Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BAI TIEU LUAN HE THONG CHINH TRI HDND XA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.2 KB, 10 trang )

Phần 1. MỞ ĐẦU
Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân. Tất cả quyền lực của Nhà nước đều
thuộc về nhân dân. Nhân dân thực hiện quyền lực của mình thơng qua cơ quan
đại diện là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Hiến pháp nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (sửa đổi 2001) quy định: Hội đồng nhân
dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí nguyện
vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân địa phương bầu ra và chịu
trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan Nhà nước cấp trên. Hội đồng
nhân dân có quyền quyết định các vấn đề quan trọng ở địa phương đồng thời
thực hiện chức năng giám sát đối với toàn bộ hoạt động của các cơ quan cùng
cấp khác; giám sát việc thực hiện Nghị quyết của Hội đồng nhân dân và hoạt
động của các tổ chức, công dân ở địa phương. Trong đó có việc đổi mới và nâng
cao hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp nói chung và chất lượng
hoạt động các Ban của Hội đồng nhân dân nói riêng, nhằm mục tiêu xây dựng
thành công Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.
Trên thực tế, chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân ở cấp xã hiện
nay còn bộc lộ nhiều hạn chế, chưa thể hiện hết vai trị của mình đặc biệt là các
Ban của Hội đồng nhân dân như: Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội. Nhằm mục
đích tìm hiểu rõ hơn và đề xuất có chất lượng các giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp xã, em chọn chủ đề “Nâng cao chất
lượng hoạt động các Ban của Hội đồng nhân dân cấp xã” làm tiểu luận tốt
nghiệp hết phần học Những vấn đề cơ bản về hệ thống chính trị, nhà nước và
pháp luật xã hội chủ nghĩa Chương trình trung cấp lý luận chính trị - hành chính.
Phần 2. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP XÃ
1.

Vị trí, vai trị của Hội đồng nhân dân



2

Theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992
(sửa đổi 2001) quy định: Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực Nhà nước ở
địa phương, đại diện cho ý chí nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do
nhân dân địa phương bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên. Tiếp tục kế thừa và phát triển Hiến pháp năm 1992,
Hiến pháp năm 2013 tiếp tục ghi nhận nội dung này tại Điều 113: “Hội đồng
nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do Nhân dân địa phương bầu ra,
chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên. Hội
đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của
Hội đồng nhân dân”.
2.

Chức năng của Hội đồng nhân dân

Tại khoản 1 Điều 6 Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 nêu
rõ “ Hội đồng nhân dân gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử tri ở địa
phương bầu ra”.
Hội đồng nhân dân thực hiện hai chức năng: Hội đồng nhân dân quyết
định các vấn đề của địa phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp
và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.
Cụ thể là:
+ Hội đồng nhân dân quyết định những chủ trương và biện pháp quan
trọng để phát huy tiềm năng của địa phương; xây dựng và phát triển địa phương
về kinh tế - xã hội, cũng cố quốc phịng, an ninh, khơng ngừng cải thiện đời
sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, làm tròn nghĩa vụ của địa
phương đối với cả nước. Đây là những vấn đề có ý nghĩa quan trọng nhất đối với

đời sống kinh tế - xã hội ở địa phương.
+ Hội đồng nhân dân thực hiện quyền giám sát đối với hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện kiểm
sát nhân dân cùng cấp; giám sát việc thực hiện các nghị quyết; giám sát việc


3

tuân theo pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân và của công dân ở địa phương.
3. Nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã
Theo quy định của Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 nhiệm
vụ và quyền hạn của Hội đồng nhân dân ở Việt Nam hiện nay được thể hiện ở cả
cấp: tỉnh, huyện, xã.
Trong đó, nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng nhân dân xã gồm:
Một là, ban hành nghị quyết về những vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn
của Hội đồng nhân dân xã.
Hai là, quyết định biện pháp bảo đảm trật tự, an tồn xã hội, đấu tranh,
phịng, chống tội phạm và các hành vi vi phạm pháp luật khác, phòng, chống
quan liêu, tham nhũng trong phạm vi được phân quyền; biện pháp bảo vệ tài sản
của cơ quan, tổ chức, bảo hộ tính mạng, tự do, danh dự, nhân phẩm, tài sản, các
quyền và lợi ích hợp pháp khác của công dân trên địa bàn xã.
Ba là, bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó Chủ
tịch Hội đồng nhân dân, Trưởng ban, Phó Trưởng ban của Hội đồng nhân dân
xã; bầu, miễn nhiệm, bãi nhiệm Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Phó Chủ tịch Ủy
ban nhân dân và các Ủy viên Ủy ban nhân dân xã.
Bốn là, quyết định dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn; dự toán
thu, chi ngân sách xã; điều chỉnh dự toán ngân sách xã trong trường hợp cần
thiết; phê chuẩn quyết toán ngân sách xã. Quyết định chủ trương đầu tư chương
trình, dự án của xã trong phạm vi được phân quyền.

Năm là, giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương,
việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã; giám sát hoạt động của
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân cùng cấp, Ban của Hội đồng
nhân dân cấp mình; giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Ủy ban nhân dân
cùng cấp.


4

Sáu là, lấy phiếu tín nhiệm, bỏ phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ
do Hội đồng nhân dân xã bầu theo quy định tại Điều 88 và Điều 89 của Luật
này.
Bảy là, bãi nhiệm đại biểu Hội đồng nhân dân xã và chấp nhận việc đại
biểu Hội đồng nhân dân xã xin thôi làm nhiệm vụ đại biểu.
Tám là, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Ủy
ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã.
4. Cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân xã
Căn cứ Điều 32 Luật Tổ chức chính quyền địa phương 2015, sửa đổi bổ
sung 2019, cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân cấp xã được quy định như
sau:
Một là, Hội đồng nhân dân xã gồm các đại biểu Hội đồng nhân dân do cử
tri ở xã bầu ra. Việc xác định tổng số đại biểu Hội đồng nhân dân xã được thực
hiện theo nguyên tắc sau đây:
- Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ hai nghìn dân trở xuống được
bầu mười lăm đại biểu.
- Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có trên hai nghìn dân đến dưới ba
nghìn dân được bầu mười chín đại biểu.
- Xã miền núi, vùng cao và hải đảo có từ ba nghìn dân đến bốn nghìn dân
được bầu hai mươi mốt đại biểu; có trên bốn nghìn dân thì cứ thêm một nghìn
dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng tổng số không quá ba mươi đại biểu.

- Xã không thuộc trường hợp quy định tại các điểm a, b và c khoản này có
từ năm nghìn dân trở xuống được bầu hai mươi lăm đại biểu; có trên năm nghìn
dân thì cứ thêm hai nghìn năm trăm dân được bầu thêm một đại biểu, nhưng
tổng số không quá ba mươi đại biểu.
Hai là, Thường trực Hội đồng nhân dân xã gồm Chủ tịch Hội đồng nhân
dân, một Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân và các Ủy viên là Trưởng ban của Hội
đồng nhân dân xã. Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân xã là đại biểu Hội đồng
nhân dân hoạt động chuyên trách.


5

Ba là, Hội đồng nhân dân xã thành lập Ban pháp chế, Ban kinh tế - xã hội.
Ban của Hội đồng nhân dân xã gồm có Trưởng ban, một Phó Trưởng ban và các
Ủy viên. Số lượng Ủy viên của các Ban của Hội đồng nhân dân xã do Hội đồng
nhân dân xã quyết định. Trưởng ban, Phó Trưởng ban và các Ủy viên của các
Ban của Hội đồng nhân dân xã hoạt động kiêm nhiệm.
CHƯƠNG 2: HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA BAN PHÁP CHẾ,
BAN KINH TẾ - XÃ HỘI CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN XÃ TRONG
THỰC TIỂN Ở ĐỊA PHƯƠNG
1. Chức năng nhiệm vụ của Ban pháp chế
Tham gia chuẩn bị nội dung kỳ họp của Hội đồng nhân dân liên quan đến
lĩnh vực thi hành pháp luật, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, xây
dựng chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính.
Thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo, đề án liên quan đến lĩnh vực thi
hành pháp luật, quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, xây dựng chính
quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính do Hội đồng nhân dân hoặc
Thường trực Hội đồng nhân dân phân công.
Giúp Hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của Toà án nhân dân, Viện
kiểm sát nhân dân cùng cấp; giám sát hoạt động của Uỷ ban nhân dân và các cơ

quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân cùng cấp về lĩnh vực thi hành pháp
luật, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, xây dựng chính quyền địa
phương và quản lý địa giới hành chính; giám sát hoạt động của cơ quan nhà
nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân
trong việc thi hành Hiến pháp, luật, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên và
nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp về lĩnh vực thi hành pháp luật, quốc
phòng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, xây dựng chính quyền địa phương và
quản lý địa giới hành chính.
Tổ chức khảo sát tình hình thực hiện các quy định của pháp luật về lĩnh
vực thi hành pháp luật, quốc phòng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội, xây dựng
chính quyền địa phương và quản lý địa giới hành chính do Hội đồng nhân dân
hoặc Thường trực Hội đồng nhân dân phân công.


6

Tham gia xây dựng kế hoạch tuyên truyền, giáo dục pháp luật và kiến
nghị với Hội đồng nhân dân về những biện pháp bảo đảm việc thi hành pháp luật
ở địa phương.
Báo cáo kết quả hoạt động giám sát với Thường trực Hội đồng nhân dân
và Hội đồng nhân dân.
2. Chức năng nhiệm vụ của Ban kinh tế - xã hội
Ban kinh tế trung tâm tham gia chuẩn bị các nội dung các kỳ họp của hội
đồng nhân dân xã liên quan đến các lĩnh vực kinh tế, xã hội giáo dục, y tế, ngân
sách, văn hóa thơng tin, thể dục thể thao và khoa học cơng nghệ, tài ngun,
khống sản và mơi trường.
Có nhiệm vụ thẩm tra dự thảo nghị quyết, báo cáo đề án liên quan đến các
lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa thể thao do hội đồng nhân dân phân công theo
nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Thực hiện các nhiệm vụ giúp hội đồng nhân dân giám sát hoạt động của

ủy ban nhân và các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân xã cùng cấp về
các lĩnh vực văn hóa, thể thao, giáo dục và y tế, thông tin, khoa học công nghệ,
tài ngun, khống sản, mơi trường.
Ngồi ra, ban kinh tế xã hội còn thực hiện các chức năng tổ chức khảo sát
các tình hình của địa phương về việc thực hiện các quy định của pháp luật, các
chủ trương, chính sách của nhà nước về các lĩnh vực kinh tế, xã hội, ngân sách,
giáo dục, thể dục, thể thao, văn hóa thông tin, tài nguyên và môi trường, khoa
học công nghệ, đời sống nhân dân theo nhiệm vụ quyền hạn của mình.
Ban kinh tế cịn có chức năng kiến nghị với hội đồng nhân dân về những
vấn đề thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, văn hóa thể thao, khoa học công
nghệ, giáo dục, y tế, tài nguyên và mơi trường.
Sau đó ban kinh tế báo cáo các kết quả hoạt động giám sát với cơ quan
thường trực của hội đồng nhân dân cấp xã theo quy định của pháp luật.
3. Hiệu quả đạt được và những mặt tồn tại, hạn chế trong thực tiển
hoạt động của các Ban tại địa phương (tại xã AT)


7

Kể từ khi Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 ra đời, lần đầu
tiên Hội đồng nhân dân cấp xã được thành lập hai ban đó là Ban pháp chế và
Ban kinh tế - xã hội với chức năng, nhiệm vụ theo điều 108 của Luật Tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015. Từ đầu nhiệm kỳ cho tới nay hai ban của
Hội đồng nhân dân xã Khóa VI đã cơ bản thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ của
mình trong việc thẩm tra các văn bản, báo cáo, dự thảo Nghị quyết trình kỳ họp
để Hội đồng nhân dân xã thông qua, giám sát theo luật định, cụ thể hai ban của
Hội đồng nhân dân xã đã tổ chức họp thẩm tra các báo cáo, tờ trình, dự thảo
nghị quyết do Ủy ban nhân dân xã trình tại 12 kỳ họp, hai ban đã ban hành 24
báo cáo thẩm tra, tổ chức được 11cuộc giám sát, khảo sát chuyên đề, ban hành
11 báo cáo giám sát.

Qua hoạt động thực tiển hai ban của Hội đồng nhân dân xã AT cho thấy,
các ban Hội đồng nhân dân xã đã cơ bản thực hiện đúng quy định và chương
trình công tác đề ra, đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của địa phương. Hàng năm
các ban Hội đồng nhân dân xã đều được đánh giá, xếp loại chất lượng hoạt động
hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ và hoàn thành tốt nhiệm vụ.
Tuy nhiên trong thực tiễn hoạt động cho thấy có lúc hai ban của Hội đồng
nhân chưa phát huy hết được vai trò trách nhiệm trước cử tri và Nhân Dân tại
địa phương, cũng như trong thực hành nhiệm vụ theo luật định. Cụ thể:
Một số đại biểu chưa dành đủ lượng thời gian cần thiết cho hoạt động của
Hội đồng nhân dân, chưa thường xuyên tiếp công dân theo quy định.
Công tác tham gia xây dựng và tuyên truyền, phổ biến pháp luật, chủ
trương của Đảng, Nhà nước, nghị quyết của Hội đồng nhân dân còn thiếu chủ
động, chưa được quan tâm đúng mức.
Việc xem xét, quyết định những vấn đề quan trọng, nhất là về kinh tế - xã
hội, ngân sách nhà nước, xây dựng cơ bản có lúc cịn mang tính hình thức.
Ủy ban nhân dân xã còn chậm trễ trong việc chuẩn bị tài liệu phục vụ
việc thẩm tra, nhất là các số liệu liên quan đến phát triển kinh tế - xã hội tại địa
phương.


8

Ủy ban nhân dân xã chưa thực hiện hay triển khai thực hiện chưa hiệu quả
các kiến nghị sau giám sát, có lúc cịn mang tính đối phó, nên thực tế phần nào
đã làm ảnh hưởng đến hoạt động của hai ban Hội đồng nhân dân xã.
CHƯƠNG 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG HOẠT ĐỘNG CÁC BAN CỦA HỘI ĐỒNG
NHÂN DÂN CẤP XÃ
Để hoạt động của Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội của Hội đồng
nhân dân xã trong thời gian tới, phát huy đúng khả năng và triển khai thực hiện

tốt chức năng, nhiệm vụ trong việc thẩm tra, giám sát tại địa phương theo Luật
tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 và Luật số 47/2019/QH14 luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Chính phủ và Luật Tổ chức chính
quyền địa phương. Ban pháp chế và Ban kinh tế - xã hội của Hội đông nhân dân
xã xác định một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau:
Một là, cần tập trung nâng cao chất lượng đại biểu Hội đồng nhân dân và
công tác tổ chức của Hội đồng nhân dân, đổi mới công tác hiệp thương, giới
thiệu người ra ứng cử làm đại biểu, không nên nặng về cơ cấu mà nên coi trọng
phẩm chất, đạo đức, trình độ, năng lực cơng tác.
Hai là, cần tập trung nghiên cứu kỹ các văn bản của Trung ương, của tỉnh,
của huyện liên quan đến nhiệm vụ của hai ban để phục vụ cho công tác thẩm tra
các văn bản trình kỳ họp thơng qua. Các báo cáo thẩm tra của hai ban trình tại
kỳ họp phải được đầu tư, nghiêng cứu trên cơ sở phản ánh chính xác thực trạng
địa phương, tạo niềm tin cho đại biểu Hội đồng nhân dân xã tham gia kỳ họp
biểu quyết tán thành các dự thảo nghị quyết được thông qua tại kỳ họp.
Ba là, tăng cường đôn đốc Ủy ban nhân dân xã trong việc chuẩn bị tài liệu
phục vụ kỳ họp để phục vụ công tác thẩm tra của các ban theo luật định.
Bốn là, nâng cao chất lượng công tác khảo sát các nội dung còn nhiều thắc
mắc mà đại biểu, cử tri và Nhân dân quân tâm hoặc những vấn đề nổi cộm, gây
bức xúc tại địa phương. Căn cứ Nghị quyết về Chương trình giám sát của Hội
đồng nhân dân hàng năm, các Ban Hội đồng nhân dân xã xây dựng kế hoạch và


9

tổ chức giám sát chuyên đề, khảo sát thường xuyên tại các xóm ấp, đơn vị trên
địa bàn.
Phần 3. KẾT LUẬN
Để các ban của Hội đồng nhân dân thực hiện tốt vai trị, nhiệm vụ của
mình theo quy định của pháp luật, đòi hỏi phải đảm bảo sự lãnh đạo toàn diện

của Đảng đối với hoạt động của Hội đồng nhân dân. Nhất là công tác cán bộ,
người đại biểu phải có năng lực thực sự, mà trước hết đó là năng lực đại diện.
Do đó việc bầu chọn được những đại biểu đủ tiêu chuẩn tham gia vào cơ quan
quyền lực Nhà nước, cơ quan đại biểu của nhân dân là điều kiện quan trọng để
nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân các cấp.
Lâu nay, đâu đó ta vẫn thường nghe người dân phàn nàn về hiệu quả hoạt
động của các cơ quan đại diện cho dân cịn thấp và cịn mang nặng tính hình
thức, đặc biệt là ở cấp xã. Ở đây có nhiều nguyên nhân nhưng nguyên nhân quan
trọng nhất vẫn là năng lực của người đại biểu chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Để
khắc phục điểm hạn chế này thì cuộc bầu cử diễn ra sắp tới phải thực sự dân chủ
để người dân có nhiều cơ hội lựa chọn những người đại biểu xứng đáng vào cơ
quan quyền lực nhà nước ở đại phương. Chính quyền các cấp phải tạo mọi điều
kiện để người dân thực hiện quyền bầu cử của mình, đây là quyền chính trị cơ
bản của cơng dân đã được Hiến pháp quy định. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng
nói: “Tổng tuyển cử là một dịp cho tồn thể quốc dân tự do lựa chọn những
người có tài có đức để gánh vác cơng việc nước nhà… tổng tuyển cử tức là tự
do, bình đẳng, tức là dân chủ, đồn kết”. Về phía cử tri cũng cần xác định đầy đủ
về quyền và nghĩa vụ của mình trong cơng tác bầu cử, tìm hiểu kỹ các quy định
của pháp luật về tiêu chuẩn của người đại biểu để lựa chọn chính xác người đại
diện cho mình, khơng nên vì lý do gì đó mà chỉ chọn ra những đại biểu “hiền
lành và rụt rè”, thiếu bản lĩnh. Nếu như vậy, vơ hình chung đã góp phần làm
giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đông nhân dân các cấp.
Suy cho cùng, nhân tố quan trọng quyết định hiệu quả hoạt động của Hội
đồng nhân dân chính là hiệu quả hoạt động của các đại biểu. Bác Hồ cũng đã chỉ
ra rằng con người là cái gốc của công việc, công việc thành hay bại đều do con
người quyết định. Năng lực và bản lĩnh của đại biểu là điều kiện quan trọng để


10


hoạt động của Hội đồng nhân dân có hiệu quả. Đây cũng là vấn để mà cử tri đặc
biệt quan tâm và kỳ vọng./.



×