Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa mác – lênin về chủ nghĩa xã hội đối với việc xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay liên hệ trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (155.24 KB, 24 trang )

KHOA LUẬT ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
--------------------

BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC MÔN HỌC
C HỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Giảng viên: PSG.TS Phạm Cô ng Nhất
Mã LHP:
MSSV:

Hà Nội, 2021


Đề tài: Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội
đối với việc xác định mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay? Liên
hệ trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam hiện nay.
Bài làm
Lý luận về chủ nghĩa xã hội do C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin sáng lập, phát
triển trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn sinh động xã hội tư bản chủ nghĩa
thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX trở thành cơ sở khoa học và phương pháp luận cho
giai cấp công nhân, các Đảng Cộng sản trên thế giới vận dụng, bổ sung, phát
triển vào điều kiện thực tiễn để xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hơn 170 năm qua,
lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử chủ nghĩa xã hội nói riêng, cả về phương
diện lý luận và thực tiễn, đã chứng kiến những biến thiên to lớn. Đến nay, chưa
có học thuyết nào vượt qua được tầm vóc vĩ đại của học thuyết Mác - Lênin
trong việc giúp cho nhân loại xóa bỏ được tình trạng dân tộc này áp bức dân tộc
khác, giải phóng con người thốt khỏi tình trạng nơ dịch, đưa con người trở về
đúng vị trí đích thực là làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Nhiều luận điểm về
chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị trong bối
cảnh mới hiện nay.


1. Lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội được hiểu theo bốn nghĩa:1) Là phong trào thực tiễn, phong
trào đấu tranh của nhân dân lao động chống lại áp bức, bất công, chống các giai
cấp thống trị; 2) Là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân
dân lao động khỏi áp bức, bóc lột, bất cơng; 3) Là một khoa học - Chủ nghĩa xã
hội khoa học, khoa học về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân; 4) Là một
chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
Khi nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, các nhà sáng
lập chủ nghĩa xã hội khoa học rất quan tâm dự báo những đặc trưng của từng
giai đoạn, đặc biệt là giai đoạn đầu (giai đoạn thấp) của xã hội cộng sản nhằm
định hướng phát triển cho phong trào công nhân quốc tế. Những đặc trưng cơ
bản của giai đoạn đầu, phản ánh bản chất và tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội
2


từng bước được bộc lộ đầy đủ cùng với quá trình xây dựng xã hội xã hội chủ
nghĩa. Căn cứ vào những dự báo của C.Mác và Ph.Ăngghen và những quan
điểm của V.I.Lênin về chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xơ - viết, có thể khái qt
những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội như sau: Một là, chủ nghĩa xã hội
giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con
người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Xã hội xã hội chủ nghĩa là chế độ xã hội có khả năng giải phóng người lao
động khỏi áp bức và bóc lột. Con người được đặt vào trung tâm của đời sống xã
hội, được xem là chủ thể chân chính của mọi quá trình xã hội. Lần đầu tiên trong
lịch sử lồi người, C.Mác và Ph.Ăngghen đã có lời giải đáp có cơ sở khoa học
về đặc trưng cơ bản của xã hội tương lai. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng Cộng sản”. Các ông đã viết, thay cho xã hội tư sản cũ, với những giai cấp
và đối kháng giai cấp của nó, xuất hiện một liên hiệp, trong đó sự phát triển tự
do của mỗi người là điều kiện cho sự phát triển tự do của tất cả mọi người.

Kế thừa và phát triển hơn nữa những dự đoán của C.Mác, Ph.Ăngghen về
đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa, V.I.Lênin đã khẳng định rằng cuộc đấu
tranh của giai cấp công nhân và Nhân dân lao động chống lại tất cả các giai cấp
sống bám vào lao động của người khác chỉ chấm dứt khi toàn bộ những tư liệu
sản xuất chủ yếu đã được trao lại cho toàn thể sản xuất để tổ chức nền sản xuất
xã hội chủ nghĩa làm lợi cho bản thân người lao động. Song, con đường đi tới
giải phóng con người lại diễn ra một cách biện chứng, trải qua nhiều bước quá
độ khác nhau, tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc giải phóng con người.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ
Đây là đặc trưng thể hiện thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã hội, xã hội vì
con người và do con người; nhân dân mà nòng cốt là nhân dân lao động là chủ
thể của xã hội thực hiện quyền làm chủ ngày càng rộng rãi và đầy đủ trong quá
trình cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới. Chủ nghĩa xã hội là một chế độ
chính trị dân chủ, nhà nước xã hội chủ nghĩa với hệ thống pháp luật và hệ thống
tổ chức ngày càng ngày càng hoàn thiện sẽ quản lý xã hội ngày càng hiệu quả.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: “... bước thứ nhất trong cách mạng công nhân
là giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị là giành lấy dân chủ”. V.I.Lênin,
3


từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga Xơ viết đã coi chính quyền
Xơ viết là một kiểu Nhà nước chun chính vơ sản, một chế độ dân chủ ưu việt
gấp triệu lần so với chế độ dân chủ tư sản: “Chế độ dân chủ vô sản so với bất kỳ
chế độ dân chủ tư sản nào cũng dân chủ hơn gấp triệu lần; chính quyền Xơ viết
so với nước cộng hồ dân chủ nhất thì cũng gấp triệu lần”1.
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
Chính C.Mác, Ph.Ăngghen đã kết luận: con người tự giải phóng được mình tới
mức nào - điều đó hồn tồn do lực lượng sản xuất đương thời quy định và cho
phép. Sự phát triển cao của lực lượng sản xuất và những kết quả kinh tế - xã hội

nảy sinh từ trình độ phát triển đó của sức sản xuất đạt được trong xã hội xã hội
chủ nghĩa là những tiền đề vật chất có ý nghĩa quyết định đối với việc giải
phóng con người, đối với sự phát triển tự do và toàn diện của con người. Đồng
thời, tương ứng với sự phát triển của lực lượng sản xuất, xã hội xã hội chủ nghĩa
cần xây dựng và nâng cao hiệu quả của chế độ công hữu về những tư liệu sản
xuất chủ yếu, thu hẹp và tiến tới xố bỏ bóc lột; phát huy vai trò làm chủ của
người lao động trong tổ chức, quản lý sản xuất, thực hiện phân phối theo lao
động, tạọ đọàn kết thuận lợi cho sự phát triển các lực lượng sản xuất và các
quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục tư tưởng mác xít về tiền đề kinh tế cho sự giải phóng con người,
V.I.Lênin nêu lên một đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội, đó là chế độ xã hội
có nền kinh tế phát triển cao; lực lượng sản xuất tiên tiến, hiện đại và thích ứng
với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, từng bước xây dựng
quan hệ sản xuất phù hợp dựa trên nền tảng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất,
thực hiện phân phối theo lao động.
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học đã khẳng định trong chủ nghĩa xã
hội phải thiết lập nhà nước chun chính vơ sản, nhà nước kiểu mới mang bản

1 V.I.Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tập. 37, tr.312-313.
4


chất của giai cấp công nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân
dân lao động.
Theo V.I.Lênin, chun chính cách mạng của giai cấp vơ sản là một chính
quyền do giai cấp vơ sản giành được và duy trì bằng bạo lực đối với giai cấp tư
sản. Chính quyền đó chính là nhà nước kiểu mới thực hiện dân chủ cho tuyệt đại
đa số nhân dân và trấn áp bằng vũ lực bọn bóc lột, bọn áp bức nhân dân, thực

chất của sự biến đổi của chế độ dân chủ trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản
lên chủ nghĩa cộng sản. Nhà nước vô sản, theo V.I.Lênin phải là một công cụ,
một phương tiện; đồng thời, là một biểu hiện tập trung trình độ dân chủ của
nhân dân lao động, phản ánh trình độ nhân dân tham gia vào mọi công việc của
nhà nước, quần chúng nhân dân thực sự tham gia vào từng bước của cuộc sống
và đóng vai trị tích cực trong việc quản lý. Cũng theo V.I.Lênin, Nhà nước xô viết sẽ tập hợp, lôi cuốn đông đảo nhân dân tham gia quản lý Nhà nước, quản lý
xã hội, tổ chức đời sống xã hội vì con người và cho con người. Nhà nước
chun chính vơ sản đồng thời với việc mở rộng rất nhiều chế độ dân chủ - lần
đầu tiên biến thành chế độ dân chủ cho người nghèo, chế độ dân chủ cho nhân
dân chứ không phải cho bọn nhà giàu - chun chính vơ sản cịn thực hành một
loạt biện pháp hạn chế quyền tự do đối với bọn áp bức, bọn bóc lột, bọn tư bản.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại.
V.I.Lênin, trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga xô - viết đã
luận giải sâu sắc về “văn hóa vơ sản” - nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa, rằng,
chỉ có xây dựng được nền văn hóa vơ sản mới giải quyết được mọi vấn đề từ
kinh tế, chính trị đến xã hội, con người. Người khẳng định: “...nếu khơng hiểu rõ
rằng chỉ có sự hiểu biết chính xác về nền văn hóa được sáng tạo ra trong tồn bộ
q trình phát triển của lồi người và việc cải tạo nền văn hóa đó mới có thể xây
dựng được nền văn hóa vơ sản thì chúng ta không giải quyết được vấn đề”.
Đồng thời, V. I. Lênin cũng cho rằng, trong xã hội xã hội chủ nghĩa, những
người cộng sản sẽ làm giàu tri thức của mình bằng tổng hợp các tri thức, văn
hóa mà lồi người đã tạo ra: “Người ta chỉ có thể trở thành người cộng sản khi
biết làm giàu trí óc của mình bằng sự hiểu biết tất cả những kho tàng tri thức mà
nhân loại đã tạo ra”. Do vậy, q trình xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa
5


phải biết kế thừa những giá trị văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại, đồng
thời, cần chống tư tưởng, văn hóa phi vơ sản, trái với những giá trị truyền thống

tốt đẹp của dân tộc và của loài người, trái với phương hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Thứ sáu, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc và có
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội, với bản chất tốt đẹp do con người, vì con người ln là bảo
đảm cho các dân tộc bình đẳng, đồn kết và hợp tác hữu nghị; đồng thời có quan
hệ với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Tất nhiên, để xây dựng cộng đồng
bình đẳng, đồn kết và có quan hệ hợp tác, hữu nghị với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới, điều kiện chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, theo
V.I.Lênin cần thiết phải có sự liên minh và sự thống nhất của giai cấp vơ sản và
tồn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các nước và các dân tộc trên tồn thế
giới: “Khơng có sự cố gắng tự nguyện tiến tới sự liên minh và sự thống nhất của
giai cấp vô sản, rồi sau nữa, của toàn thể quần chúng cần lao thuộc tất cả các
nước và các dân tộc trên tồn thế giới, thì khơng thể chiến thắng hồn tồn chủ
nghĩa tư bản được”. Trong “Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa”
văn kiện về giải quyết vấn đề dân tộc trong thời đại đế quốc chủ nghĩa và cách
mạng vô sản, V. I. Lê-nin chỉ rõ: “Trọng tâm trong tồn bộ chính sách của Quốc
tế Cộng sản về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa là cần phải đưa giai cấp vô
sản và quần chúng lao động tất cả các dân tộc và các nước lại gần nhau trong
cuộc đấu tranh cách mạng chung để lật đổ địa chủ và tư sản. Bởi vì, chỉ có sự
gắn bó như thế mới bảo đảm cho thắng lợi đối với chủ nghĩa tư bản, khơng có
thắng lợi đó thì không thể tiêu diệt được ách áp bức dân tộc và sự bất bình
đẳng”. Đó cũng là cơ sở để Người đưa ra khẩu hiệu: “Vô sản tất cả các nước và
các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
2. Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa xã hội
đối với việc xác định mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Bằng sự kiên định mục tiêu chủ nghĩa xã hội, dựa vào thành trì nhân dân, lấy
lịng dân làm cơ sở chính trị, Đảng ta đã “ln ln trăn trở, suy nghĩ, tìm tịi”
để vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý của nghĩa Mác - Lê nin vào
6



điều kiện cụ thể của Việt Nam, trong bối cảnh đã thay đổi của thế giới, dần dần
hoàn thiện đường lối Đổi mới, xây dựng, phát triển đất nước. Trung tâm của
đường lối Đổi mới là mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam đã được xác định cơ
bản từ Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(Cương lĩnh năm 1991) và được bổ sung, hoàn thiện thêm trong Cương lĩnh
năm 2011. Theo Cương lĩnh 2011, mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam được xác
định theo ba mảng nội dung:
Thứ nhất, mục tiêu chung, khái quát của chủ nghĩa xã hội Việt Nam là “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Đó là 5 giá trị căn cốt, quan
hệ gắn bó chặt chẽ với nhau, tạo nên nền tảng và sự bảo đảm bền vững cho hạnh
phúc của nhân dân, hạnh phúc của con người. Đó là sự tiếp thu chọn lọc những
giá trị tiến bộ nhất của những cuộc cách mạng trên thế giới kết hợp với khát
vọng ngàn đời của dân tộc ta. Đó cũng là mục đích cao cả, tối thượng của chủ
nghĩa xã hội và của cuộc cách mạng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Thứ hai, nội dung “nội trị” hay đường lối đối nội. Đó là một chế độ xã
hội “do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản
xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm
đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều
kiện phát triển tồn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn
kết, tơn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo”.
Những đặc trưng “nội trị” trên phản ánh sự nhận thức đúng đắn của Đảng ta về
những quy luật chung của lịch sử phát triển xã hội loài người, nhất là những
thay đổi mạnh mẽ và những vấn đề lớn đang đặt ra trong thế giới đương đại.
Cùng với đó là sự vận dụng hợp lý, sáng tạo vào điều kiện, tình hình cụ thể của
Việt Nam theo tinh thần “dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Điểm hội tụ trung tâm của
toàn bộ nội dung “nội trị” là nhân dân, nhân dân là chủ nhân của chế độ, chủ thể
của công cuộc xây dựng và hạnh phúc của nhân dân là mục đích tối thượng. Mọi

bộ phận, thành tố trong xã hội dù có xây dựng, vận hành theo hình thức và cơ
chế nào cũng đều hướng tới hạnh phúc của nhân dân và sự phát triển tự do, toàn
diện của con người. Với ý nghĩa đó, nội dung “nội trị” trong mơ hình chủ nghĩa
xã hội mang đặc trưng riêng có Việt Nam và chỉ có Việt Nam.
7


Thứ ba, nội dung đối ngoại của mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam là: “Có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới”. Đây là cơ sở
cho đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa, chủ động
hội nhập quốc tế sâu rộng, có hiệu quả cao. Mục đích của đường lối ngoại giao
là giữ vững mơi trường hịa bình, ổn định, nâng cao vị thế, uy tín đất nước trên
trường quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hịa bình, tiến bộ của cả thế giới. Đó
cũng chính là điều kiện bảo đảm cho sự thành cơng của công cuộc xây dựng,
phát triển đất nước, thể hiện tính chất tốt đẹp của chế độ, vai trị tích cực, có
trách nhiệm của Nhà nước ta với cộng đồng quốc tế. Đường lối đối ngoại này là
sự phát triển sáng tạo riêng có của Việt Nam, khơng lệ thuộc và không lặp lại
đường lối của bất cứ nhà nước nào khác, nhất là những quốc gia tự nhận là chủ
nghĩa xã hội nhưng lại thực hiện những chính sách đối ngoại bá quyền đối với
các dân tộc khác.

3. Liên hệ trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Tích cực học tập Chủ nghĩa Mác – Lênin, trang bị thế giới quan và phương
pháp luận biện chứng duy vật, nắm được sự vật động và phát triển của quy luật
xã hội. Mà từ chính những sự vận động nội tại của những quy luật đó, lồi người
chắc chắn sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội. Bản thân em sẽ tuyệt đối tin tưởng vào con
đường mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã lựa chọn, đó là con đường mà độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Tích cực học tập tri thức khoa học, rèn luyện kỹ năng tốt, phẩm chất tốt, vừa là

người có tài, vừa là người có đức. Thơng qua đó, chung tay đóng góp cơng sức
vào cơng cuộc xây dựng nước nhà, xây dựng chủ nghĩa xã hội, thể hiện vai trị
và trách nhiệm của bản thân.
Dưới góc độ chính trị: Thực hiện đúng chủ trương, chính sách, pháp luật của
Đảng và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ thành quả cách mạng của cha ông ta để lại. Tham gia tích cực
đóng góp cơng việc của nhà nước; tích cực tham gia các đồn thể trong nhà
trường như Đồn thanh niên, Hội sinh viên; hoạt động tình nguyện,…
8


Dưới góc độ kinh tế: Cùng với nhân dân xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chủ động, tích cực đến vùng sâu, dân tộc thiểu số để
chuyển giao tri thức, khoa học kỹ thuật; trong trường tiến hành các hoạt động
lao động cơng ích để xây dựng nhà trường, bảo vệ các tài sản của nhà trường; sử
dụng tiết kiệm các thiết bị điện, nước,…
Dưới góc độ văn hố, tư tưởng: Hiểu biết và bảo vệ chân lý khoa học của chủ
nghĩa Mác-Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh. Giữ gìn bản sắc văn hoá, truyền
thống lịch sử; đấu tranh với các quan điểm sai trái; phê phán những lệch lạc
trong nhận thức của người khác về chủ nghĩa xã hội,….
I. Mở đầu:
Chủ nghĩa xã hội là gì?
Chủ nghĩa xã hội được tiếp cận theo bốn nghĩa:
Là phong trào thực tiễn, phong trào đấu tranh của nhân dân lao động
chống các giai cấp thống trị;
Là trào lưu tư tưởng, lý luận phản ánh lý tưởng giải phóng nhân dân lao
động khỏi áp bức, bóc lột, bất công;
Là một khoa học - Chủ nghĩa xã hội khoa học, khoa học về sứ mệnh lịch
sử của giai cấp công nhân, khoa học về những quy luật và tính quy luật chính trị
- xã hội của quá trình chuyển biến từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản

chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội, được xem là một trong ba bộ
phận hợp thành chủ nghĩa Mác - Lênin;
Là một chế độ xã hội hiện thực tốt đẹp, xã hội xã hội chủ nghĩa, giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
Chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và nhân dân ta nhưng đây là sự
nghiệp lâu dài, vơ cùng khó khăn và gian khổ. Việt Nam đi lên chủ nghĩa xã hội
từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản
xuất rất thấp, lại trải qua mấy chục năm chiến tranh, hậu quả rất nặng nề; các thế
lực thù địch thường xuyên tìm cách phá hoại cho nên lại càng khó khăn, phức
tạp, nhất thiết phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước đi, nhiều
hình thức tổ chức kinh tế, xã hội đan xen nhau, có sự đấu tranh giữa cái cũ và
cái mới, vừa làm, vừa rút kinh nghiệm, phải biết kế thừa những thành tựu của
dân tộc và tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, kinh nghiệm của thời đại.
Trong những năm tiến hành công cuộc đổi mới, từ tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, Đảng Cộng sản Việt Nam từng bước nhận thức ngày càng đúng đắn
hơn, sâu sắc hơn về chủ nghĩa xã hội và thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội,
phù hợp thực tế và quy luật khách quan; từng bước khắc phục một số quan niệm
đơn giản trước đây như: đồng nhất mục tiêu cuối cùng của chủ nghĩa xã hội với
nhiệm vụ của giai đoạn trước mắt; nhấn mạnh một chiều quan hệ sản xuất, chế
9


độ phân phối bình qn, khơng thấy đầy đủ u cầu phát triển lực lượng sản
xuất trong thời kỳ quá độ; đồng nhất kinh tế thị trường với chủ nghĩa tư bản;
đồng nhất nhà nước pháp quyền với nhà nước tư sản...Đại hội VI đánh dấu một
bước chuyển quan trọng trong tư duy lý luận của Đảng, mở đầu quá trình đổi
mới và sự hình thành nhận thức mới của Đảng về chủ nghĩa xã hội, về thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta thông qua đổi mới, như một cuộc cải biến cách mạng lâu dài, tồn diện, sâu
sắc và triệt để, có kế thừa và có phát triển. Đại hội VII, trên cơ sở tổng kết thực

tiễn 5 năm đầu của đổi mới đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong văn kiện quan trọng này, câu trả lời
“chủ nghĩa xã hội là gì?” xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta xây dựng là một
xã hội như thế nào?
Đã lần đầu tiên được đề cập tới một cách có hệ thống dưới hình thức luận đề,
xác định
6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa và bảy phương pháp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước ta. Những đặc trưng đó vừa thể hiện tính phổ biến theo học
thuyết Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có
tính đến đặc điểm của thời đại. Nhận thức 6 đặc trưng của xã hội xã hội chủ
nghĩa trước hết là nhận thức được những thuộc tính bản chất của chủ nghĩa xã
hội. Bản chất ấy cũng đồng thời nói lên những mục tiêu mà chủ nghĩa xã hội
vươn tới. Xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội cũng
như toàn bộ tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta là từng bước đạt tới
cái chất và mục tiêu ấy của chủ nghĩa xã hội.
II. Nội dung
1. Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa xã hội đối với
việc xác định mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay
Lý luận về chủ nghĩa xã hội do C. Mác, Ph. Ăngghen, V.I.Lênin sáng lập, phát
triển trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn sinh động xã hội TBCN thế kỷ
XIX và đầu thế kỷ XX trở thành cơ sở khoa học và phương pháp luận cho giai
cấp công nhân, các Đảng Cộng sản trên thế giới vận dụng, bổ sung, phát triển
vào điều kiện thực tiễn để xây dựng CNXH.
Hơn 170 năm qua, lịch sử nhân loại nói chung, lịch sử CNXH nói riêng, cả về
phương diện lý luận và thực tiễn, đã chứng kiến những biến thiên to lớn. Đến
nay, chưa có học thuyết nào vượt qua được tầm vóc vĩ đại của học thuyết Mác Lênin trong việc giúp cho nhân loại xóa bỏ được tình trạng dân tộc này áp bức
dân tộc khác, giải phóng con người thốt khỏi tình trạng nơ dịch, đưa con người
trở về đúng vị trí đích thực là làm chủ xã hội, làm chủ bản thân. Nhiều luận
điểm về CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn giữ nguyên giá trị trong bối
cảnh mới hiện nay.

Thứ nhất, về tính tất yếu ra đời của xã hội xã hội chủ nghĩa
10


Xuất phát từ quan niệm duy vật lịch sử và học thuyết hình thái kinh tế - xã hội,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ ra sự phát triển xã hội loài người là quá trình phát
triển lịch sử - tự nhiên, từ thấp đến cao, từ chưa hoàn thiện đến hoàn thiện. Sự ra
đời xã hội mới bắt nguồn từ tất yếu kinh tế và được thai nghén từ trong lòng xã
hội cũ. Đây là căn cứ để hai ông nghiên cứu về hình thái kinh tế - xã hội TBCN
và chỉ ra tính tất yếu diệt vong của CNTB và tính tất yếu ra đời của CNXH,
CNCS.
Những luận điểm về sự ra đời của xã hội XHCN trên đây của chủ nghĩa Mác Lênin vẫn giữ nguyên giá trị. Loài người nhất định sẽ đi lên CNXH. Mặc dù,
hiện nay, CNTB đã có nhiều biểu hiện mới so với thời của C.Mác, V.I.Lênin,
nhất là thời kỳ của
C.Mác, nhưng bản chất của CNTB không thay đổi, những mâu thuẫn cơ bản
vốn có trong lịng CNTB vẫn tiếp tục diễn ra với những biểu hiện khác nhau,
với tính chất ngày càng gay gắt, sâu sắc hơn.
Thứ hai, một số đặc trưng cơ bản của xã hội xã hội chủ nghĩa
Trên những căn cứ lý luận và tổng kết thực tiễn, chủ nghĩa Mác - Lênin đã nêu
một số đặc trưng cơ bản của xã hội XHCN mà đến nay vẫn giữ nguyên giá trị.
Đó là:
Mục tiêu cao nhất của CNXH là giải phóng con người, tạo mọi điều kiện
để con người phát triển tồn diện.
Có lực lượng sản xuất phát triển, chế độ công hữu từng bước được xác
lập, tổ chức quản lý hiệu quả, năng suất lao động cao, phân phối theo lao động.
Chế độ dân chủ tiến bộ, Nhà nước dân chủ mang bản chất giai cấp công
nhân, với sự tham gia đông đảo các tầng lớp nhân dân lao động. - Xã hội cơng
bằng, bảo đảm bình đẳng giữa các dân tộc.
Những luận điểm của V.I.Lênin bàn về dân tộc, quyền tự quyết dân tộc là những
chỉ dẫn rất có giá trị giúp cho các đảng cộng sản, đảng công nhân vận dụng

trong giải quyết vấn đề dân tộc ở các quốc gia, khu vực, kể cả trong bối cảnh
hiện nay.
Thực tiễn cách mạng thế giới đã và đang chứng minh sức sống, giá trị bền vững
của những nguyên lý, những quan điểm về CNXH của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Đây là cơ sở lý luận để các đảng cộng sản nhận thức, vận dụng và bổ sung, phát
triển phù hợp với điều kiện cụ thể của nước mình. Sự ra đời và những thành tựu
vĩ đại của nhà nước XHCN Xô viết, của hệ thống XHCN trước đây cũng như
các nước XHCN hiện nay đang chứng minh cho điều đó.
Khẳng định sức sống của Chủ nghĩa Mác - Lênin, nêu cao tư tưởng Hồ Chí
Minh. 85 năm qua, Đảng ta tiếp tục vận dụng và phát triển sáng tạo Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện thực tiễn của cách mạng
Việt Nam. Hồ Chí Minh khẳng định rằng, cần phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác –
Lênin, bởi học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều nhưng chủ nghĩa chân chính nhất,
11


chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Từ chỗ coi chủ nghĩa Mác Lênin là cái cốt của Đảng, “cái gốc của
Đảng”, Đại hội lần thứ II (năm 1951), Đảng ta xác định chủ nghĩa Mác - Lênin
là nền tảng tư tưởng của Đảng. Tiếp theo, Đại hội lần thứ III (năm 1960), Đảng
khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi
hành động cách mạng. Đặc biệt đến Đại hội lần thứ VII (năm 1991), Đảng ta
chính thức khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động. Việc chính thức bổ sung tư
tưởng Hồ Chí Minh cho nền tảng tư tưởng của Đảng là đánh dấu một bước tiến
mới, một bước phát triển quan trọng trong tư duy lý luận. Đảng ta đã nhận thức
đầy đủ hơn, sâu sắc hơn vai trò, vị trí của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu, thảo luận một cách khoa học và dân chủ, Đảng ta nhận thức
nhấn mạnh rằng những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ giá
trị bao gồm các nguyên lý, các học thuyết lý luận nền tảng như: Học thuyết hình
thái kinh tế - xã hội, học thuyết cách mạng xã hội, về Đảng kiểu mới và nhà

nước kiểu mới, về sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân và vấn đề
thời đại. Đó là những vấn đề chủ yếu nổi bật nhất. Ngồi ra cịn là những kiến
giải đặc sắc nhất của Chủ nghĩa Mác
- Lênin về văn hóa, về con người và tư tưởng giải phóng con người…Đảng ta
nhấn mạnh, phải chú trọng nâng cao nhận thức khoa học đối với chủ nghĩa Mác
- Lênin, bởi trong quá khứ, đã có lúc chúng ta đã rơi vào giản đơn, giáo điều
trong nhận thức về chủ nghĩa Mác – Lênin và hậu quả rất nghiêm trọng. Vì vậy,
việc nhận thức lại và nhận thức đúng về chủ nghĩa Mác và thẳng thắn chủ động
sửa sai là hết sức quan trọng, bởi nhận thức đúng thì hành động đúng, nhận thức
sai hành động sai. Việc sửa chữa khuyết điểm, sai lầm phải bắt đầu từ sự sửa sai
trong nhận thức để đi tới sửa sai trong hoạt động thực tiễn.
Vấn đề cuối cùng, lý luận, chủ nghĩa, học thuyết Mác - Lênin là một hệ thống
mở chứ khơng phải đóng kín, động chứ không tĩnh. Thực tiễn ngày nay đã phát
triển biến đổi mạnh, nhiều vấn đề, sự kiện, tư liệu khoa học đã khơng có ở thời
đại các nhà kinh điển. Vậy trên cơ sở quan điểm và phương pháp luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, ngày nay những người mác xít cần phải bổ sung, phát triển
mới những gì và như thế nào?
Giải quyết được những vấn đề đó, có thể nói, sẽ thực sự là sự trưởng thành tư
duy lý luận của Đảng ta.
+ Đảng ta kiên quyết bác bỏ các quan điểm sai trái, đối lập với chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh hoặc muốn hạ thấp, phủ nhận chủ nghĩa Mác Lênin.
+ Đặc biệt, trong những năm đổi mới, Đảng ta đã có sự nhận thức sâu sắc hơn
và bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên một loạt các vấn đề như: Mục
tiêu của chủ nghĩa xã hội, vấn đề sở hữu tư liệu sản xuất, vấn đề phát triển kinh
12


tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa xã hội…
Nhờ vậy, tư duy lý luận của Đảng ngày càng hoàn thiện hơn, nhận thức đúng
đắn hơn thực chất những tư tưởng của các nhà kinh điển mác xít, đồng thời có

sự vận dụng, phát triển phù hợp hơn đối với thực tiễn Việt Nam. Sự nghiệp đổi
mới đòi hỏi Đảng ta phải kiên trì và vận dụng phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh giải đáp được những vấn đề mới do thực tiễn
đặt ra, tiếp tục làm sáng tỏ hơn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong điều kiện mới của thời đại.
2.Trách nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam hiện nay:
Từ rất lâu đảng và nhà nước ta đã nhận thức được tầm quan trọng của thế hệ trẻ
trong việc góp phần bảo vệ, xây dựng non song đất nước. Song nhận thức này
qua hàng năm lại càng được đẩy mạnh hơn nữa, do nền kinh tế có nhiều thay
đổi, thời kỳ hội nhập quốc tế mở rộng nên các cấp, ngành và các tổ chức, đồn
thể chính trị xã hội cũng đã có nhiều chủ trương, biện pháp nhằm phát huy vai
trò, sức mạnh của thanh niên trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tuy nhiên
để xây dựng thì biện pháp, vai trị từ các cấp, các ngành, các tổ chức, cơ quan
thôi chưa đủ mà còn phải xuất phát từ nhận thức của thế hệ trẻ nói chung và
chính bản thân mình nói riêng.
Mỗi con người sinh ra đều mang trong mình một sứ mệnh riêng, nhưng hơn tất
cả, sứ mệnh chung của chúng ta đặc biệt là giới trẻ thì trách nhiệm đối với đất
nước là một sứ mệnh vô cùng quan trọng. Vậy trách nhiệm của tuổi trẻ đối với
quê hương đất nước là gì?
Trách nhiệm của tuổi trẻ đối với quê hương, đất nước là trách nhiệm giữ gìn nền
độc lập, tích cực xây dựng nước nhà ngày càng vững mạnh. Mỗi chúng ta khi
sinh ra được sống trong nền hịa bình đã là một sự may mắn, chính vì vậy chúng
ta cần phải cống hiến nhiều hơn để phát triển nước nhà vững mạnh, có thể
chống lại mọi kẻ thù. Mỗi người khi học tập, lao động, tạo lập cho mình một
cuộc sống tốt đẹp cũng chính là cống hiến cho tổ quốc. Bên cạnh đó, mỗi chúng
ta cần phải yêu thương, giúp đỡ đồng bào, đoàn kết với mọi người vì điều đó
khơng chỉ giúp cho chúng ta được yêu thương, trân trọng mà còn thể hiện sức
mạnh đại đoàn kết dân tộc.
Là một sinh viên trước hết em cần:

Học tập thật tốt, nghe lời ông bà cha mẹ, lễ phép với thầy cơ. Có nhận thức đúng
đắn về việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc. Luôn biết yêu thương và giúp đỡ những
người xung quanh. Chăm chỉ, sáng tạo, học tập, lao động; có mục đích, động cơ
học tập đúng đắn, học tập để mai sau xây dựng đất nước, hiểu học tập tốt là yêu
nước.
Quan tâm đến đời sống chính trị- xã hội của địa phương, đất nước, đồng thời
Thực hiện tốt mọi chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước;
13


đồng thời vận động mọi người xung quanh cùng thực hiện theo đúng quy định
của pháp luật.
Tích cực rèn luyện đạo đức, tác phong; lối sống trong sáng, lành mạnh, tránh xa
các tệ nạn xã hội; biết đấu tranh chống các biểu hiện của lối sống lai căng, thực
dụng, xa rời các giá trị văn hoá- đạo đức truyền thống của dân tộc.
Tích cực tham gia góp phần xây dựng quê hương bằng những việc làm thiết
thực, phù hợp khả năng như: tham gia bảo vệ mơi trường, phịng chống tệ nạn
xã hội, xố đói giảm nghèo, chống tiêu cực, tham nhũng, tham gia những hoạt
động mang tính xã hội như hiến máu tình nguyện, làm tình nguyện viên…
Biết phê phán, đấu tranh với những hành vi đi ngược lại lợi ích quốc gia, dân
tộc.
Tuy nhiên vẫn cịn có nhiều bạn chưa có nhận thức đúng đắn về trách nhiệm
của mình đối với quê hương, đất nước, chỉ biết đến bản thân mình, coi việc
chung là việc của người khác… những người này đáng bị xã hội thẳng thắn lên
án. Mỗi chúng ta cần phải cố gắng khơng chỉ vì tương lai của mình mà cịn để
xây dựng đất nước giàu đẹp xứng đáng với những gì được hưởng.

A. Lời mở đầu
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài
lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và

phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, địi hỏi phải có sự nghiên cứu rất
công phu, tỉ mỉ, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.
Trong phạm vi bài này em xin trình bày dưới góc nhìn và quan điểm của em về
“ Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội đối với
việc xác định mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay? Liên hệ với trách
nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay?”
Do kiến thức có hạn, bài làm nghiên cứu của em cịn có nhiều thiếu sót, mong
thầy cơ bỏ qua, và có những ý kiến đóng góp để bài làm của em được hồn thiện
hơn. Em cảm ơn thầy cô nhiều.
B. Nội dung
I. Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học
thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi
tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ
phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ
nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
14


Và chủ nghĩa xã hội được hiểu theo đó là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.1. Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
C.Mác Ph.Ăngghen khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người, nhất
là lịch sử xã hội tư bản đã xây dựng nên học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội.
Học thuyết vạch rõ những qui luật cơ bản của vận động xã hội, chỉ ra phương
pháp khoa học để giải thích lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của
1
C.Mác không chỉ làm rõ những yếu tố cấu thành hình thái kinh tế- xã hội mà

cịn xem xét xã hội trong q trình biến đổi và phát triển khơng ngừng. Học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng được
V.I.Lênin bổ sung, phát triển và hiện thực hố trong cơng cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga Xô viết trở thành học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
của chủ nghĩa Mác- Lênin, tài sản vô giá của nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội đã chỉ ra tính tất yếu của xã hội tất yếu sự
thay thế hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, đó là q trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế này được thực
hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ hai tiền đề vật chất
quan trọng nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của
giai cấp công nhân.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp
những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho sự phân kỳ lịch sử, trong đó
có sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Về xã hội của thời kỳ quá độ, C. Mác cho rằng đó là xã hội vừa thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó cịn mang
nhiều dấu vết của xã hội cũ để lại.
1.2. Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội
Bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã đi sâu phân tích, tìm ra qui luật
vận động của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, từ đó dự báo về sự ra
đời và tương lai của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhờ những
bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu hiện tập trung nhất là sự ra đời của
cơng nghiệp cơ khí (Cách mạng công nghiệp lần thứ 2), chủ nghĩa tư bản đã tạo
ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Trong vòng chưa đầy một
thế kỷ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất mà nhân loại tạo ra đến lúc đó (1). Tuy nhiên, các ông
cũng chỉ ra rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất càng được cơ
khi hóa, hiện đại hóa càng mang tính xã hội hóa cao, thì càng mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
15



nghĩa. Quan hệ sản xuất từ chỗ đóng vai trị mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển, thì ngày càng trở nên lỗi thời, xiềng xích của lực lượng sản xuất. Mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu thuẫn kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa tư bản,biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân hiện đại với giai cấp tư sản lỗi thời. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ đầu và ngày càng trở nên gay gắt
và có tính chính trị rõ rét. C. Mác và Ph. Angghen chỉ rõ: “Từ chỗ là những hình
thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại mơt cuộc
cách mạng”(2)
Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền đại công nghiệp cơ khí là sự
trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân, con
để của nền đại cơng nghiệp. Chính sự phát triển về lực lượng sản xuất và sự
trưởng thành của giai cấp công nhân là tiền đề kinh tế- xã hội dẫn tới sự sụp đổ
không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Sự trưởng thành vượt bậc và thực sự của
giai cấp công nhân được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng cộng sản, đội tiền
phong của giai cấp cơng nhân, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị của
giai cấp công nhân chống giai cấp tư sản.
1.3 Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ
Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp cơng
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy

những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại.
Thứ sáu, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc và có
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội, với bản chất tốt đẹp do con người, vì con người ln là bảo
đảm cho các dân tộc bình đẳng, đồn kết và hợp tác hữu nghị; đồng thời có quan
hệ với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Tất nhiên, để xây dựng cộng đồng
bình đẳng, đồn kết và có quan hệ hợp tác, hữu nghị với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới, điều kiện chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, “liên kết
tất cả các giai cấp vô sản trên thế giới”(3)
1.4 Thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa

16


Từ thực tiễn nước Nga, V. I Lênin cho rằng, đối với những nước chưa có chủ
nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội”
Về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ
nghĩa tư bản phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội- những cơn đau đẻ kéo dài; thứ hai, đối với những
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
này sang xã hội kia, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
II. Vận dụng lý luận của Mác- Lênin vào mơ hình của Việt Nam
Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một quá trình đấu tranh
cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự
xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền
thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần
"Khơng có gì q hơn Độc lập- Tự do".

Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với
lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra
kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể
giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự
do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
Là một nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, Việt Nam đã chọn quá độ
lên CNXH. Thời kỳ này là thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư
bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây
dựng từng bước cơ sở vật chất- kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã
hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân
dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội.
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua hơn 30
năm đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân dân ta về chủ nghĩa xã hội và
con đường đilên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rỏ. Đại hội IV (1976), nhận
thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển của cách mạng
nước ta mới dừng ở mức độ định hướng: Trên cơ sở phương hướng đúng, hãy
hành động thực tế cho câu trả lời.Đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa đã sáng tỏ hơn,
không chỉ dừng ở nhận thức định hướng, định tính mà từng bước đạt tới trình độ
đình hình, định lượng.

17


Từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1991) đến nay, đường lối thực hiện TKQĐ được xác định là “bỏ qua chế độ

TBCN”, tức là TKQĐ gián tiếp, và được xây dựng, phát triển ngày càng hoàn
thiện. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII (tháng 1-1995) khẳng định: trong điều
kiện khơng cịn sự giúp đỡ của các nước XHCN, nhưng có thể tranh thủ được
nguồn lực từ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; bỏ qua chế độ TBCN, nhưng kế
thừa mọi thành tựu và kinh nghiệm của nhân loại, kể cả của CNTB. Đại hội IX
của Đảng nêu rõ, bỏ qua sự thống trị của QHSX TBCN, nhưng tiếp thu thành
tựu khoa học và công nghệ trong CNTB...
“Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối
đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng được hồn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện
hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có
thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay” (4)
III. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Bản thân em đang là sinh viên, còn ngồi trên ghế nhà trường em thấy mình nói
riêng và thế hệ trẻ nói riêng cần nhận thức rõ nét hơn về chủ nghĩa xã hội và
định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm ở Việt
Nam. Chúng ta cần nhận thức rõ: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt
yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; minh chứng rõ nét hơn hai
câu hỏi chủ nghĩa xã hội là gì? Đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Bên cạnh
đó thế hệ trẻ cần nắm rõ những điều kiện để đảm bảo thực hiện thắng lợi con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Xây dựng khối đại đoàn kết tồn
dân tộc; tổ chức, triển khai thành cơng mơ hình chính trị và cơ chế vận hành
tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ để say này
góp cơng sức của mình trong việc xây dựng đất nước.
Thế hệ tương lai của đất nước hãy cố gắng học tập thật tốt, phát huy sức mạnh

dân tộc giúp Việt Nam phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói.
A. Lời mở đầu
Chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là một đề tài
lý luận và thực tiễn rất cơ bản, quan trọng, nội dung rất rộng lớn, phong phú và
phức tạp, có nhiều cách tiếp cận khác nhau, địi hỏi phải có sự nghiên cứu rất
cơng phu, tỉ mỉ, nghiêm túc, tổng kết thực tiễn một cách sâu sắc, khoa học.
Trong phạm vi bài này em xin trình bày dưới góc nhìn và quan điểm của em về
“ Sự vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội đối với
18


việc xác định mơ hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay? Liên hệ với trách
nhiệm của bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay?”
Do kiến thức có hạn, bài làm nghiên cứu của em cịn có nhiều thiếu sót, mong
thầy cơ bỏ qua, và có những ý kiến đóng góp để bài làm của em được hồn thiện
hơn. Em cảm ơn thầy cô nhiều.
B. Nội dung
I. Lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin về chủ nghĩa xã hội
Chủ nghĩa xã hội thường được hiểu với ba tư cách: Chủ nghĩa xã hội là một học
thuyết; chủ nghĩa xã hội là một phong trào; chủ nghĩa xã hội là một chế độ. Mỗi
tư cách ấy lại có nhiều biểu hiện khác nhau, tùy theo thế giới quan và trình độ
phát triển ở mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể. Chủ nghĩa xã hội đề cập ở đây là chủ
nghĩa xã hội khoa học dựa trên học thuyết Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Và chủ nghĩa xã hội được hiểu theo đó là một chế độ xã hội tốt đẹp, giai đoạn
đầu của hình thái kinh tế- xã hội cộng sản chủ nghĩa.
1.1. Chủ nghĩa xã hội, giai đoạn đầu của hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ
nghĩa.
C.Mác Ph.Ăngghen khi nghiên cứu lịch sử phát triển của xã hội loài người, nhất

là lịch sử xã hội tư bản đã xây dựng nên học thuyết về hình thái kinh tế- xã hội.
Học thuyết vạch rõ những qui luật cơ bản của vận động xã hội, chỉ ra phương
pháp khoa học để giải thích lịch sử. Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội của
1
C.Mác không chỉ làm rõ những yếu tố cấu thành hình thái kinh tế- xã hội mà
cịn xem xét xã hội trong q trình biến đổi và phát triển khơng ngừng. Học
thuyết về hình thái kinh tế - xã hội do C.Mác và Ph.Ăngghen khởi xướng được
V.I.Lênin bổ sung, phát triển và hiện thực hoá trong công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở nước Nga Xơ viết trở thành học thuyết hình thái kinh tế - xã hội
của chủ nghĩa Mác- Lênin, tài sản vô giá của nhân loại.
Học thuyết hình thái kinh tế- xã hội đã chỉ ra tính tất yếu của xã hội tất yếu sự
thay thế hình thái kinh tế- xã hội tư bản chủ nghĩa bằng hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, đó là q trình lịch sử - tự nhiên. Sự thay thế này được thực
hiện thông qua cách mạng xã hội chủ nghĩa xuất phát từ hai tiền đề vật chất
quan trọng nhất là sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự trưởng thành của
giai cấp cơng nhân.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của chủ nghĩa Mác - Lênin đã cung cấp
những tiêu chuẩn thực sự duy vật, khoa học cho sự phân kỳ lịch sử, trong đó
có sự phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
19


Về xã hội của thời kỳ quá độ, C. Mác cho rằng đó là xã hội vừa thốt thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, xã hội chưa phát triển trên cơ sở của chính nó cịn mang
nhiều dấu vết của xã hội cũ để lại.
1.2. Điều kiện ra đời chủ nghĩa xã hội
Bằng lý luận hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác đã đi sâu phân tích, tìm ra qui luật
vận động của hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa, từ đó dự báo về sự ra
đời và tương lai của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Nhờ những
bước tiến to lớn của lực lượng sản xuất, biểu hiện tập trung nhất là sự ra đời của

công nghiệp cơ khí (Cách mạng cơng nghiệp lần thứ 2), chủ nghĩa tư bản đã tạo
ra bước phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất. Trong vòng chưa đầy một
thế kỷ, chủ nghĩa tư bản đã tạo ra được một lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ
sộ hơn lực lượng sản xuất mà nhân loại tạo ra đến lúc đó (1). Tuy nhiên, các ông
cũng chỉ ra rằng, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, lực lượng sản xuất càng được cơ
khi hóa, hiện đại hóa càng mang tính xã hội hóa cao, thì càng mâu thuẫn với
quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ
nghĩa. Quan hệ sản xuất từ chỗ đóng vai trị mở đường cho lực lượng sản xuất
phát triển, thì ngày càng trở nên lỗi thời, xiềng xích của lực lượng sản xuất. Mâu
thuẫn giữa tính chất xã hội hóa của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư
nhân tư bản chủ nghĩa đối với tư liệu sản xuất trở thành mâu thuẫn kinh tế cơ
bản của chủ nghĩa tư bản,biểu hiện về mặt xã hội là mâu thuẫn giữa giai cấp
công nhân hiện đại với giai cấp tư sản lỗi thời. Cuộc đấu tranh giữa giai cấp
công nhân và giai cấp tư sản xuất hiện ngay từ đầu và ngày càng trở nên gay gắt
và có tính chính trị rõ rét. C. Mác và Ph. Angghen chỉ rõ: “Từ chỗ là những hình
thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ sản xuất ấy trở thành
những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại môt cuộc
cách mạng”(2)
Hơn nữa, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền đại cơng nghiệp cơ khí là sự
trưởng thành vượt bậc cả về số lượng và chất lượng của giai cấp công nhân, con
để của nền đại công nghiệp. Chính sự phát triển về lực lượng sản xuất và sự
trưởng thành của giai cấp công nhân là tiền đề kinh tế- xã hội dẫn tới sự sụp đổ
không tránh khỏi của chủ nghĩa tư bản. Sự trưởng thành vượt bậc và thực sự của
giai cấp công nhân được đánh dấu bằng sự ra đời của Đảng cộng sản, đội tiền
phong của giai cấp công nhân, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị của
giai cấp cơng nhân chống giai cấp tư sản.
1.3 Những đặc trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội
Một là, chủ nghĩa xã hội giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng xã
hội, giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện.
Hai là, chủ nghĩa xã hội là xã hội do nhân dân lao động làm chủ

Ba là, chủ nghĩa xã hội có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất
hiện đại và chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu
20


Bốn là, chủ nghĩa xã hội có nhà nước kiểu mới mang bản chất giai cấp công
nhân, đại biểu cho lợi ích, quyền lực và ý chí của nhân dân lao động.
Năm là, chủ nghĩa xã hội có nền văn hóa phát triển cao, kế thừa và phát huy
những giá trị của văn hóa dân tộc và tinh hoa văn nhân loại.
Thứ sáu, chủ nghĩa xã hội bảo đảm bình đẳng, đồn kết giữa các dân tộc và có
quan hệ hữu nghị, hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới.
Chủ nghĩa xã hội, với bản chất tốt đẹp do con người, vì con người ln là bảo
đảm cho các dân tộc bình đẳng, đồn kết và hợp tác hữu nghị; đồng thời có quan
hệ với nhân dân tất cả các nước trên thế giới. Tất nhiên, để xây dựng cộng đồng
bình đẳng, đồn kết và có quan hệ hợp tác, hữu nghị với nhân dân tất cả các
nước trên thế giới, điều kiện chiến thắng hoàn toàn chủ nghĩa tư bản, “liên kết
tất cả các giai cấp vô sản trên thế giới”(3)
1.4 Thời kỳ quá độ lên xã hội chủ nghĩa
Từ thực tiễn nước Nga, V. I Lênin cho rằng, đối với những nước chưa có chủ
nghĩa tư bản phát triển cao “cần phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội”
Về mặt lý luận và thực tiễn, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa
cộng sản, được hiểu theo hai nghĩa: thứ nhất, đối với các nước chưa trải qua chủ
nghĩa tư bản phát triển, cần thiết phải có thời kỳ quá độ khá lâu dài từ chủ nghĩa
tư bản lên chủ nghĩa xã hội- những cơn đau đẻ kéo dài; thứ hai, đối với những
nước đã trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa
cộng sản có một thời kỳ quá độ nhất định, thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội
này sang xã hội kia, thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản.
II. Vận dụng lý luận của Mác- Lênin vào mơ hình của Việt Nam
Như chúng ta đều biết, nhân dân Việt Nam đã trải qua một q trình đấu tranh

cách mạng lâu dài, khó khăn, đầy gian khổ hy sinh để chống lại ách đô hộ và sự
xâm lược của thực dân, đế quốc để bảo vệ nền độc lập dân tộc và chủ quyền
thiêng liêng của đất nước, vì tự do, hạnh phúc của nhân dân với tinh thần
"Khơng có gì q hơn Độc lập- Tự do".
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là đường lối cơ bản, xuyên suốt
của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt yếu trong di sản tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Bằng kinh nghiệm thực tiễn phong phú của mình kết hợp với
lý luận cách mạng, khoa học của chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã đưa ra
kết luận sâu sắc rằng, chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới có thể
giải quyết triệt để vấn đề độc lập cho dân tộc, mới có thể đem lại cuộc sống tự
do, ấm no và hạnh phúc thực sự cho tất cả mọi người, cho các dân tộc.
Là một nước chưa trải qua chủ nghĩa tư bản phát triển, Việt Nam đã chọn quá độ
lên CNXH. Thời kỳ này là thời kỳ cải tạo cách mạng sâu sắc, triệt để xã hội tư
bản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, xây
21


dựng từng bước cơ sở vật chất- kỹ thuật và đời sống tinh thần của chủ nghĩa xã
hội. Đó là thời kỳ lâu dài, gian khổ bắt đầu từ khi giai cấp công nhân và nhân
dân lao động giành được chính quyền đến khi xây dựng thành cơng chủ nghĩa
xã hội.
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của
Việt Nam, tổng kết thực tiễn quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là qua hơn 30
năm đổi mới, nhận thức của Đảng và nhân dân dân ta về chủ nghĩa xã hội và
con đường đilên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng rỏ. Đại hội IV (1976), nhận
thức của Đảng ta về chủ nghĩa xã hội và con đường phát triển của cách mạng
nước ta mới dừng ở mức độ định hướng: Trên cơ sở phương hướng đúng, hãy
hành động thực tế cho câu trả lời.Đến Đại hội VII, nhận thức của Đảng Cộng
sản Việt Nam về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa đã sáng tỏ hơn,
không chỉ dừng ở nhận thức định hướng, định tính mà từng bước đạt tới trình độ

đình hình, định lượng.
Từ cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
(1991) đến nay, đường lối thực hiện TKQĐ được xác định là “bỏ qua chế độ
TBCN”, tức là TKQĐ gián tiếp, và được xây dựng, phát triển ngày càng hồn
thiện. Hội nghị Trung ương 8 khóa VII (tháng 1-1995) khẳng định: trong điều
kiện khơng cịn sự giúp đỡ của các nước XHCN, nhưng có thể tranh thủ được
nguồn lực từ hợp tác, hội nhập kinh tế quốc tế; bỏ qua chế độ TBCN, nhưng kế
thừa mọi thành tựu và kinh nghiệm của nhân loại, kể cả của CNTB. Đại hội IX
của Đảng nêu rõ, bỏ qua sự thống trị của QHSX TBCN, nhưng tiếp thu thành
tựu khoa học và công nghệ trong CNTB...
“Qua 35 năm tiến hành công cuộc đổi mới, 30 năm thực hiện Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, lý luận về đường lối
đổi mới, về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta
ngày càng được hoàn thiện và từng bước được hiện thực hóa. Chúng ta đã đạt
được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện
hơn so với những năm trước đổi mới. Với tất cả sự khiêm tốn, chúng ta vẫn có
thể nói rằng: Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín
quốc tế như ngày nay” (4)
III. Liên hệ trách nhiệm bản thân đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam
Bản thân em đang là sinh viên, còn ngồi trên ghế nhà trường em thấy mình nói
riêng và thế hệ trẻ nói riêng cần nhận thức rõ nét hơn về chủ nghĩa xã hội và
định hướng đi lên chủ nghĩa xã hội phù hợp với hoàn cảnh, đặc điểm ở Việt
Nam. Chúng ta cần nhận thức rõ: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
là đường lối cơ bản, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam và cũng là điểm cốt
yếu trong di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh; minh chứng rõ nét hơn hai
câu hỏi chủ nghĩa xã hội là gì? Đi lên chủ nghĩa xã hội bằng cách nào? Bên cạnh
đó thế hệ trẻ cần nắm rõ những điều kiện để đảm bảo thực hiện thắng lợi con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là: Xây dựng khối đại đoàn kết toàn
22



dân tộc; tổ chức, triển khai thành cơng mơ hình chính trị và cơ chế vận hành
tổng quát là Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và nhân dân làm chủ để say này
góp cơng sức của mình trong việc xây dựng đất nước.
Thế hệ tương lai của đất nước hãy cố gắng học tập thật tốt, phát huy sức mạnh
dân tộc giúp Việt Nam phát triển sánh vai với các cường quốc năm châu như
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1), (2), (3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995
(4) Phát biểu của Tổng bí thư Trần Phú Trọng trong đại biểu quốc hội lần thứ
xiii của Đảng cộng sản Việt Nam
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học />
TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1), (2), (3) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Tồn tập, Nxb.Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1995
(4) Phát biểu của Tổng bí thư Trần Phú Trọng trong đại biểu quốc hội lần thứ
xiii của Đảng cộng sản Việt Nam
Giáo trình chủ nghĩa xã hội khoa học />III. DANH MỤC THAM KHẢO:
1. />fbclid=IwAR3d_Be6hDCU_V8ekCX2FRZ0orw1CsDbekVeGywSEhjOZfKYI
61kiRT3P7I

23


2.
C.Mác và Ph.Ăngghen: Tồn tập, t.19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995

3.
Giáo trình Chủ Nghĩa Xã Hội Khoa Học CNXHKH (Dành Cho Bậc Đại
Học Hệ Không Chuyên Lý Luận Chính Trị)
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Hồ Chí Minh tồn tập (2011), NXB Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, XII, NXB Chính Trị Quốc

Gia.
(3) Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí

Minh.
(4) Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
(5) GS.TS Tạ Ngọc Tấn (2021), “Mơ hình chủ nghĩa xã hội Việt Nam: Vừa theo

đúng quy luật chung, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước”.

24



×