Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Suy ngẫm về triết học tiên khởi – wikipedia tiếng việt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.87 KB, 12 trang )

Suy ngẫm về Triết
học Tiên khởi
Bài viết này cần thêm chú thích nguồn gốc để kiểm chứng thơng tin.
Tìm hiểu thêm

Suy ngẫm về Triết học tiên khởi, với tựa đề con Chứng minh sự tồn tại của Chúa trời và sự
khác biệt thực sự giữa tâm và thân, (tên Latinh: Meditationes de prima philosophia, in qua Dei
existentia et animae immortalitas demonstrantur) là cuốn sách viết bởi René Descartes được
xuất bản lần đầu năm 1641. Nội dung cuốn sách mở rộng hệ thống triết học của Descartes
mà ông đã giới thiệu lần đầu trong cuốn Phương pháp luận (1637).
Cuốn sách bao gồm 6 tự luận, trong đó, Descartes loại bỏ mọi niềm tin không tuyệt đối xác
định, rồi cố gắng xác lập những gì mà ta có thể tin chắc.

Các tự luận
Tự luận I: Về những gì ta có thể nghi ngờ
Trong Tự luận I, tác giả sử dụng ngôi thứ nhất và văn phong biện chứng, từng bước xé bỏ các
kiến giải bằng một nguyên tắc thông suốt. Nguyên tắc đó là: ta nên kiềm chế để khơng khẳng
định những điều khơng xác định, như thể nó là sai vậy. Tuy nhiên, ơng cơng nhận rằng tâm
thức có thói quen tin vào những gì nó nhận thức được, và do đó, ý chí phải cẩn trọng giả thiết
rằng mọi niềm tin có sẵn đều có thể sai. Để hỗ trợ luận đề đó, ơng bàn về ba cấp độ: cảm
giác, giấc mơ, và giả thuyết về con quỷ dối lừa.
Mặc dù cả ba đều có thể làm sai lạc nhận thức của chúng ta, Descartes xác nhận rằng chúng
khơng có đủ năng lực để làm sai lạc được sự kiện rằng ta "có vẻ như" đang nhận thức. Năng


lực tư duy và tồn tại cũng được xem là bất khả xâm phạm.

Tự luận II: Về bản chất của tâm thức con người - cái được hiểu biết nhiều
hơn là thể xác
Trong Tự luận II, Descartes đưa ra một giải thích về hình thái của tư tưởng, đơi khi còn được
gọi là chủ nghĩa đại diện, để tiếp nối các nghi ngờ trong Tự luận I. Ông xác định năm bước


trong lý thuyết này:
1. Ta chỉ có thể tiếp cận thế giới các ý niệm của ta; các sự vật trong thế giới tự nhiên chỉ có
thể được tiếp cận một cách gián tiếp.
2. Các ý niệm này được hiểu là bao gồm mọi nội dung của trí tuệ, trong đó có nhận thức,
hình dung, ký ức, khái niệm, niềm tin, chủ ý, quyết định, v.v..
3. Các ý niệm đại diện cho các sự vật tách rời chính các ý niệm đó.
4. Những sự vật được đại diện này nhiều khi "nằm ngồi" trí tuệ.
5. Các ý niệm này có thể đại diện một cách chính xác hoặc sai lạc.
Descartes lý luận rằng lý thuyết đại diện này tách rời thế giới khỏi trí tuệ, dẫn tới sự cần thiết
có một dạng cầu nối giữa hai bên và mang lại những lý do chính đáng để tin rằng các ý niệm
đại diện chính xác thế giới bên ngồi. Có thể thấy tấm ván đầu tiên mà ông dùng để xây dựng
cây cầu này trong trích đoạn sau:
Tơi đã tự thuyết phục bản thân rằng thế giới khơng có gì - khơng trời, khơng đất, khơng trí tuệ, khơng
thể xác. Có phải như thế nghĩa là tơi khơng tồn tại? Khơng, chắc chắn tơi phải tồn tại nếu tơi chính là
người đã bị thuyết phục bởi điều gì đó. Nếu có một kẻ lừa đảo quyền năng và giảo hoạt với mục đích
làm cho tơi ln ln bị lừa dối. Nhưng nếu tơi bị lừa dối thì chắc chắn tơi tồn tại. Cho hắn tha hồ lừa
dối tôi, hắn sẽ khơng bao giờ có thể khẳng định được rằng tơi là hư vơ, trong khi tơi nghĩ mình là cái gì
đó. Do vậy, sau khi đã cân nhắc cẩn thận mọi suy xét, cuối cùng tôi phải đi đến kết luận rằng tuyên bố
"Tôi tồn tại" phải là đúng đắn mỗi khi tơi phát biểu nó hoặc suy nghĩ về nó.
Descartes, Tự luận II: Về bản chất của tâm thức con người - cái được hiểu biết nhiều hơn là thể xác

Nói cách khác, ý thức của một người hàm ý sự tồn tại của người đó. Tại một trong các trả lời
của Descartes tới các bình luận phản đối cuốn sách, ơng đã tóm tắt điều đó trong một câu
nói nổi tiếng Tơi tư duy, nên tơi tồn tại.
Khi đã chắc chắn được về tự tồn tại của mình, Descartes tìm cách tìm hiểu "tơi" là gì. Ơng
chối bỏ phương pháp truyền thống là tìm kiếm một định nghĩa vì sau đó các từ trong định
nghĩa sẽ cần được định nghĩa. Ơng tìm các thuật ngữ đơn giản mà không cần phải được định


nghĩa mà nghĩa của chúng chỉ cần "nhìn là thấy". Từ đó, các sự thật hiển nhiên, các thuật ngữ

phức tạp có thể được xây dựng.
Điểm đầu tiên trong các sự thật hiển nhiên này là chứng minh của Descartes về sự tồn tại
được xem xét lại từ một cách nhìn mới:
Vậy thì tơi là ai? Một cái gì đó tư duy. Đó là cái gì? Cái gì đó nghi ngờ, hiểu, khẳng định, phủ nhận,
muốn, từ chối, và còn cảm nhận bằng các giác quan và có các hình dung trong trí óc.
Descartes, Tự luận II: Về bản chất của tâm thức con người - cái được hiểu biết nhiều hơn là thể xác

Để định nghĩa bản thân rõ hơn, Descartes tìm đến ví dụ về sáp nến. Ơng khẳng định rằng sáp
nến khơng phải là sáp nến vì màu sắc, hình dạng hoặc kết cấu bề mặt, do tất cả những đặc
điểm đó đều có thể thay đổi nhưng chất đó vẫn là sáp nến. Do đó, ơng phân biệt giữa nhận
thức thông thường và đánh giá. Hiện thực của sáp nến được "lĩnh hội, không phải bằng các
giác quan hay năng lực hình dung trí tuệ, mà chỉ bằng hiểu biết." Khi ta hiểu các nguyên lý
toán học của chất, chẳng hạn nó giãn nở do nhiệt độ cao, hình dạng và cơ chế, thì tri thức về
sáp nến mới có thể rõ ràng và xác thực.
Nếu một chất chẳng hạn sáp nến có thể được hiểu theo kiểu này, thì bản thân chúng ta cũng
có thể được hiểu một cách tương tự. Khi đó, bản thân ta khơng được xác định bằng những gì
ta cảm nhận về chính mình - cánh tay này, cái đầu này, đôi mắt này - mà bằng những điều ta
suy nghĩ. Do đó, ta "khơng thể nắm bắt cái gì dễ dàng hơn hoặc rõ ràng hơn tâm thức của
chính mình".

Tự luận III: Về sự tồn tại của Chúa trời
Trên nền tảng rằng "Tôi tồn tại", trong Tự luận III', Descartes tìm cách chứng minh rằng "Tơi
khơng cơ độc". Trong q trình đó, ơng giải bài tốn hồi nghi về các tiêu chí bằng lý lẽ sau:
1. Tơi tồn tại như là một thực thể tư duy.
2. Làm thế nào để tơi chắc chắn về điều đó?
3. Vì tơi hiểu nó rõ ràng và xác thực đến mức nó khơng thể sai được.
4. Bất cứ cái gì được hiểu một cách rõ ràng và xác thực đều là đúng.
Tiếp theo, trước khi tiếp tục các lý lẽ của mình, Descartes sắp xếp lại nội dung của tâm thức
con người thành các ý niệm và các ý niệm hành động. Có ba nguồn gốc có thể của các ý niệm;
chúng là bẩm sinh, hoặc thu được từ bên ngoài bản thân, hoặc được bản thân tạo ra. Các ý

niệm hành động được tạo từ các nhận xét, ý muốn và cảm xúc. Ông cũng phân biệt giữa thực
tại hình thức và thực tại chủ quan. Thực tại hình thức là những gì có thực (chẳng hạn một con


hươu cao cổ thật) hoặc một suy nghĩ thật về một con hươu cao cổ). Còn thực tại chủ quan
đại diện cho các ý niệm tự tạo (ví dụ thần núi hay ngựa một sừng).
Sử dụng tiêu chí "rõ ràng và xác thực", Descartes tìm cách chứng minh ơng khơng cơ độc
bằng cách chứng minh rằng Chúa tồn tại. Ơng chọn phương pháp này vì nếu khơng có kiến
thức về việc Chúa có tồn tại hay khơng hoặc Chúa có phải một kẻ lừa dối hay khơng, sẽ
khơng có cách nào để bàn về thách thức của thực tại về kẻ lừa dối đầy quyền năng. Để làm
được điều đó, đầu tiên ông thiết lập một nguyên lý nhân quả: Mức độ thực tế trong nguyên
nhân ít nhất cũng phải bằng mức độ thực tế trong kết quả. Ví dụ, nếu một suy nghĩ về một
con voi được gây ra bởi bức tranh vẽ một con voi, thì bức tranh đó phải có mức độ thực tế
khơng nhỏ hơn suy nghĩ kia. Nếu khơng, nó đã khơng thể tạo ra suy nghĩ đó.
Sử dụng nguyên lý nhân quả này, trong Tự luận III, Descartes đưa ra hai lý lẽ bản thể học về
sự tồn tại của Chúa trời. Lý lẽ thứ nhất bắt đầu bằng sự thật rằng mỗi người trong chúng ta
đều có một ý niệm về Chúa trời, lý lẽ thứ hai bắt đầu với sự thật rằng bản thân ta tồn tại.
Lý lẽ 1
1. Tơi có một ý niệm về Chúa trời (một bản thể hoàn hảo vơ cùng).
2. Ý niệm đó phải có một ngun nhân.
3. Khơng có cái gì đến từ hư vơ.
4. Ngun nhân phải có mức độ thực tế khơng kém ý niệm.
5. Tơi khơng hồn hảo vơ cùng.
. Tơi khơng thể là nguyên nhân của ý niệm đó.
7. Phải có một nguyên nhân mà nó là hồn hảo vơ cùng.
. Chúa trời tồn tại.
Lý lẽ 2
1. Tôi tồn tại.
2. Sự tồn tại của tơi phải có một ngun nhân.
3. Ngun nhân đó phải là một trong các khả năng sau:

a) chính bản thân tôi
b) tôi vẫn luôn luôn tồn tại
c) cha mẹ tơi hay cái gì đó khơng hồn hảo bằng Chúa trời
d) Chúa trời
1. Không phải a. Nếu tôi đã tạo ra chính mình thì tơi đã làm cho bản thân hoàn hảo.


2. Không phải b. Việc tôi đã luôn tồn tại không dẫn đến được chuyện tôi hiện đang tồn tại,
trừ khi có một nguyên nhân nào đó đã bảo tồn tơi.
3. Khơng phải c. Ngun nhân đó hẳn phải hồn hảo không kém tôi và lại được tạo ta từ
một nguyên nhân khác. Điều này dẫn tới một sự hồi quy vơ hạn.
4. d. Chúa trời tồn tại. Q trình truy ngược tìm nguyên nhân kết thúc tại một nguyên nhân
cuối cùng - một cái sở hữu sự tồn tại tự thân (self-existence) hoàn hảo và sở hữu mọi
điều hoàn hảo mà từ đó đã xuất phát ý niệm của tôi.
Từ các lý lẽ này, Descartes cảm thấy rằng ông đã chứng minh ơng khơng đơn độc trong vũ trụ
vì cịn có Chúa trời - một bản thể hồn hảo, quyền năng và mẫn tuệ vô cùng. Không những
thế, ông cịn chứng minh được rằng vị Chúa trời này khơng thể là kẻ lừa dối:
Toàn bộ lý lẽ dẫn đến: Tôi nhận thức rằng tôi không thể tồn tại với bản chất như hiện nay mà lại có
trong tâm thức ý niệm về một vị Chúa trời, trừ khi Chúa trời thực sự tồn tại. Đó chính là vị Chúa trời mà
ý niệm về ngài ngự trong tơi, đó là thực thể sở hữu tất cả những điều hoàn hảo mà tâm thức chỉ có
được chút khái niệm chứ khơng thể thơng hiểu trọn vẹn, đó là thực thể mà rõ ràng khơng thể có chút gì
khiếm khuyết. Do vậy, Ngài khơng thể lừa dối. Vì như ánh sáng tự nhiên cho ta thấy, mọi gian lận và lừa
dối đều bắt nguồn từ khiếm khuyết.
Descartes, Tự luận III: Về sự tồn tại của Chúa trời

Tự luận IV: Về đúng và sai
Các kết luận của các Tự luận khác rằng cả "tôi" và "Chúa trời" đều tồn tại dẫn đến một vấn đề
khác: Nếu Chúa trời nhân hậu vô cùng và là nguồn gốc của mọi điều thiện, thì bằng cách nào
mà sai lầm và lừa dối lại có chỗ để tồn tại? Descartes cố gắng trả lời câu hỏi này trong Tự
luận IV.

...nếu tơi có được mọi thứ trong tơi từ nơi Chúa trời và Ngài đã không cho tôi khả năng lầm lỗi, thì có vẻ
là tơi khơng bao giờ có thể lầm lỗi.
Descartes, Tự luận IV: Về đúng và sai

Dàn lý lẽ của ông tập trung vào Cây sự sống (Great Chain of Being - scala naturae), trong đó
cái thiện hồn hảo của Chúa trời tương ứng với thực thể hồn thiện của Ngài. Cịn đầu kia
của thước đo là sự trống rỗng hồn tồn, đó cũng chính là cực điểm của cái ác. Do đó, con
người là một trung gian ở giữa hai cực điểm đó, khơng "thực" hay "thiện" bằng Chúa trời,
nhưng "thực" và "thiện" hơn sự trống rỗng. Do đó, lầm lỗi (như là một phần của cái ác) khơng
phải là một thực tại tích cực, nó chỉ là sự vắng mặt của cái đúng. Theo cách đó, sự tồn tại
của nó là được phép trong hồn cảnh của một vị Chúa trời khơng bao giờ lầm lỗi.


Tôi nhận thấy rằng tôi là "trung gian" giữa Chúa trời và sự trống rỗng, giữa thực thể tối cao và phi thực
thể. Do tôi là sáng tạo của thực thể tối cao, khơng có gì trong tơi chịu trách nhiệm về việc tôi bị lừa dối
hoặc bị đưa đến chỗ phạm sai lầm. Nhưng vì lý do nào đó mà tơi cũng có phần trong hư vơ hay cái phi
thực thể, nghĩa là do tơi khác với chính thực thể tối cao và còn thiếu nhiều thứ, nên chuyện tơi phạm
sai lầm là khơng có gì đáng ngạc nhiên. Do vậy, tôi hiểu rằng bản thân sai lầm là một sự thiếu hụt chứ
khơng phải là một cái có thực và phụ thuộc vào Chúa trời. Từ đó, tơi hiểu rằng tơi có thể lầm lỗi nhưng
khơng phải vì Chúa đã cho tôi một khả năng đặc biệt để làm điều đó, mà là tơi rơi vào lầm lỗi là do
năng lực Chúa trời đã ban tặng để phân biệt đúng sai không phải là vô hạn.
Descartes, Tự luận IV: Về đúng và sai

Descartes còn thừa nhận hai điểm có thể cho phép khả năng ơng có thể sai lầm. Trước hết,
ơng ghi nhận rằng rất có thể tri thức hạn chế của ông ngăn cản ông hiểu được tại sao Chúa
trời lại quyết định tạo ra ông theo cách mà ơng có thể phạm sai lầm. Nếu ơng có thể thấy
những gì Chúa thấy, với một tầm nhìn vơ tận và đầy đủ, có lẽ ơng sẽ có thể đánh giá được khả
năng phạm lỗi của mình là lựa chọn tốt nhất. Ông dùng điểm này để tấn công cấu trúc
nguyên nhân Aristotle. Như Aristotle đã miêu tả, nguyên nhân cuối cùng của một đối tượng là
nguyên do để nó tồn tại. Nhưng Descartes khẳng định rằng vì ông không có khả năng thấu

hiểu tâm thức của Chúa trời, nên qua khoa học ta không thể hiểu được hồn tồn ngun do
(tại sao) mà chỉ có thể hiểu được cơ chế (bằng cách nào).
...Tôi nhận ra rằng tôi không nên ngạc nhiên về việc Chúa trời làm những điều mà tơi khơng thể giải
thích. Tơi khơng nên nghi ngờ sự tồn tại của Ngài chỉ vì đơi khi tơi khơng thể hiểu được vì sao hay bằng
cách nào Ngài đã tạo ra cái gì đó. Tơi hiểu rằng bản chất của tơi yếu kém và có hạn, trong khi bản chất
của Chúa trời vĩ đại, vô tận và khơng thể hình dung nổi. Do đó, tơi khơng cịn gặp khó khăn gì khi hiểu
ra rằng có vơ vàn sự việc nằm dưới quyền năng của Ngài mà nguyên do của chúng vượt ra ngoài khả
năng của tâm thức tôi. Chỉ riêng suy xét này đã đủ để thuyết phục tơi rằng việc giải thích các sự vật vật
lý trong tự nhiên theo mục đích của chúng là vơ dụng. Sẽ là quá liều lĩnh nếu tôi cho rằng mình có thể
khám phá được mục đích của Chúa trời.
Descartes, Tự luận IV: Về đúng và sai

Thứ hai, ông nhận ra rằng Chúa trời có khả năng sáng tạo nhiều thứ mà ơng chắc chỉ là một
phần của chúng. Có lẽ sai sót chỉ biểu hiện khi nhìn từng cá thể và được hóa giải khi nhìn
tồn thể.
...khi muốn xét xem các tạo vật của Chúa trời hoàn hảo đến đâu, ta cần nhìn tất cả cùng một lúc chứ
khơng phải riêng lẻ từng tạo vật. Vì cùng một đối tượng, nó có thể rất khơng hồn hảo nếu chỉ có một
mình trong thế giới, nhưng lại có thể hồn hảo khi được xem là một phần của cả vũ trụ. Tất nhiên, do
mục đích của tơi là nghi ngờ mọi thứ, tơi chưa biết chắc rằng cịn có cái gì khác tồn tại bên cạnh tơi và
Chúa trời. Nhưng khi xét đến quyền năng vĩ đại của Chúa, tôi không thể phủ nhận rằng Ngài đã tạo ra,


hoặc ít nhất cũng có thể tạo ra, nhiều thứ khác. Và do vậy, tơi có thể giữ một vị trí là một phần của cái
tồn thể vĩ đại của các tạo vật của Ngài.
Descartes, Tự luận IV: Về đúng và sai

Cuối cùng, Tự luận IV quy nguồn gốc của sai lầm cho sự không nhất quán giữa hai tặng phẩm
thần thánh: hiểu biết và ý nguyện. Hiểu biết được cho dưới một dạng khơng hồn chỉnh, trong
khi về bản chất, ý nguyện chỉ có thể được cho một cách hồn chỉnh hoặc khơng được cho.
Nếu một người thu được một số hiểu biết nhất định và sau đó "chọn" cách hành động ra

ngồi hiểu biết đó, thì người đó phạm sai lầm. Do đó, cả hai tặng phẩm của Chúa trời (hiểu
biết và ý nguyện) luôn luôn là điều tốt đẹp, chỉ có việc anh ta sử dụng khơng đúng đắn mới là
sai lầm.
Nếu tơi tạm hỗn việc đánh giá một vật khi tơi chưa lĩnh hội về nó một cách rõ ràng và xác thực, rõ
ràng tôi đã làm đúng và khơng bị lừa dối. Cịn nếu tơi hoặc khẳng định hoặc phủ nhận nó, thì tơi đã
khơng sử dụng đúng đắn ý nguyện tự do của mình. Nếu tôi khẳng định một điều sai, rõ ràng tôi đã bị
lừa dối. Cịn nếu điều tơi đang đánh giá là đúng, nhưng tơi lại lỡ bỏ qua nó, thì tơi vẫn là người có lỗi. Vì
ánh sáng tự nhiên khẳng định rằng năng lực tri giác của hiểu biết phải luôn luôn đi trước quyết định
của ý nguyện. Nằm trong việc dùng lầm ý nguyện tự do này là sự thiếu hụt mà chính nó là cái cấu
thành lầm lỗi. Và tôi vẫn khẳng định rằng sự thiếu hụt này nằm trong hành động xuất phát từ chính tơi,
chứ không nằm trong năng lực ý nguyện của tôi mà Chúa trời đã ban tặng, hoặc ngay cả trong hành
động xuất phát từ Ngài.
Descartes, Meditation IV: Tự luận IV: Về đúng và sai

Tự luận V: Về bản chất của các đối tượng vật chất và bàn thêm về sự tồn
tại của Chúa trời
Tự luận V mở đầu với mục đích mở rộng "những điều đã biết" về Chúa trời và bản thân để bao
hàm cả các đối tượng vật chất bên ngoài. Descartes để dành phần này cho Tự luận V thay
cho một điều mà ông cho là nền tảng hơn nhưng theo cùng một hướng: bàn luận về các ý
niệm về các sự vật ngoại vi đó. Trong quá trình đó, ơng tình cờ gặp một chứng minh logic
khác về sự tồn tại của Chúa trời.
...trước khi hỏi xem ngồi tơi cịn tồn tại sự vật nào khơng, tơi cần cân nhắc các ý niệm trong tư duy
của tôi về các sự vật đó, xem ý niệm nào rõ ràng, ý niệm nào mơ hồ.
Descartes, Tự luận V: Về bản chất của các đối tượng vật chất và bàn thêm về sự tồn tại của Chúa trời

Trong khi cân nhắc các ý niệm về các sự vật bên ngoài này, Descartes nhận ra rằng chúng có
thể được chia thành hai nhóm: các ý niệm rõ ràng xác thực, và các ý niệm lộn xộn mơ hồ.
Nhóm thứ nhất bao gồm các ý niệm về sự mở rộng, khoảng thời gian và chuyển động. Các ý



niệm hình học này khơng thể bị hiểu sai hoặc bị kết hợp theo một cách làm cho chúng trở nên
sai. Ví dụ, nếu ta xây dựng ý niệm về một sinh vật có cái đầu của hươu cao cổ, thân của sư tử
và đuôi của một con hải ly, và nếu câu hỏi đặt ra là sinh vật này có ruột già hay khơng, thì
người ta sẽ phải bịa ra câu trả lời. Nhưng, cho dù ta kết hợp hoặc sắp xếp các tính chất tốn
học như thế nào đi nữa, tổng ba góc của một tam giác vẫn là 180 độ và cạnh lớn nhất vẫn
luôn luôn đối diện góc lớn nhất. Do vậy, Descartes phát hiện ra rằng các chân lý này có bản
chất của chính mình và hoàn toàn độc lập với suy nghĩ hay kiến giải của con người.
...Tơi tìm thấy trong bản thân tơi vô số ý niệm về những sự vật mà dù chúng có thể khơng tồn tại bên
ngồi tơi nhưng ta khơng thể nói rằng chúng khơng là gì cả. Tuy tơi có một chút điều khiển đối với các
suy nghĩ của mình về những sự vật này, nhưng tơi khơng thể bịa ra chúng, chúng có bản chất thực và
bất biến của chính mình. Chẳng hạn, giả sử tơi có một hình ảnh tư duy về một tam giác. Tuy rằng một
hình vẽ như vậy có thể khơng tồn tại hoặc chưa từng tồn tại bên ngoài suy nghĩ của tơi, nhưng hình đó
có một bản chất cố định, bất biến và vĩnh cửu. Bản chất đó khơng phải do tôi tạo ra và không hề phụ
thuộc vào tâm thức của tôi.
Descartes, Tự luận V: Về bản chất của các đối tượng vật chất và bàn thêm về sự tồn tại của Chúa trời

Trong khi suy nghĩ về sự độc lập của các ý niệm về các đối tượng ngoại vi này, Descartes
nhận ra rằng ông chắc chắn về Chúa trời bao nhiêu thì cũng chắc chắn về các khái niệm tốn
học này bấy nhiêu. Ơng khẳng định rằng điều này là tự nhiên, vì chỉ có các ý niệm về Chúa trời
mới hàm ý sự tồn tại của Chúa. Ông sử dụng ví dụ về một ngọn núi và một thung lũng. Tuy
người ta khơng thể hình dung một ngọn núi khơng có thung lũng, điều đó khơng có nghĩa
rằng tồn tại một ngọn núi hay một thung lũng nào đó. Tuy nhiên, điều đó lại có nghĩa rằng núi
và thung lũng là không thể tách rời, cho dùng chúng có tồn tại hay khơng. Cịn khi tơi khơng
thể hình dung Chúa trời mà lại cho rằng Chúa khơng tồn tại, điều đó có nghĩa sự tồn tại khơng
thể tách rời khỏi Ngài. Nói một cách đơn giản, lý lẽ của ông được sắp xếp như sau:
1. Chúa trời được định nghĩa như là một thực thể vô cùng hoàn hảo.
2. Sự hoàn hảo bao hàm sự tồn tại.
3. Vậy, Chúa trời tồn tại.
Tuy Descartes đã khẳng định sự tồn tại của Chúa qua các lý lẽ trước, lý lẽ này cho phép ông
giải quyết được bất cứ sự khơng hài lịng nào mà ơng đã có thể có đối với tiêu chí của ơng về

sự "rõ ràng và xác thực" của sự thật. Với việc sự tồn tại của Chúa trời đã được khẳng định,
mọi nghi vấn rằng những gì ta đã từng nghĩ là thực chứ khơng phải một giấc mơ có thể được
loại bỏ. Khi đã nhận thức được điều này, Descartes khẳng định rằng nếu khơng có tri thức
chắc chắn này về sự tồn tại của một thực thể hoàn hảo và tối cao, sự đảm bảo cho bất kỳ
một sự thật nào cũng là không thể.


Do đó, tơi thấy rõ ràng rằng độ chắc chắn và tính chân thực của tồn bộ khoa học chỉ phụ thuộc vào tri
thức về vị Chúa trời đích thực, đến mức khi tôi chưa biết về Ngài, tôi đã khơng thể có được tri thức
hồn hảo về bất cứ điều gì. Và giờ đây, khi tơi đã biết về Ngài, tôi sở hữu phương tiện để đạt được tri
thức hồn hảo về vơ số vấn đề, khơng chỉ về Chúa trời và các thực thể trí tuệ khác mà cịn về bản chất
của các đối tượng vật lý, vì đó là đối tượng của tốn học thuần túy - ngành khoa học khơng quan tâm
đến chuyện chúng có tồn tại hay không.
Descartes, Tự luận V: Về bản chất của các đối tượng vật chất và bàn thêm về sự tồn tại của Chúa trời

Tự luận VI: Về sự tồn tại của các đối tượng vật chất và sự khác biệt thực
sự giữa tâm thức và thể xác
Trong Tự luận VI, Descartes bàn về sự tồn tại tiềm tàng của vật chất bên ngoài bản thân và
Chúa trời. Đầu tiên, ông thiết lập rằng những đối tượng như vật có thể tồn tại đơn giản chỉ vì
Chúa trời có khả năng tạo ra chúng.
...ít nhất tơi cũng biết chắc rằng chúng tồn tại, do chúng là đối tượng nghiên cứu của tốn học thuần
túy, mà trong khía cạnh đó thì tơi có thể hình dung về chúng một cách rõ ràng và xác thực. Do khơng
có nghi ngờ gì rằng Chúa trời sở hữu quyền năng sáng tạo ra mọi đối tượng mà tơi có thể hình dung về
chúng một cách xác thực, và tôi chưa bao giờ cho điều gì là khơng thể đối với Ngài, trừ khi tơi gặp một
mâu thuẫn trong khi cố gắng hình dung về nó một cách đúng đắn.
Descartes, Tự luận VI: Về sự tồn tại của các đối tượng vật chất và sự khác biệt thực sự giữa tâm thức
và thể xác

Biết rằng sự tồn tại của các đối tượng đó là có thể, Descartes dựa vào sự phổ biến của các
hình ảnh trí óc để tìm cách chứng minh. Để làm điều này, ơng phân biệt giữa hiểu biết thuần

túy và hình dung. Hiểu biết là một cái gì đó được hiểu nhưng khơng được nhìn thấy trong trí
óc. Cịn các hình dung là những gì được nhìn thấy như là các bức ảnh trong trí óc. Ơng giải
thích bằng ví dụ sau đây:
Khi tơi có một hình dung, chẳng hạn về một hình tam giác, tơi khơng chỉ hiểu rằng nó là một hình có
biên là 3 đoạn thẳng, mà tơi cịn "nhìn" các đoạn thẳng đó như thể chúng được trình bày trước con mắt
của tâm thức tơi. Và đó là cái mà tơi gọi là hình dung. Cịn khi tơi nghĩ về một đa giác một nghìn cạnh,
tơi hiểu rằng đó là một hình có một nghìn phía cũng như khi tôi hiểu rằng một tam giác là một hình có
ba phía. Nhưng tơi khơng thể hình dung được các cạnh này hay "nhìn" chúng như thể chúng đang được
đặt trước mắt tôi.
Descartes, Tự luận VI: Về sự tồn tại của các đối tượng vật chất và sự khác biệt thực sự giữa tâm thức
và thể xác


Tuy nhiên, Descartes chưa đưa ra chứng minh rằng các đối tượng ngoại vi tồn tại, ông mới
chỉ ra rằng sự tồn tại của chúng có thể được giải thích một cách thuận tiện bằng q trình trí
óc đó. Để đạt được chứng minh này, đầu tiên ông xem lại các tiền đề cho các "Tự luận" - rằng
không thể tin tưởng các giác quan, và rằng những gì ơng được dạy "bởi thiên nhiên" khơng có
mấy tín nhiệm. Tuy nhiên, ơng nhìn các luận cứ này trong một ngữ cảnh mới; sau khi viết "Tự
luận I", ông đã chứng minh sự tồn tại của chính ơng và của một vị Chúa trời hồn hảo. Do vậy,
Descartes nhanh chóng nhảy đến các chứng minh về sự phân chia giữa thể xác và tâm thức
và về sự tồn tại của các sự vật vật chất:
Chứng minh rằng thể xác là tách biệt với tâm thức
1. Chúa trời có thể tạo bất cứ cái gì mà tơi có thể nhận thức một cách rõ ràng và xác thực.
2. Nếu Chúa tạo một thứ gì đó để nó độc lập với một thứ khác, chúng sẽ tách biệt với
nhau.
3. Tôi hiểu một cách rõ ràng và xác thực về sự tồn tại của tơi như là một thực thể tư duy
(mà khơng địi hỏi sự tồn tại của một thể xác).
4. Do vậy, Chúa trời có thể tạo một thực thể tư duy độc lập với thể xác.
5. Tôi hiểu một cách rõ ràng và xác thực về thể xác của tôi như là một thứ mở rộng (mà nó
khơng địi hỏi một tâm thức).

. Do vậy, Chúa trời có thể tạo một thể xác độc lập với tâm thức.
7. Do vậy, tâm thức của tôi là một thực tại tách biệt khỏi thể xác của tôi.
. Vậy tôi (một thực thể tư duy) có thể tồn tại mà khơng cần một thể xác.
Chứng minh về thực tại của các sự vật vật chất ngoại vi
1. Do các giác quan của mình mà tơi có một "xu hướng mạnh" tin vào thực tại của các sự
vật vật chất bên ngoài.
2. Chúa trời hẳn đã tạo tơi với bản chất đó.
3. Nếu các sự vật vật chất độc lập khơng tồn tại, thì Chúa là một kẻ lừa dối.
4. Nhưng Chúa không phải là kẻ lừa dối.
5. Vậy, các sự vật vật chất tồn tại và chứa đựng các tính chất bản chất của chúng.
Sau khi sử dụng hai luận cứ này để xua đi thuyết duy ngã và chủ nghĩa hoài nghi, Descartes
dường như đã thành công trong việc định nghĩa thực tại thành ba phần: Chúa trời (vô hạn),
các tâm thức, và các sự vật vật chất (hai loại sau đều hữu hạn). Ông kết thúc bằng bàn luận
về các chi tiết khác về thực tại mà một số người có thể xem là các mâu thuẫn, chẳng hạn các
cảm giác tại các chi bị cụt, bệnh phù (dropsy) và các giấc mơ.


Phản hồi và phản đối
Những người phản đối
Descartes đã đưa bản thảo của mình cho một số nhà triết học, thần học và logic học trước
khi xuất bản các Tự luận của ông. Các phản đối của họ và các phản hồi của ông (đôi khi dài
nhiều trang) đã được kèm theo lần xuất bản thứ nhất của các Tự luận. Do đó, cuộc đối thoại
này được coi như một phần của quan điểm của Descartes được biểu đạt trong các Tự luận.
Có bảy phản đối: Nhà thần học người Hà Lan Johannes Caterus (hay Johan de Kater); nhiều
nhà thần học và triết học do người bạn và thơng tín viên chính của Descartes Friar Marin
Mersenne tập hợp; triết gia người Anh Thomas Hobbes; nhà thần học và luận lý học Antoine
Arnauld; nhà triết học Pierre Gassendi; một đối chiếu khác bởi Mersenne; và thầy tu dòng Tên
Pierre Bourdin.

Xem thêm

René Descartes
Triết học hiện đại

Tham khảo
Melchert, Norman (2002). The Great Conversation: A Historical Introduction to Philosophy (h
ttps://archive.org/details/greatconversatio00norm) . McGraw Hill. ISBN 0-19-517510-7.
Descartes, Rene (1999). Cottingham, John (biên tập). Meditations on First Philosophy. Nhà
xuất bản Đại học Cambridge. ISBN 0-521-55818-2.

Liên kết ngoài
The Meditations ( />Essays about The Meditations ( />Meditationes de prima philosophia, éd. de Amstelodami, ex typographia Blavania, 1685
(Vicifons)


Lấy từ “ />title=Suy_ngẫm_về_Triết_học_Tiên_khởi&oldid=64
378471”

Sửa đổi lần cuối cùng cách đây 9 tháng bởi InternetArchiveBot.

Wikipedia

Nội dung được phát hành theo CC BY-SA 3.0 ,
ngoại trừ khi có ghi chú khác.



×