Như vậy, lao động là quá trình con người sử dụng sức lao động để tạo ra
của cải, vật chất và các giá trị cho xã hội.
Xét khái niệm người lao động, theo Wikipedia thì người lao động là:
“một người lao động, người làm công, người làm thuê, người thợ hay nhân cơng là
người làm cơng ăn lương, đóng góp lao động và chun mơn để nỗ lực tạo ra sản
phẩm cho người chủ (người sử dụng lao động) và thường được thuê với hợp đồng làm

việc (giao kèo) để thực hiện các nhiệm vụ cụ thể được đóng gói vào một cơng việc hay
chức năng”. Như vậy, có thể hiểu người lao động là các cá nhân trực tiếp tham gia vào
q trình lao động, có thể là làm việc bằng sức lao động, nói cách khác là lao động
chân tay hay là lao động trí óc, thơng qua hành vi lao động trên thực tế mà được trả
lương, làm việc dưới sự quản lý của người sử dụng lao động.
Dưới góc độ pháp lý, theo khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019
thì“người lao động là người làm việc cho người sử dụng lao động theo một thỏa
thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành và giám sát của người sử dụng
lao động” [2]. Bộ luật Lao động năm 2019 đã mở rộng hơn về quan niệm về người lao
động so với các Bộ luật Lao động trước đó. Theo đó, người lao động là người làm việc
và chịu sự quản lý, giám sát của người sử dụng lao động theo hợp đồng lao động đã
thoả thuận.
Khi đề cập đến thuật ngữ lao động chưa thành niên, thuật ngữ này có sự phân
biệt với thuật ngữ lao động trẻ em.
Theo Báo cáo Hướng dẫn phòng ngừa và giảm thiểu lao động trẻ em cho doanh
nghiệp của Tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì “lao động trẻ em” là thuật ngữ dùng để
chỉ tình trạng người dưới 18 tuổi phải làm các cơng việc có hại đến tinh thần, thể chất,
trí tuệ, đạo đức và nhân cách hoặc phải làm việc từ khi còn nhỏ khiến cho trẻ em mất
đi cơ hội học tập và phát triển [17]. Còn ở Việt Nam, chưa có định nghĩa chính thức để
giải thích thuật ngữ này. Theo quy định tại Điều 1 Luật Trẻ em năm 2016 mới chỉ xác
định về độ tuổi tối thiểu đối với trẻ em “Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Song, có thể
thấy, trong lao động chưa thành niên có lao động trẻ em nhưng khơng phải lao động
chưa thành niên nào cũng được coi là lao động trẻ em và cũng không phải công việc
nào do trẻ em thực hiện cũng là lao động trẻ em. Lao động trẻ em được nhận diện
thơng qua các tiêu chí về độ tuổi lao động, về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi,
loại cơng việc và nơi làm việc.
Do đó, trong phạm vi nghiên cứu, nhóm nghiên cứu đưa ra kết luận như sau về
lao động trẻ em: “Lao động trẻ em là những người dưới 16 tham gia lao động.”

8



Xét khái niệm “lao động chưa thành niên” dưới góc độ pháp luật thì có thể
thấy, quan niệm này đã được quy định khá sớm, kể từ khi Việt Nam giành được độc
lập cho đến khi Bộ luật Lao động đầu tiên ra đời thì những người chưa phát triển đầy
đủ về thể chất, tinh thần nhưng tham gia lao động đã được nhà nước thừa nhận tuy
nhiên lại không đề cập về tên gọi chung của đối tượng này mà chỉ đề cập đến quyền
lợi, nghĩa vụ của họ khi tham gia quan hệ lao động. Ngay tại văn bản quy phạm pháp
luật về lao động đầu tiên ở nước ta là Sắc lệnh số 29/SL ngày 12/3/1947 của Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã quy định về lao động chưa thành niên tại Điều 12 “không được dùng
trẻ con dưới 12 tuổi (tính theo dương lịch) làm thợ học nghề. Đến 18 tuổi phải kể là
thợ chính thức, trừ những trường hợp nói ở Điều thứ 14 dưới đây”. Trước Bộ luật Lao
động năm 1994, nhìn chung, khi quy định về lao động, pháp luật nước ta đã có những
quy định liên quan đến lao động chưa thành niên song về cơ bản, quan niệm về “lao
động chưa thành niên” chưa được định nghĩa một cách cụ thể, chi tiết nhưng các quy
định về lao động chưa thành niên này chính là cơ sở quan trọng để giải thích khái niệm
về lao động chưa thành niên sau này.
Năm 1994 Bộ luật Lao động lần đầu tiên được ban hành và thuật ngữ “người
lao động chưa thành niên” lần đầu tiên được sử dụng để chỉ những người chưa phát
triển đầy đủ về thể chất, tinh thần khi tham gia lao động. Theo đó, tại Điều 119 Bộ luật
Lao động năm 1994 thì “Người lao động chưa thành niên là người lao động dưới 18
tuổi”. Bộ luật Lao động năm 2012 vẫn tiếp tục kế thừa quan niệm này. Tuy nhiên, đến
Bộ luật Lao động năm 2019 đã có sự thay đổi từ “người lao động chưa thành niên”
thành “lao động chưa thành niên”. Tại Khoản 1 Điều 143 Bộ luật này đã đưa ra quan
niệm khái quát về lao động chưa thành niên, theo đó“Lao động chưa thành niên là
người lao động chưa đủ 18 tuổi”. Như vậy, có thể khái quát chung những người lao
động dưới 18 tuổi đều được coi là lao động chưa thành niên.
Song, tại Khoản 1 Điều 3 Bộ luật Lao động năm 2019 lại quy định độ tuổi lao
động tối thiểu của người lao động là 15 tuổi: “Độ tuổi lao động tối thiểu của người lao
động là đủ 15 tuổi, trừ trường hợp quy định tại Mục 1 Chương XI của Bộ luật này”.

Quy định này hồn tồn phù hợp với Cơng ước 138 về độ tuổi lao động tối thiểu của
Tổ chức lao động quốc tế mà Việt Nam tham gia vào năm 2003 rằng “Tuổi tối
thiểu…không được dưới 15 tuổi”[11; Điều 2]; “… cho phép người từ 13 đến 15 tuổi
được làm hoặc được lao động đối với những công việc nhẹ nhàng mà khơng có khả
năng gây hại đến sức khỏe hoặc sự phát triển của họ và không phương hại việc tham
gia học tập, việc họ tham gia vào các chương trình hướng nghiệp hay đào tạo nghề đã
được cơ quan có thẩm quyền chấp thuận, hoặc khả năng được hưởng lợi từ việc được
giáo dục”[12; Điều 7]; “…cơ quan có thẩm quyền… cấp giấy phép cho từng các nhân
tham gia các hoạt động như việc biểu diễn nghệ thuật; giấy phép đó phải giới hạn số
9


giờ và quy định điều kiện của việc sử dụng lao động hoặc công việc được cho
phép”[12; Điều 8]. Nhưng vẫn có trường hợp người dưới 15 tuổi là người lao động
nếu thỏa mãn những điều kiện luật định. Điều này được quy định trong Điều 143 Bộ
luật Lao động 2019 và được trình bày, hướng dẫn cụ thể trong Điều 145, Điều 147 Bộ
luật Lao động 2019 cũng như trong Thông tư số 09/2020/TT-BLĐTBXH ban hành
danh mục công việc nhẹ được sử dụng người dưới 15 tuổi làm việc của Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội.
Như vậy, theo quan niệm của nhóm nghiên cứu, khái niệm lao động chưa thành
niên là: “Lao động chưa thành niên là người dưới 18 tuổi làm việc cho người sử dụng
lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của
người sử dụng lao động.”
1.1.1.2. Đặc điểm của lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. Ở độ tuổi này, đặc điểm về
tâm sinh lý có những biểu hiện khá phức tạp và mang những đặc trưng riêng. Thông
qua việc nghiên cứu những đặc trưng về tâm sinh lý, xã hội của lao động chưa thành
niên, có thể nhận thấy đặc điểm riêng có của lao động chưa thành niên so với lao động
thành niên:
Thứ nhất, lao động chưa thành niên là nhóm lao động chưa phát triển đầy đủ về

thể chất. Phát triển về thể chất biểu hiện qua sự tăng trưởng về chiều cao, trọng lượng
cơ thể, sự hoàn thiện các giác quan, hệ xương, cơ bắp,.... Đây là điểm khác biệt của
nhân tố sinh học. Người chưa thành niên nếu lao động trong điều kiện khắc nghiệt,
môi trường nguy hiểm, độc hại sẽ gây ra hạn chế rất lớn trong việc phát triển về mặt
thể chất, ảnh hưởng đến sức khỏe của người chưa thành niên.
Thứ hai, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về trí tuệ và tâm
sinh lý. Sự phát triển về trí tuệ và tâm sinh lý này cũng giống như sự phát triển về thể
chất, đều là do quá trình sinh học. Ở mỗi giai đoạn khác nhau của quá trình phát triển,
người chưa thành niên cần được chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục từ gia đình và xã hội.
Nếu người chưa thành niên được chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục đầy đủ sẽ là điều
kiện thuận lợi để phát triển tồn diện về trí tuệ, thể chất và nhân cách. Ngược lại, nếu
thiếu đi sự chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục, người chưa thành niên sẽ có những hạn
chế hơn về nhận thức, cách ứng xử với mọi người xung quanh và dễ chịu sự tác động
xấu từ mơi trường bên ngồi. Ngồi ra, tâm lý của người chưa thành niên rất phức tạp,
thường có tâm lý “cả thèm, chóng chán”. Điều này sẽ ảnh hưởng đến q trình học
nghề, làm việc của chính họ và ảnh hưởng đến nơi họ đang làm việc. Không chỉ vậy,
nhận thức và trí tuệ của người chưa thành niên đang trong giai đoạn phát triển, chưa
10


hồn thiện đầy đủ nên khó có thể độc lập thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình
bao gồm việc bảo vệ tính mạng, danh dự, nhân phẩm cũng như tài sản của mình. Do
đó, người chưa thành niên khi tham gia quan hệ lao động dễ bị tác động bởi yếu tố tâm
lý và dễ bị xâm hại, tác động từ các yếu tố tiêu cực của xã hội. Chính vì vậy, pháp luật
Việt Nam có rất nhiều quy định điều chỉnh để hướng tới mục đích bảo vệ, chăm sóc và
giáo dục người chưa thành niên và trong lĩnh vực lao động cũng có những quy định
chặt chẽ liên quan đến việc tuyển dụng, sử dụng lao động ở lứa tuổi này.
Thứ ba, người chưa thành niên là người chưa phát triển đầy đủ về thể chất và
tinh thần nên khi tham gia quan hệ lao động, họ được Nhà nước ưu tiên và bảo vệ
quyền và lợi ích. Điều này được thể hiện qua những quy định về thời giờ làm việc, thời

giờ nghỉ ngơi, tiền lương,…. Ngồi ra, Nhà nước cịn đưa ra những quy định hạn chế
người chưa thành niên tham gia một số công việc nặng nhọc, độc hại, không phù hợp
với từng độ tuổi khác nhau.
Thứ tư, lao động chưa thành niên là nhóm người hạn chế năng lực hành vi trong
một số trường hợp. Điều này thể hiện trong quy định khi giao kết hợp đồng lao động
với lao động chưa thành niên. Theo quy định tại khoản 3 Điều 144 Bộ luật Lao động
2019 thì:“Khi sử dụng lao động chưa thành niên, người sử dụng lao động phải có sự
đồng ý của cha, me hoặc người giám hộ;…”. Mặt khác, tại Điều 21 Bộ luật Dân sự
2015 quy định:“Giao dịch dân sự của người chưa đủ sáu tuổi do người đại diện theo
pháp luật của người đó xác lập, thực hiện; Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười
lăm tuổi khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp
luật đồng ý,…; Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi tự mình xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự, trừ … giao dịch dân sự khác theo quy định của luật phải
được người đại diện theo pháp luật đồng ý”. Ngoài ra, theo quy định tại Khoản 4 Điều
18 Bộ luật Lao động năm 2019 thì “Người giao kết hợp đồng lao động bên phía người
lao động là người thuộc một trong các trường hợp sau đây: … Người lao động từ đủ
15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi khi có sự đồng ý bằng văn bản của người đại diện theo
pháp luật của người đó; Người chưa đủ 15 tuổi và người đại diện theo pháp luật của
người đó;…”. Do đó, có thể thấy, khi giao kết hợp đồng lao động, người chưa thành
niên phải nhận được sự đồng ý bằng văn bản cho làm việc từ bố, mẹ hoặc người giám
hộ mới có thể tự giao kết hợp với người sử dụng lao động và đối với người dưới 6 tuổi,
việc giao kết hợp đồng lao động của họ sẽ phải do chính bố, mẹ hoặc người giám hộ
thực hiện.
Xuất phát từ tính chất của lao động chưa thành niên, đối với lao động trẻ em về
cơ bản vẫn mang các đặc điểm chung như đối với lao động chưa thành niên. Song, xét
về bản chất, vẫn có sự khác biệt để phân định lao động chưa thành niên với lao động
11


trẻ em. Lao động trẻ em là một phần của lao động chưa thành niên, do đó lao động trẻ

em cũng có những đặc điểm của lao động chưa thành niên. Ngồi ra, lao động trẻ em
cịn có thêm đặc điểm là lao động dưới 16 tuổi làm những công việc ảnh hưởng tiêu
cực đến sự phát triển toàn diện hoặc cản trợ việc học tập của trẻ em. Do đó, trong cả
pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia đều đang hướng tới mục tiêu giảm thiểu lao
động trẻ em nhằm hạn chế những ảnh hưởng đến sự phát triển toàn diện của trẻ em,
giúp trẻ em được bảo đảm các quyền cơ bản của mình.
1.1.1.3. Phân loại lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên là nhóm lao động mang tính chất đặc thù và thực tế,
có nhiều cách để phân chia thành các nhóm lao động chưa thành niên. Việc phân loại
lao động chưa thành niên có thể dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau như: độ tuổi; giới
tính; trình độ chun mơn về kỹ thuật; điều kiện, môi trường làm việc;….
Thứ nhất, phân loại theo độ tuổi – đây là tiêu chí phân loại phổ biến và được sử
dụng nhiều nhất khi phân chia các công việc mà lao động chưa thành niên làm việc.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, có thể phân lao động chưa thành niên vào ba
nhóm tuổi đó là: nhóm lao động dưới 13 tuổi, nhóm lao động từ đủ 13 tuổi đến dưới
15 tuổi và nhóm lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi.
Đối với nhóm lao động dưới 13 tuổi, họ vẫn chưa thực sự trưởng thành về mọi
mặt do đó họ khó có thể tự mình tham gia vào quan hệ lao động nên pháp luật của
nước ta cũng như trên thế giới khơng khuyến khích nhóm tuổi này tham gia vào quan
hệ lao động cũng như sử dụng nhóm tuổi lao động này trong quan hệ lao động. Tuy
nhiên, cũng có một số ngành nghề có đặc thù, tính chất cơng việc nhẹ nhàng, không
cần dùng quá nhiều sức lực, phù hợp với độ tuổi và không gây ảnh hưởng đến sự phát
triển của họ mà họ có thể làm như: đóng phim, ca múa hát,....
Đối với nhóm lao động từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi, đây là giai đoạn đang
dần phát triển cả về thể chất lẫn tinh thần. Ở độ tuổi này, hầu hết các em đều đang đi
học, ngoại trừ một số trường hợp trẻ em có hồn cảnh khó khăn nên khơng thể đến
trường nên họ phải học nghề, đi làm kiếm sống. Ở độ tuổi này, pháp luật đã quy định
rộng hơn về các công việc cũng như nơi làm việc song chỉ được phép làm những công
việc nhẹ, đơn giản, không trái pháp luật. Đặc thù của nhóm tuổi này đang trong độ tuổi
dậy thì nên cấu tạo xương của họ vẫn chưa chắc chắn để làm những công việc nặng

nhọc và nếu làm việc quá mức so với sức lực của họ có thể dễ dẫn đến tai nạn lao động
và ở độ tuổi này, họ chưa có sự chính chắn về mặt tư duy, cảm xúc, chưa làm chủ
được bản thân, bị hạn chế về trình độ chun mơn, kĩ thuật. Vậy nên, độ tuổi lao động

12


từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi chỉ nên tham gia vào làm một số công việc đơn giản,
nhẹ nhàng, ít kỹ thuật và chun mơn.
Đối với nhóm lao động từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. Lao động chưa thành
niên ở độ tuổi này chiếm đa số. Đây là độ tuổi gần như đã hoàn tất chương trình giáo
dục bắt buộc, họ có thể tiếp tục học lên bậc cao hơn hoặc có thể chọn học nghề theo
định hướng cá nhân. Với độ tuổi này, họ đã có năng lực chủ thể để tham gia quan hệ
lao động, có thể tự mình thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong lao động theo quy định
của pháp luật. Tuy nhiên, ở độ tuổi này, họ chưa thực sự phát triển toàn diện về tâm
sinh lý cũng như sức khoẻ, cho nên dù đã cho phép tham gia vào quan hệ lao động
nhưng vẫn hạn chế làm những công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm, ảnh hưởng
đến sự phát triển toàn diện của họ.
Thứ hai, phân loại lao động chưa thành niên căn cứ vào giới tính. Ở tiêu chí này
thì lao động chưa thành niên có thể phân thành hai nhóm đó là: lao động chưa thành
niên nam và lao động chưa thành niên nữ. Việc phân loại này xuất phát từ chính những
sự khác biệt về mặt sinh lý giữa lao động nam và lao động nữ. Cấu tạo cơ thể giữa nam
và nữ có sự khác biệt rõ rệt và sức khỏe, tính cách cũng có sự chênh lệch cho nên, việc
phân loại này giúp cho pháp luật có thể bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của họ,
hạn chế tình trạng lạm dụng lao động ở độ tuổi chưa thành niên đặc biệt là ở lao động
chưa thành niên nữ. Bên cạnh đó, việc phân loại này cịn giúp cho các lao động được
làm cơng việc đúng với trình độ, năng lực, sức khoẻ của mình.
Thứ ba, phân loại lao động chưa thành niên dựa vào tiêu chí về trình độ chun
mơn kỹ thuật. Ở tiêu chí này, lao động chưa thành niên bao gồm: lao động chưa thành
niên đã qua đào tạo và lao động chưa thành niên chưa qua đào tạo. Lao động chưa

thành niên đã qua đào tạo là những người đã có bằng cấp, giấy phép được cấp bởi cơ
quan, tổ chức có thẩm quyền hay chưa được qua trường lớp đào tạo nào nhưng cũng
đã được dạy nghề hoặc tự học những kiến thức cơ bản. Còn lao động chưa thành niên
chưa qua đào tạo là những người chưa được học, chưa được biết những kỹ năng cơ bản
của nghề. Việc phân loại này nhằm mục đích hỗ trợ, giúp đỡ những lao động chưa
thành niên chưa qua đào tạo có cơ hội được học hỏi, cũng như đào tạo chuyên sâu hơn
cho lao động chưa thành niên đã qua đào tạo để nâng cao năng suất, chất lượng việc
làm.
Ngồi những tiêu chí phân loại cơ bản trên cịn có các cách phân loại khác như:
phân loại lao động chưa thành niên căn cứ vào điều kiện, mơi trường lao động làm
việc thì có thể phân thành hai nhóm: nhóm lao động chưa thành niên làm việc trong
điều kiện, mơi trường lao động khó khăn và nhóm lao động chưa thành niên làm việc
trong điều kiện, môi trường lao động bình thường; phân loại theo địa điểm, lao động
13


chưa thành niên gồm: lao động chưa thành niên ở thành thị và lao động chưa thành
niên ở nông thôn; phân loại theo nhóm ngành lao động gồm: lao động chưa thành niên
làm việc ở khu vực nông – lâm – ngư nghiệp; lao động chưa thành niên làm việc ở khu
vực công nghiệp và lao động chưa thành niên làm việc ở khu vực dịch vụ; phân loại
theo trình độ học vấn gồm: lao động chưa thành niên đã học xong phổ thông cơ sở và
lao động chưa thành niên chưa học xong phổ thơng cơ sở,….
Có rất nhiều tiêu chí khác nhau để phân loại lao động chưa thành niên để phục
vụ những mục đích khác nhau nhưng các cách phân loại này đều có mục đích chung
đó là nhằm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho lao động chưa thành niên. Và dựa
vào các tiêu chí phân loại để có thể nhận thấy rõ ràng các công việc nào phù hợp với
từng đối tượng lao động chưa thành niên qua đó, làm cơ sở, nền tảng để có những biện
pháp hợp lý để bảo vệ với từng nhóm đối tượng lao động chưa thành niên.
1.1.2. Bảo vệ lao động chưa thành niên
1.1.2.1. Khái niệm bảo vệ lao động chưa thành niên

Lao động chưa thành niên là nhóm lao động đặc thù và là đối tượng cần được
bảo vệ trong quan hệ lao động. Nhìn nhận tổng quan, bảo vệ lao động chưa thành niên
chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho lao động chưa thành niên.
Theo từ điển Tiếng Việt, “bảo vệ” có nghĩa là chống lại mọi sự hủy hoại, xâm
phạm để giữ cho được nguyên vẹn. Như phân tích ở phần 1.1.1.1, lao động chưa thành
niên là nhóm lao động dưới 18 tuổi làm việc cho người sử dụng lao động theo thỏa
thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều hành, giám sát của người sử dụng lao
động. Lao động chưa thành niên là nhóm lao động cần ngăn ngừa và có biện pháp để
giảm thiểu. Chính vì điều này mà pháp luật cần phải có cơ chế để bảo vệ đối với lao
động chưa thành niên, bảo đảm cho họ một môi trường tốt nhất để phát triển tồn diện
bản thân và khả năng của mình.
Từ đây,“bảo vệ lao động chưa thành niên” được hiểu một cách khái quát là
việc ngăn chặn mọi sự xâm phạm, tổn hại có thể xảy ra cho người dưới 18 tuổi trong
quá trình lao động, bảo vệ họ trước người sử dụng lao động theo những thỏa thuận,
giao kết trong hợp đồng lao động và dưới sự điều hành, quản lý và giám sát của người
sử dụng lao động. Trong đó, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của lao động chưa
thành niên chính là yếu tố quan trọng nhất.
Giống như các nước trên thế giới, nước ta cũng đã thừa nhận về sự tồn tại của
lao động chưa thành niên và xem đây là quá trình tất yếu của sự phát triển kinh tế - xã
hội. Khi nghiên cứu về lao động chưa thành niên, họ có một số đặc điểm riêng, khác
biệt so với nhóm lao động khác, thể hiện ở khía cạnh về sự phát triển của nhận thức,
14


thể lực và trí lực cịn đang trong giai đoạn phát triển nên dễ bị tác động, ảnh hưởng bởi
các yếu tố khách quan bên ngoài và dễ bị xâm phạm các quyền và lợi ích trong quan
hệ lao động. Chính vì điều này, lao động chưa thành niên cần được bảo vệ và quan
tâm. Việc quy định về bảo vệ cho lao động chưa thành niên được pháp luật nước ta
quy định dựa trên tiêu chuẩn của pháp luật quốc tế để đảm bảo sự cân đối, phù hợp.
Tại khoản 1, điều 35 của Hiến pháp năm 2013 có quy định: “Cơng dân có quyền làm

việc, lựa chọn nghề nghiệp, việc làm và nơi làm việc”. Công dân được nói đến ở đây
có bao gồm cả lao động chưa thành niên. Điều này đã chứng tỏ sự công bằng về quyền
làm việc cho lao động chưa thành niên đồng thời thể hiện sự tương thích với các Điều
ước quốc tế về nhân quyền.
Bộ luật lao động năm 2019 cũng như các văn bản dưới luật có liên quan như:
Thơng tư 09/2020/TT-BLĐTBXH quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Bộ luật Lao động về lao động chưa thành niên, Nghị định 28/2020/NĐ-CP quy
định xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao
động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng,… cũng đã quy định, thể chế
hóa quan điểm của Hiến pháp năm 2013 về các quyền nghĩa vụ cơ bản của công dân
trong lao động và đặt ra yêu cầu với việc bảo vệ, chăm sóc, giáo dục lao động chưa
thành niên đồng thời đặt ra những quy định, chế tài xử phạt để đối với những hành vi
xâm phạm đến quyền và lợi ích của lao động chưa thành niên.
Khái quát lại, bảo vệ lao động chưa thành niên chính là bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của lao động chưa thành niên khi tham gia quan hệ lao động bao gồm bảo
vệ các quyền cơ bản cho họ về quyền làm việc; quyền được bảo vệ, chăm sóc, giáo
dục; quyền được hưởng tiền lương; quyền được nghỉ ngơi và các quyền cơ bản khác.
1.1.2.2. Đặc điểm của bảo vệ lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên là một nhóm lao động đặc thù. Do đó, việc bảo vệ
cho nhóm đối tượng này cũng bao gồm những đặc trưng trong việc bảo vệ người lao
động và một số đặc trưng mang tính chất riêng.
Thứ nhất, bảo vệ lao động chưa thành niên là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
cho lao động chưa thành niên. Thực chất, việc bảo vệ này phải xuất phát từ chính việc
bảo vệ quyền và lợi ích cơ bản của người chưa thành niên, xuất phát từ việc bảo vệ
quyền trẻ em. Lao động chưa thành niên là nhóm lao động đang trong giai đoạn phát
triển, do đó, khi họ tham gia quan hệ lao động, họ rất dễ bị xâm phạm đến các quyền
và lợi ích của mình. Do đó, đặt trong u cầu bảo vệ lao động chưa thành niên thì một
trong những đặc điểm cơ bản là bảo vệ cho họ các quyền và lợi ích hợp pháp.

15



Thứ hai, bảo vệ lao động chưa thành niên là bảo vệ quyền được tham gia lao
động, tự do lựa chọn công việc và nơi làm việc của lao động chưa thành niên với
những yêu cầu liên quan đến công việc và nơi làm việc phải phù hợp với độ tuổi và thể
trạng, tránh làm ảnh hưởng đến sự phát triển bình thường của lao động chưa thành
niên
Thứ ba, bảo vệ lao động chưa thành niên là bảo vệ quyền được tham gia học tập
và giáo dục của lao động chưa thành niên. Người chưa thành niên là thế hệ tương lai
của đất nước. Vì vậy, họ phải được học tập, giáo dục đầy đủ, ít nhất đến hết chương
trình học phổ thơng và khơng được có bất kì trở ngại nào làm cản trở, gây ảnh hưởng
đến quyền được tham gia học tập, kể cả khi tham gia lao động.
Thứ tư, bảo vệ lao động chưa thành niên là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của lao động chưa thành niên trước người sử dụng lao động. Quyền và lợi ích hợp
pháp của lao động chưa thành niên là các quyền liên quan đến việc làm, thu nhập, thời
gian lao động, thời gian nghỉ ngơi, các quyền về nhân thân như sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm,…. Bởi, lao động chưa thành niên còn hạn chế về mặt nhận thức nên dễ bị
người sử dụng lao động lợi dụng. Do đó, pháp luật lao động cần có những quy định
chặt chẽ để bảo vệ lao động chưa thành niên, tránh ảnh hưởng đến sự phát triển về thể
chất, tinh thần, nhận thức của lao động chưa thành niên.
Thứ năm, bảo vệ lao động chưa thành niên phải gắn với yêu cầu ngăn ngừa và
giảm thiểu lao động chưa thành niên. Lao động chưa thành niên xét về mặt lý luận hay
thực tiễn không nên sớm tham gia vào quan hệ lao động và họ cần phải được tham gia
học tập để phát triển tồn diện. Do đó, một đặc điểm riêng biệt đối với lao động chưa
thành niên đó chính là việc gắn bảo vệ lao động chưa thành niên với nhiệm vụ ngăn
ngừa và giảm thiểu đối với nhóm lao động này.
1.1.2.3. Mục đích bảo vệ lao động chưa thành niên
Để bảo vệ quyền và lợi ích pháp cho lao động chưa thành niên, pháp luật Việt
Nam nói riêng cũng như pháp luật quốc tế nói chung ln có các chế định để bảo vệ
cho họ. Xét về bản chất của lao động chưa thành niên, mục đích cốt lõi của bảo vệ lao

động chưa thành niên chính là bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp.
Mục đích của bảo vệ lao động chưa thành niên là bảo vệ các quyền cơ bản của
họ. Các quyền cơ bản của lao động chưa thành niên bao gồm các quyền của trẻ em
được quy định trong Hiến pháp năm 2013 và quyền được tham gia các quan hệ lao
động được quy định trong Bộ luật Lao động năm 2019 và các quy định pháp luật về
lao động khác trong hệ thống pháp luật. Việc bảo vệ cho lao động chưa thành niên
16


nhằm hướng đến hoàn thiện và bảo đảm các quyền của lao động chưa thành niên, bảo
đảm cho họ được phát triển toàn diện về thể chất và tinh thần.
Bên cạnh việc bảo vệ các quyền cơ bản của lao động chưa thành niên chính là
mục tiêu bảo vệ lợi ích cho lao động chưa thành niên. Khi tham gia quan hệ lao động,
lao động chưa thành niên là bên yếu thế hơn so với người sử dụng lao động và lao
động thành niên khác. Do vậy, một trong những mục tiêu cơ bản là việc bảo vệ đầy đủ
lợi ích cho nhóm lao động này. Lợi ích của lao động chưa thành niên đó chính là việc
đảm bảo được bình đẳng trong quan hệ lao động, được hưởng các quyền lợi khi làm
việc bao gồm được đảm bảo về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, tiền lương, an
toàn, vệ sinh lao động và các điều kiện khác để đảm bảo đáp ứng yêu cầu về vật chất
và tinh thần để cho họ có thể làm việc và tạo ra thu nhập.
Thực tế, lao động chưa thành niên cũng chính là nguồn nhân lực tương lai do
vậy, việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho lao động chưa thành niên cũng như là
đang bảo vệ cho nguồn nhân lực chất lượng cho tương lai.
1.2. Pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên
1.2.1. Khái niệm pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên là nhóm lao động chưa phát triển đầy đủ về sức khỏe,
tinh thần và hiểu biết về pháp luật. Do đó, xuất phát từ đặc điểm sinh lý cũng như độ
tuổi của lao động chưa thành niên cho nên, những quy định của pháp luật đều hướng
đến việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho họ để qua đó tạo nên những điều kiện
tốt nhất để họ có thể tham gia lao động cũng như tiếp tục được học tập, phát triển toàn

diện bản thân.
Nhìn nhận một cách tổng qt, hiện nay, chưa có một định nghĩa cụ thể, rõ ràng
nào để giải thích khái niệm pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên. Song xét về
bản chất, pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên vẫn có những đặc điểm chung
của hệ thống pháp luật nhưng cũng mang đặc trưng riêng, thể hiện bản chất của pháp
luật về bảo vệ lao động chưa thành niên.
Xét thuật ngữ pháp luật, có nhiều quan niệm về pháp luật song nhìn nhận một
cách chung nhất, khái quát nhất thì “pháp luật” là hệ thống quy tắc xử sự chung do
Nhà nước đặt ra hoặc thừa nhận và bảo đảm thực hiện để điều chỉnh các quan hệ xã
hội theo mục đích, định hướng của Nhà nước [5; tr.212].
Lao động chưa thành niên là nhóm lao động có độ tuổi dưới 18 tuổi làm việc
cho người sử dụng lao động theo thỏa thuận, được trả lương và chịu sự quản lý, điều
hành, giám sát của người sử dụng lao động. Vậy nên, cần phải có những biện pháp để
bảo vệ lao động chưa thành niên và cho họ một môi trường tốt nhất để phát triển toàn
17


diện bản thân và khả năng của mình. Pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên có
phạm vi điều chỉnh rất rộng, liên quan đến nhiều nhóm quan hệ xã hội, nhiều ngành
luật khác nhau. Phạm vi nghiên cứu pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên bao
gồm pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế.
Pháp luật Việt Nam bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh vấn đề
liên quan đến lao động chưa thành niên. Đầu tiên là Hiến pháp - văn bản pháp lý cao
nhất. Với tính chất là một văn bản có tính hiệu lực cao nhất, thì Hiến pháp năm 2013
đã có một số quy định về việc bảo vệ lao động chưa thành niên cụ thể: Tại khoản 3,
điều 35 “Nghiêm cấm phân biệt đối xử, cưỡng bức lao động, sử dụng nhân công dưới
độ tuổi lao động tối thiểu” hay tại khoản 1, điều 37 “Trẻ em được Nhà nước, gia đình
và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em.
Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và
những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”.

Xuất pháp từ quan điểm của Hiến pháp năm 2013, hệ thống pháp luật của nước
ta cũng có các quy định về lao động chưa thành niên.
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 đã có một số quy định có liên quan như:
bố mẹ“không được lạm dụng sức lao động của con chưa thành niên” [23; Điều 69]
hay “Con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc
khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự ni mình thì có quyền sống
chung với cha mẹ, được cha mẹ trông nom, ni dưỡng, chăm sóc. Con chưa thành
niên tham gia cơng việc gia đình phù hợp với lứa tuổi và khơng trái với quy định của
pháp luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.” [23; Điều 70].
Bên cạnh đó, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng quy định riêng về việc xác định
người chưa thành niên và bảo vệ người chưa thành niên khi xác lập các giao dịch dân
sự. Bộ Luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2018 đã quy định về các chế tài
xử lý đối với việc xâm phạm quyền và lợi ích của lao động chưa thành niên tại Điều
296, theo đó, nếu việc sử dụng lao động dưới 16 tuổi làm công việc nặng nhọc, nguy
hiểm, hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục Nhà nước quy định mà bị tổn
hại đến tính mạng, sức khoẻ của lao động chưa thành niên thì bị truy cứu trách nhiệm
hình sự khi thuộc vào các trường hợp tại các khoản của điều này.
Tại Bộ luật Lao động năm 2019 đã giành hẳn một mục trong chương XI để quy
định riêng đối với lao động chưa thành niên. Ở Bộ luật Lao động năm 2019 đã có
những quy định mới, thể hiện sự tiến bộ trong tư suy lập pháp cũng như thể hiện quan
điểm của Hiến pháp năm 2013 cùng với sự phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế góp phần
nâng cao hiệu quả của pháp luật trong bảo vệ lao động chưa thành niên.
18


Bên cạnh hệ thống pháp luật quốc gia, pháp luật quốc tế cũng có tương đối
nhiều các quy định liên quan đến vấn đề bảo vệ lao động chưa thành niên. Xuất phát từ
thực tiễn tỷ lệ lao động chưa thành niên ngày càng gia tăng. Do đó, với sự ra đời của tổ
chức Lao động quốc tế (ILO) cùng các công ước quốc tế của Liên hợp quốc về quyền
trẻ em và các quy định về bảo vệ trẻ em của Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc đã hệ thống

các quy định liên quan đến việc bảo vệ trẻ em nói chung và đối với lao động chưa
thành niên nói riêng.
Vì vậy, qua những đánh giá, phân tích trên, nhóm nghiên cứu đã rút ra được
khái niệm tổng quát nhất về khái niệm pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên
đó là: “Pháp luật về bảo vệ lao động chưa thành niên được hiểu là tổng thể các quy
phạm pháp luật do Nhà nước ban hành và được Nhà nước bảo đảm thực hiện nhằm để
điều chỉnh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, ngăn chặn mọi sự xâm hại đối với lao
động chưa thành niên khi tham gia vào quan hệ lao động.”
1.2.2. Nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên – nhóm lao động mang tính chất đặc thù vì vậy, dưới
góc nhìn của pháp luật khi quy định về việc bảo vệ lao động chưa thành niên cũng
mang tính chất đặc biệt, bảo đảm cho việc sử dụng lao động chưa thành niên được hiệu
quả cùng với đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho lao động chưa thành niên. Nhìn
một cách tổng quan, khi xem xét các nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về lao động
chưa thành niên, các nguyên tắc vẫn mang bản chất chung là bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp cho người lao động song bên cạnh đó, với bản chất là nhóm lao động đặc thù
nên nguyên tắc điều chỉnh của pháp luật về lao động chưa thành niên có tính đặc trưng
riêng.
1.2.2.1. Ngun tắc bảo vệ quyền của lao động chưa thành niên
Lao động chưa thành niên là nhóm lao động mang tính chất đặc thù do vậy, vấn
đề bảo vệ quyền cho lao động chưa thành niên là vấn đề quan trọng và thực tế, việc
bảo vệ quyền là nguyên tắc điều chỉnh cơ bản của pháp luật lao động về bảo vệ lao
động chưa thành niên. Theo đó, lao động chưa thành niên phải được bảo vệ tối thiểu
các quyền và lợi ích hợp pháp của mình cũng như tối đa về nghĩa vụ dựa trên cơ sở là
độ tuổi, năng lực, sức khoẻ và khuyến khích các thoả thuận theo hướng có lợi cho lao
động chưa thành niên.
Nhìn nhận một cách tổng quan, lao động chưa thành niên là nhóm lao động mà
thể chất và tinh thần chưa phát triển toàn diện nên khi tham gia vào quan hệ lao động
sớm sẽ dễ tổn hại đến sức khỏe, gây tác động xấu đến sự phát triển bình thường của
trẻ. Do đó, nguyên tắc quan trọng của pháp luật khi điều chỉnh các quan hệ lao động

đối với nhóm lao động này là phải bảo vệ cho họ các quyền cơ bản để khi tham gia các
19


quan hệ lao động, nhóm lao động động này vẫn có thể phát triển tâm sinh lý tồn diện,
bên cạnh đó, bảo đảm được lao động hợp pháp, được bảo vệ cơ bản các quyền và
nghĩa vụ của họ.
Xét theo phương diện đạo đức hay xã hội, người chưa thành niên cần được đến
trường, được giáo dục một cách toàn diện, họ không nên sớm tham gia vào quan hệ lao
động và thực tế thì Nhà nước và pháp luật cũng khơng khuyến khích nhóm đối tượng
này tham gia vào quan hệ lao động vì theo các nghiên cứu về tâm sinh lý, ở độ tuổi
này, họ chưa thực sự phát triển và cần được hoàn thiện mọi mặt qua môi trường giáo
dục. Song thực tế đã cho thấy, không phải ai cũng được đáp ứng đủ về mặt vật chất và
tinh thần để được tham gia học tập bình thường mà vì nhiều lý do khác nhau, nhiều
nguyên nhân khác nhau mà nhiều trẻ chưa thành niên phải tham gia lao động để hỗ trợ
gia đình.
Dưới tác động của nền kinh tế thị trường cùng với sự vận động và phát triển
nhanh chóng của đời sống – xã hội, đặc biệt là quá trình hội nhập sâu rộng và tác động
của dịch bệnh Covid-19 khiến cho sự phân hóa giàu - nghèo ngày càng rõ rệt. Điều
này, là một trong những nguyên nhân để người chưa thành niên phải tham gia lao
động. Chính vì vậy mà pháp luật khơng thể ngăn cấm việc người chưa thành niên tham
gia vào các quan hệ lao động nhưng pháp luật phải có cơ chế để bảo vệ họ. Trên cơ sở
bảo vệ cho lao động chưa thành niên, nguyên tắc đầu tiên đó chính là pháp luật phải
tơn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của người chưa thành niên và rộng ra là lao động
chưa thành niên. Đó là, bảo vệ cho họ quyền được sống, được học hành, được phát
triển và được xác lập cũng như tham gia vào các quan hệ lao động của lao động chưa
thành niên. Pháp luật phải thừa nhận lao động chưa thành niên và bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp cho họ. Với nguyên tắc cơ bản của quan hệ lao động là tự nguyện, thiện
chí, bình đẳng, hợp tác, tơn trọng quyền và lợi ích hợp pháp của nhau thì việc xác lập
quan hệ lao động với lao động chưa thành niên cũng phải được thực hiện theo nguyên

tắc này. Lao động chưa thành niên phải được quyền lựa chọn bất cứ công việc nào và
nơi làm việc nào phù hợp với năng lực, trình độ mà pháp luật khơng cấm tùy theo năng
lực. Bên cạnh đó, họ phải được hưởng các quyền lợi khi tham gia quan hệ lao động
theo quy định của pháp luật và được pháp luật bảo vệ.
1.2.2.2. Nguyên tắc bảo đảm tiêu chuẩn quốc tế của lao động chưa thành niên
Vấn đề lao động chưa thành niên không chỉ là mối quan tâm của một quốc gia
hay một khu vực mà là vấn đề cần quan tâm đối với mọi quốc gia trên thế giới. Thực
tế, việc xóa bỏ hồn tồn lao động chưa thành niên là khơng dễ bởi các ngun nhân
khác nhau. Do đó, các Cơng ước quốc tế cũng đã có các quy định để điều chỉnh các
vấn đề về lao động chưa thành niên. Việt Nam là một trong số các quốc gia đã phê
20


×