Tải bản đầy đủ (.docx) (13 trang)

Phân tích và đánh giá việc giải quyết con chung khi vợ chồng ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.73 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC MỞ HÀ NỘI
ggggg

njj

TRUNG TÂM ĐÀO TẠO ELEARNING

TIỂU LUẬN MƠN:
LUẬT HƠN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
Chủ đề 9:
Phân tích và đánh giá việc giải quyết con chung
khi vợ chồng ly hôn
Họ và tên:
Ngày, tháng, năm sinh:
MSSV:
Lớp:
Ngành: Luật Kinh tế

Hà Nội, 12/2021
1


MỞ ĐẦU
Như chúng ta đã biết, theo định nghĩa của Luật hơn nhân và gia
đình năm 2014, gia đình là tập hợp những người có gắn bó với nhau
do hơn nhân, quan hệ huyết thống quan hệ nuôi dưỡng, làm phát
sinh các quyền và nghĩa vụ giữa họ với nhau theo quy định. Đó là cái
nơi hình thành nhân cách, giáo dục phẩm chất, đạo đức ý chí, tính
cách để giữ gìn trật tự, kỷ cương xã hội, tơn ty, gia phong. Sự hình
thành văn hóa gia đình là sự kế thừa tiếp nối văn hóa truyền thống,
mặt khác khơng chối bỏ các giá trị văn hóa hiện đại. Thế nhưng vì


một lý do nào đó khiến cuộc sống hơn nhân đổ vỡ, gia đình mất đi
tính tồn vẹn và được giải quyết bằng trình tự thủ tục ly hơn theo
quy định của pháp luật.
Trong những năm gần đây tại Việt Nam, quan niệm về cuộc sống
hôn nhân của người dân thay đổi, số vụ án thụ lý giải quyết ly hôn
ngày một tăng theo từng năm và nội dung vụ việc cũng phức tạp
hơn. Theo báo cáo tổng kết cơng tác năm của ngành Tịa án năm
2020 thì các vụ án ly hôn chiếm 50 % các vụ án dân sự, tỷ lệ ly hôn
đối với những người trẻ cao (dưới 35 tuổi chiếm tỷ lệ 30 %) và không
ngừng tăng theo thời gian. Các vụ việc tranh chấp về quyền nuôi con
cũng gia tăng cả về số lượng và tính chất phức tạp. Để hiểu rõ hơn về
quy định của pháp luật hiện hành về việc giải quyết con chung khi vợ
chồng ly hôn, em lựa chọn đề tài sau: “Phân tích và đánh giá việc
giải quyết con chung khi vợ chồng ly hôn theo quy định của
pháp luật Việt Nam hiện hành”.
NỘI DUNG
I.

Quy định của pháp luật hiện hành điều chỉnh việc giải quyết
con chung khi vợ chồng ly hôn
1. Định nghĩa ly hôn
Tại khoản 14 Điều 3 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy
định “Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật của Tịa án.”
Như vậy, có thể hiểu ly hơn là chấm dứt quan hệ hơn nhân do Tịa
án quyết định theo yêu cầu của một bên hoặc cả hai bên đương sự, hủy
bỏ các trách nhiệm pháp lý và trách nhiệm của hôn nhân, các rằng
buộc dân sự khác. Phán quyết ly hơn của Tịa án được thể hiện dưới hai
2



hình thức: bản án hoặc quyết định. Nếu hai vợ chồng thuận tình ly hơn,
thỏa thuận được với nhau về tất cả các vấn đề chấm dứt quan hệ hôn
nhân, tài sản, con chung và nợ chung thì Tịa án công nhận sự thỏa
thuận này và ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
trong vụ án ly hơn. Nếu các bên đương sự có mâu thuẫn, tranh chấp thì
Tịa án tiến hành các trình tự thủ tục xét xử theo luật định và ban hành
bản án.
2. Quy định của pháp luật hiện hành về việc giải quyết con chung

2.1.

khi vợ chồng ly hôn
Đối tượng con chung là trọng tâm trong quan hệ con chung của
vợ chồng khi ly hôn bao gồm con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự mình ni, là đối tượng cần được pháp luật
bảo vệ quyền và lợi ích mọi mặt. Do đó, giải quyết vấn đề con chung
của vợ chồng khi ly hơn là tồn bộ quy định của pháp luật về xác
định quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng khi ly hôn nhằm bảo vệ quyền
lợi mọi mặt của con chung.
Về quyền ni dưỡng, chăm sóc con
Theo quy định tại khoản 1 Điều 71 Luật Hơn nhân và gia đình
năm 2014 thì “Cha, mẹ có nghĩa vụ và quyền ngang nhau, cùng
nhau chăm sóc, ni dưỡng con chưa thành niên, con đã thành niên
mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni mình”, tức là quyền và nghĩa vụ đối với
con luôn đặt ra với người làm cha, làm mẹ không phụ thuộc vào quan
hệ hôn nhân của cha và mẹ còn tồn tại hay đã chấm dứt quan hệ vợ
chồng hoặc chấm dứt quan hệ chung sống như vợ chồng hay chưa,

cụ thể:
Khoản 1 Điều 14 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Nam, nữ có đủ điều kiện kết hơn theo quy định của Luật này
chung sống với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hơn thì
khơng làm phát sinh quyền, nghĩa vụ giữa vợ và chồng. Quyền, nghĩa
vụ đối với con, tài sản, nghĩa vụ và hợp đồng giữa các bên được giải
quyết theo quy định tại Điều 15 và Điều 16 của Luật này”.
Khoản 1 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định:
“1. Sau khi ly hơn, cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trơng nom, chăm
sóc, ni dưỡng, giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên
3


mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni mình theo quy định của Luật này, Bộ luật
dân sự và các luật khác có liên quan.”
Như vậy, khi hai người khơng chung sống với nhau nữa thì cha,
mẹ vẫn phải thực hiện quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, ni
dưỡng, giáo dục con và khơng phải trường hợp nào cha mẹ cũng xảy
ra chuyện tranh giành nuôi con. Cha mẹ có quyền và nghĩa vụ ni
con trong các trường hợp sau đây: Con chưa thành niên; Con đã
thành niên nhưng mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng
lao động và khơng có tài sản để tự ni mình.
2.2.

Về việc giao con cho người trực tiếp trơng nom, chăm sóc,
ni dưỡng, giáo dục con
Khoản 2 và 3 Điều 81 Luật hơn nhân và gia đình năm 2014 quy
định:
“2. Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ,

quyền của mỗi bên sau khi ly hơn đối với con; trường hợp khơng thỏa
thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi
căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở
lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.
3. Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ
trường hợp người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom,
chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận khác
phù hợp với lợi ích của con.”
Tịa án luôn dựa vào nguyên tắc thỏa thuận giữa cha và mẹ của
người con để quyết định ai sẽ là người được ni con. Do đó, cha, mẹ
của người con có thể thỏa thuận về người trực tiếp ni con, về
quyền và nghĩa vụ của mỗi bên sau đối với con vào thời điểm trước,
trong hoặc sau khi yêu cầu Tòa án chấm dứt quan hệ vợ chồng hay
quan hệ chung sống như vợ chồng.
Khi cha, mẹ của người con khơng thỏa thuận được thì Tịa án sẽ
dựa vào quyền lợi của con để quyết định giao con cho một bên trực
tiếp ni dưỡng, chăm sóc. Việc quyết định ai có quyền ni con khi
ly hơn ngồi những điều kiện nêu trên còn phụ thuộc vào các yếu tố
khác, như chỗ ở, thu nhập, thời gian chăm sóc con… của mỗi bên,
4


nhằm đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con. Theo đó, người được
ni con phải chứng minh được trước Tịa án về bản thân sẽ cung cấp
mơi trường thuận lợi nhất cho sự phát triển của con và có đủ các điều
kiện đảm bảo cả về kinh tế lẫn tinh thần đáp ứng cho yêu cầu phát
triển bình thường của người con; người được ni con phải chứng
minh mình có đủ điều kiện vật chất về thu nhập, tài sản, nơi ở ổn
định… về tinh thần (có đủ thời gian để ở bên con, chăm sóc, ni
dưỡng con, ln phải đặt con lên hàng đầu…) để người con có cuộc

sống ổn định và phát triển hơn bên không được ni con.
Ngồi ra, một trong hai người có thể cung cấp thêm các chứng cứ
chứng minh người cịn lại khơng đủ điều kiện về vật chất và tinh thần
để nuôi dạy con cái, thường xuyên có hành vi bạo lực, thu nhập
khơng ổn định…
Ngồi những quy định nêu trên, khi Tịa án quyết định giao con
cho người nào ni cịn lưu ý một số điểm sau đây:
Thứ nhất, xem xét nguyện vọng của con từ đủ 07 tuổi, tức trong
quá trình phán quyết ai sẽ là người ni con sau khi ly hơn, Thẩm
phán phụ trách phiên tịa giải quyết ly hơn là người có thẩm quyền
lấy ý kiến trẻ từ đủ 07 tuổi về việc muốn sống với cha hay với mẹ. Khi
lấy ý kiến của trẻ phải tuân thủ quy định tại khoản 2 Điều 208 Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 là phải bảo đảm thân thiện, phù hợp với
tâm lý, lứa tuổi, mức độ trưởng thành, khả năng nhận thức của trẻ;
bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ.
Đặc biệt, việc lấy ý kiến phải đảm bảo giữ bí mật cá nhân của
trẻ. Giải đáp số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07 tháng 4 năm 2017 của
Tòa án nhân dân tối cao tại điểm 26 mục IV cũng hướng dẫn về quy
định nêu trên như sau: “Phương pháp lấy ý kiến phải bảo đảm thân
thiện với trẻ em. Tuy nhiên, Tòa án phải căn cứ vào quyền lợi về mọi
mặt của người con để quyết định giao cho một bên trực tiếp nuôi
dưỡng”. Trên thực tế, ý kiến của con thường chỉ mang tính định
hướng, tham khảo, là một phần để Tòa án xem xét đi đến quyết định,
khơng có ý nghĩa hồn tồn quyết định.
Thứ hai, trường hợp con dưới 03 tuổi, thì quyền ni con thuộc
về người mẹ, trừ khi người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trơng
nom, chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con hoặc cha mẹ có thỏa thuận
5



khác. Luật quy định như vậy xuất phát từ yêu cầu đảm bảo quyền
được hưởng đầy đủ các quyền của đứa trẻ, nên khi xem xét việc giao
con cho người nào trực tiếp ni dưỡng Tịa án phải đánh giá thực tế
điều kiện nuôi dưỡng con của cha, mẹ; tuy mặc định việc giao con
dưới 03 tuổi cho người mẹ trực tiếp nuôi nhưng trong trường hợp
người cha chứng minh được người mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp
nuôi con thì Tịa án vẫn có thể giao con cho người cha trực tiếp nuôi
con.
2.3.

Về quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
Không chỉ được quyền thăm con mà người khơng trực tiếp ni
con phải có nghĩa vụ cấp dưỡng để san sẻ một phần gánh nặng về
tiền bạc đối với người nuôi con. Vấn đề này được quy định cụ thể tại
Điều 110 LHNGĐ 2014: “Cha, mẹ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
chưa thành niên, con đã thành niên khơng có khả năng lao động và
khơng có tài sản để tự ni mình trong trường hợp khơng sống chung
với con hoặc sống chung với con nhưng vi phạm nghĩa vụ ni dưỡng
con”.
Theo đó, khi ly hơn, người khơng trực tiếp ni con sẽ phải có
trách nhiệm cấp dưỡng ni con cho đến khi con thành niên và có
khả năng lao động hoặc có tài sản để tự ni mình.
Trước hết, mức cấp dưỡng sẽ do hai bên (cha và mẹ) thỏa thuận
căn cứ vào thu nhập thực tế, khả năng tài chính của người cấp dưỡng
cũng như nhu cầu chi tiêu của người con. Đặc biệt, khi có lý do chính
đáng, mức cấp dưỡng có thể thay đổi. Việc thay đổi mức cấp dưỡng
cũng do các bên thỏa thuận. Chỉ khi khơng thể thỏa thuận được, Tịa
án mới quyết định áp dụng mức cấp dưỡng cho các bên. Các phương
thức cấp dưỡng cũng khá linh hoạt; có thể cấp dưỡng định kỳ hàng
tháng, hàng quý, nửa năm, hàng năm hoặc một lần. Phương thức cấp

dưỡng do các bên thỏa thuận.

2.4.

Về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn
Quyền được trực tiếp nuôi con không phải lúc nào cũng cố định.
Trong các trường hợp được quy định tại Điều 84 Luật Hơn nhân và gia
đình 2014 sau đây có thể được thay đổi người ni con sau khi Tịa án
đã có quyết định:
6


Khi cha mẹ có thỏa thuận về việc thay đổi người ni con.
Nếu con trên 7 tuổi thì khi đổi người nuôi con phải hỏi ý kiến của con.
Cha hoặc mẹ có quyền u cầu nếu thấy người cịn lại khơng cịn đủ
khả năng và điều kiện để chăm sóc và mang đến cho con lợi ích tốt
nhất nữa.
• Nếu cả cha mẹ đều khơng có đủ điều kiện để ni dạy con thì Tịa sẽ
quyết định trao quyền ni con cho người giám hộ
2.5. Hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên




Khi thực hiện quyết định ly hôn hoặc chấm dứt quan hệ chung
sống như vợ chồng thì người khơng trực tiếp ni con phải tuân thủ
quy định tại Điều 82 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014; theo đó,
người khơng trực tiếp ni con phải có nghĩa vụ tơn trọng quyền của
con khi con sống với người cịn lại, có nghĩa vụ cấp dưỡng và có
quyền thăm nom con mà khơng ai được cản trở. Tuy nhiên, không thể

lấy lý do thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc
chăm sóc, ni dưỡng, giáo dục con. Khi đó, người có trách nhiệm
ni con có quyền u cầu Tịa án hạn chế quyền thăm nom. Cụ thể,
Điều 85 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định các trường
hợp sau đây sẽ bị Tòa án hạn chế quyền thăm nom con:






Bị kết án về một trong các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự của con với lỗi cố ý;
Có hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc,
ni dưỡng, giáo dục con;
Phá tài sản của con;
Có lối sống đồi trụy;
Xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã
hội.
Khi có căn cứ cho rằng bên khơng trực tiếp ni con có các dấu
hiệu được quy định tại Điều 85 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014
thì bên trực tiếp ni con vì quyền lợi của con có quyền làm đơn đến
Tòa án yêu cầu hạn chế quyền thăm nom của bên không trực tiếp
nuôi con, Hồ sơ yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con bao
gồm:






Đơn u cầu tịa án hạn chế quyền thăm nom con
Bản sao quyết định ly hơn có cơng chứng
Bản sao chứng minh thư nhân dân
7


Chứng cứ chứng minh người không trực tiếp nuôi con đã có hành vi
ảnh hưởng đến việc chăm sóc giáo dục con
• Đơn xin xác nhận cư trú chứng minh thẩm quyền khởi kiện


Người u gửi đơn tới Tịa án nhân dân cấp huyện nơi bị đơn cư
trú để được giải quyết.
2.6.

Về xử lý khi vi phạm các quy định về quyền nuôi con
Theo quy định tại Điều 53, Điều 54 Nghị đinh 167/2013/NĐ-CP
quy định xử phạt trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an tồn xã hội;
phịng chống tệ nạn xã hội; phòng cháy và chữa cháy; phòng chống
bạo lực gia đình thì:

Người nào có hành vi từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng
giữa vợ chồng sau khi ly hôn, giữa cha mẹ và con sau khi ly hơn thì bị
phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 nghìn đồng đến 300 nghìn đồng.
• Người nào có hành vi ngăn cản quyền thăm nom, chăm sóc giữa cha,
mẹ và con thì bị phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 100 nghìn đồng đến
300 nghìn đồng.


Bên cạnh đó, Điều 380 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: Khi

đã có quyết định của Tịa án u cầu cha hoặc mẹ phải có nghĩa vụ
cấp dưỡng cho con nhưng khơng thực hiện bản án mặc dù có đủ điều
kiện và đã bị áp dụng biện pháp cưỡng chế thì có thể bị phạt tối đa 5
năm tù giam.
Ngồi ra, Điều 186 Bộ luật hình sự năm 2015 cịn quy định: Nếu
việc trốn tránh hoặc từ chối nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ khiến
người con lâm vào tình trạng nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe thì
có thể bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến 2 năm hoặc phạt
tù từ 3 tháng đến 2 năm.
II.

Thực tiễn áp dụng và những kiến nghị hoàn thiện quy định về
giải quyết con chung khi vợ chồng ly hôn của pháp luật hiện
hành.
Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành và thay thế
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 là một bước tiến quan trọng về
mặt lập pháp. Luật này mang tính đột phá với nhiều quy định mới,
tiến bộ được bổ sung, nhất là quy định về giải quyết con chung khi vợ
chồng ly hôn. Tuy nhiên, trong thực tiễn việc giải quyết con chung khi
vợ chồng ly hơn cịn gặp một vài khó khăn, vướng mắc:
8


1. Thực tiễn áp dụng

Trên thực tiễn của cuộc sống, chúng ta thấy rằng “việc xem xét
nguyện vọng của con trên 07 tuổi tại tịa án” thường ảnh hưởng
khơng tốt đến tâm lý của trẻ, quan điểm của trẻ thường xun thay
đổi, hơm nay nói ở với bố, ngày mai nói ở với Mẹ. Hoặc có những
trường hợp trẻ cịn nhỏ chưa tự ý thức được muốn ở với ai, thường

cha, mẹ gia đình nội ngoại hai bên sẽ “chiêu dụ” trẻ, bằng nhiều
cách thức, chiêu trị khác nhau. Đó có thể là việc hứa hẹn mua đồ
chơi, mua những thứ trẻ thích, cho chơi game, xem phim thay vì phải
dành nhiều thời gian cho việc học khiến trẻ thích thú rồi từ đó tạo
niềm tin, xúi giục trẻ cần phải khai theo hướng có lợi tại buổi làm việc
tại Tịa án. Nghiêm trọng hơn, cịn có những trường hợp, cha, mẹ
hoặc gia đình hai bên nội, ngoại khơng ngại nói xấu đối phương, cố
tình hạ bệ để reo giắc vào suy nghĩ của trẻ những góc nhìn khơng
hay về người cha hoặc người mẹ của chúng. Thiết nghĩ, với trường
hợp này, Thẩm phán đến trường cháu đang học; làm việc với người
có trách nhiệm để có kế hoạch làm việc riêng với cháu. Bằng cách
đóng vai một cuộc phỏng vấn vui; gọi nhóm em học sinh trong đó có
học sinh mà cần biết ý kiến và nguyện vọng và phát phiếu để hỏi:
Nếu giả sử rằng cha mẹ con ly hơn thì con sống với ai vì sao lại chọn
sống với ba hoặc mẹ. Sau đó, Thẩm phán và lãnh đạo nhà trường tiến
hành lập biên bản cho sự việc lấy ý kiến đó. Vừa đảm bảo khách
quan, vừa không làm tổn thương các con.
Liên quan đến quy định của luật hiện hành, tại khoản 1 Điều 81
Luật hôn nhân và gia đình năm 2015 quy định: “Sau khi ly hơn,
cha mẹ vẫn có quyền, nghĩa vụ trơng nom, chăm sóc, ni dưỡng,
giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành
vi dân sự hoặc khơng có khả năng lao động và khơng có tài sản để tự
ni mình theo quy định của Luật này, Bộ luật dân sự và các luật
khác có liên quan.” Tuy nhiên, như thế nào là “khơng có khả năng lao
động” và “khơng có tài sản để tự ni mình” thì hiện tại trong quy
định của pháp luật hơn nhân và gia đình khơng có giải thích cụ thể
dẫn đến việc áp dụng trên thực tiễn có sự khác nhau, không đồng
nhất.

9



Theo quy định tại Điều 116 của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014 thì khi quyết định mức cấp dưỡng ni con, Tịa án phải căn cứ
vào hai yếu tố đó là việc cấp dưỡng phải đáp ứng nhu cầu thiết yếu
của người được cấp dưỡng và phải căn cứ vào thu nhập, khả năng
thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Hiện nay, chưa có văn bản
hướng dẫn cụ thể thế nào là “thu nhập, khả năng thực tế của người
có nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người được cấp
dưỡng” theo quy định của Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014.
Tại Nghị quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội
đồng Thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 được ban hành và có hướng dẫn
như sau: “Tiền cấp dưỡng ni con bao gồm những chi phí tối thiểu
cho việc ni dưỡng và học hành của con và do các bên thoả thuận.
Trong trường hợp các bên khơng thoả thuận được thì tuỳ vào từng
trường hợp cụ thể, vào khả năng của mỗi bên mà quyết định mức
cấp dưỡng nuôi con cho hợp lý”. Và quy định tại khoản 2, phần III của
Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC, cụ thể là
“Toà án phải xem xét đến khả năng kinh tế nói chung và thu nhập
nói riêng của người phải đóng góp phí tổn cũng như khả năng kinh tế
nói chung và thu nhập nói riêng của người ni dưỡng con. Trong đó
mức đóng góp phí tổn ni dưỡng, giáo dục con tối thiểu không dưới
1/2 (một phần hai) mức lương tối thiểu do Nhà nước quy định tại thời
điểm xét xử sơ thẩm đối với một người con” để làm căn cứ giải quyết.
Tuy nhiên, hiện nay cũng có quan điểm cho rằng các hướng dẫn tại
Công văn số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC và Nghị
quyết số 02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm
phán TANDTC khơng cịn hiệu lực thi hành và khơng cịn phù hợp với
tình hình thực tế hiện nay. Cho nên Tòa án căn cứ vào hướng dẫn của

các văn bản này để quyết định mức cấp dưỡng thơng thường là bằng
½ tháng lương cơ sở là khơng đúng quy định pháp luật. Điều này dẫn
đến thực tế là mức cấp dưỡng theo quyết định của Tòa án khơng đáp
ứng được chi phí tối thiểu cho việc ni dưỡng con chưa thành niên.
Tuy nhiên, cũng có quan điểm cho rằng do hiện nay chưa có hướng
dẫn cụ thể của TANDTC nên xác định mức cấp dưỡng nên Tòa án cần
vận dụng tinh thần của các văn bản trước đây mà cụ thể là Công văn
số 24/1999/KHXX ngày 17/3/1999 của TANDTC và Nghị quyết số
10


02/2000/NQ-HĐTP ngày 23/12/2000 của Hội đồng Thẩm phán
TANDTC để xem xét giải quyết về mức cấp dưỡng nuôi con.
2. Những kiến nghị hoàn thiện việc giải quyết con chung khi vợ

chồng ly hôn theo quy định của pháp luật hiện hành
Từ những bất cập đó, em xin đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện
việc giải quyết con chung khi vợ chồng ly hôn theo quy định của
pháp luật hiện hành như sau:
Thứ nhất, hoàn thiện một số thuận ngữ liên quan đến giải quyết
vấn đề con chung khi vợ chồng ly hơn. Theo đó, một số thuật ngữ cần
được quy định cụ thể bao gồm: “khơng có khả năng lao động” và
“khơng có tài sản để tự ni mình”. Những cụm từ phải được hiểu
một cách chính xác hơn có nghĩa là “khơng có khả năng lao động” là
việc một người bị hạn chế về sức khoẻ và độ tuổi làm hạn chế hoặc
mất khả năng lao động, gây ảnh hưởng đến thu nhập của bản thân
hoặc là người gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm tạo thu
nhập. “Khơng có tài sản để tự ni mình” là việc một người khơng có
tài sản hoặc nếu có tài sản nhưng tài sản đó khơng thể khai thác để
sinh lợi hoặc có thể khai thác nhưng giá trị rất nhỏ không đảm bảo

nhu cầu sống thiết yếu của người đó.
Thứ hai, hồn thiện các quy định về vấn đề tạm ngừng cấp
dưỡng. Cụ thể, nên quy định điều kiện được tạm ngừng cấp dưỡng là
người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải lâm vào “tình trạng khó khăn về
kinh tế”. Một người được coi là khó khăn về kinh tế là người khơng có
thu nhập hoặc có thu nhập nhưng mức thu nhập thấp và với mức thu
nhập đó người có nghĩa vụ cấp dưỡng khơng thể lo cho cuộc sống
của mình. Đồng thời, họ cũng khơng có tài sản giá trị hoặc có tài sản
nhưng khơng thể sinh lời, hoặc có thể sinh lời nhưng vẫn khơng đủ
cho nhu cầu sống thiết yếu của họ. Thậm chí họ có tài sản nhưng sau
khi bán đi cũng khơng thể có khả năng thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng
của mình. Ngồi ra, Luật HN&GĐ 2014 cần bổ sung thêm về thời
điểm kết thúc tạm ngưng cấp dưỡng. Trường hợp đối tượng được cấp
dưỡng là người chưa thành niên thì thời điểm kết thúc tạm ngừng cấp
dưỡng phải trước thời điểm người được cấp dưỡng tròn 18 tuổi.

11


Thứ ba, có văn bản hướng dẫn cụ thể cịn hiệu lực pháp luật giải
thích cụ thể thế nào là “thu nhập, khả năng thực tế của người có
nghĩa vụ cấp dưỡng” và “nhu cầu thiết yếu của người được cấp
dưỡng” theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.
Thứ tư, các cơ quan lập pháp cần nhanh chóng bổ sung, hồn
thiện và hướng dẫn những bất cập trong các quy định của pháp luật
về hôn nhân và gia đình nói chung và các quy định về giải quyết vấn
đề con chung khi ly hôn để tháo gỡ những khó khăn về mặt pháp lý
cho các cán bộ Tồ án trong q trình áp dụng pháp luật.
Thứ năm, đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến kiến thức
pháp luật về hơn nhân và gia đình cho người dân để họ có ý thức

riêng về việc xây dưng một đời sống gia đình văn hố, tn thủ pháp
luật, tuyên truyền, xoá bỏ những hủ tục, những phong tục, tập qn
lạc hậu về vấn đề ly hơn nói chung và giải quyết vấn đề con chung
khi vợ chồng ly hơn nói riêng ở một số vùng đồng bào dân tộc ít
người. Từ đó hạn chế những tranh chấp nảy sinh liên quan tới vấn đề
con chung khi ly hôn, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên, đặc biệt là của người vợ và con chưa thành niên.
KẾT LUẬN
Con cái và tài sản là hai yêu cầu thường xuyên tranh chấp trong
các vụ án ly hôn. Sau khi ly hơn, ai là người có quyền ni con và
nghĩa vụ cấp dưỡng cho con của người không trực tiếp nuôi con được
thực hiện như thế nào là vấn đề thường khó thống nhất khi giải quyết
tranh chấp ly hôn. Mặt khác, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của xã
hội hiện nay thì các quan hệ cũng thay đổi cho phù hơp với xu thế
của xã hội, do đó pháp luật cũng ln phải thay đổi theo để bắt kịp
với những thay đổi đó. Sự ra đời của Luật Hơn nhân và Gia đình năm
2014 thay thế Luật Hơn nhân và Gia đình năm 2000 là một sự thay
đổi tiến bộ phù hợp với tiến trình phát triển của đất nước; phù hợp với
quy luật khách quan, phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Việc quy định
đầy đủ cơ sở pháp lý để giải quyết con chung trong khi vợ chồng ly
hôn là điều rất cần thiết, đáp ứng được những yêu cầu và đòi hỏi của
thực tiễn cuộc sống kinh tế, xã hội, phù hợp với ý chí, nguyện vọng
của người dân trong một xã hội mới, của một nhà nước mà quyền và
12


lợi ích của người dân được đặt lên trên. Vì vậy, các nhà làm luật cần
có những giải pháp phù hợp để hoàn thiện pháp luật, tạo điều kiện
thuận lợi đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của trẻ em chưa thành
niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc khơng có

khả năng lao động và khơng có tài sản để tự mình ni nói chung và
của cha mẹ trẻ nói riêng. Em huy vọng rằng những kiến nghị của
mình sẽ góp một phần nhỏ bé trong cơng cuộc hồn thiện các quy
định của pháp luật liên quan giải quyết vấn đề con chung khi vợ
chông ly hôn theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.

13



×