Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa mác lênin về con người và vấn đề phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (62.97 KB, 11 trang )

Mục lục

Phần mở đầu
1.Lý do chọn đề tài
Phát triển con người là mục tiêu cao cả nhất cả nhất của tồn nhân loại. Làn
sóng văn minh thứ ba đang được loài người tới một kỉ nguyên mới, mở ra bao khả
năng để họ tìm ra những con đường tối ưu đi tới tương lai. Trong bối cảnh đó sự
tan rã của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho các tư tưởng tự do tìm kiếm con
đường khả quan nhất cho sự nghiệp phát triển con người Việt Nam càng dễ đi đến
phủ nhận vai trò và khả năng của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong thực tế, không ít
người rẽ ngang đi tìm khả năng phát triển đó trong chủ nghĩa tư bản. Nhiều người
trở về phục sinh và tìm sự hồn thiện con người trong các tơn giáo và hệ tư tưởng
truyền thống, con người lại “sáng tạo” ra những tư tưởng, tôn giáo mới cho “phù
hợp” hơn với con người Việt Nam hiện nay.
Song nhìn nhận lại một cách thật sự khách quan và khoa học sự tồn tại của
chủ nghĩa Mác - Lênin trong xã hội ta, có lẽ khơng ai phủ nhận được vai trị ưu trội
và triển vọng của nó trong sự phát triển con người. Trên cơ sở vận dụng khoa học
và sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin về con người tại hội nghị lần thứ tư của ban
chấp hành trung ương khố VII, Đảng ta đã đề ra và thơng qua nghị quyết về việc
phát triển con người Việt Nam toàn diện với tư cách quyết về việc phát triển con
người Việt Nam toàn diện với tư cách là “động lực của sự nghiệp xây dựng xã hội
mới đồng thời là mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Đó là “con người phát triển cao về
trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo đức”.
Do nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề con người, chúng em đã chọn
đề tài: “Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người và vấn đề phát triển
nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay” làm đề tài tiểu luận.
1


2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn cơ bản về nguồn nhân lực,


các chính sách phát triển nguồn nhân lực của Việt Nam.
Với đề tài đặt ra, mục đích lớn nhất của đề tài là nghiên cứu những vấn đề cơ
bản về quan điểm về con người của chủ nghĩa Mác-Lênin, từ đó vận dụng vào việc
phát triển nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng: con người và vấn đề về con người trong chủ nghía Mác-Lênin
Phạm vi nghiên cứu: vận dụng quan điểm vào nước ta
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở quán triệt thế giới quan và phương pháp
luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lênin và quan
điểm của chủ nghĩa Mác-Lenin cũng như của Đảng ta về con người và vấn đề phát
triển nguồn nhân lực là phương pháp luận của đề tài
Ngồi ra, bài tiểu luận cịn sử dụng them các phương pháp như: Phương
pháp nghiên cứu tài liệu, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương
pháp thu thập thông tin, thống kê, đánh giá, … để nghiên cứu, làm rõ vấn đề.
5. Kết cấu của đề tài
Bài tiểu luận ngoài phần mở đầu, kết thúc và danh mục tài liệu tham khảo,
bài tiểu luận còn được chia thành các nội dung chính như sau:
Chương 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người
Chương 2. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay

2


Phần nội dung
Chương 1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về con người
1.1.
Một số quan điểm triết học về con người trong lịch sử
Những vấn đề triết học về con người là một nội dung lớn trong lịch sử triết
học nhân loại. Tuỳ theo giác độ tiếp cận khác nhau mà các trường phái triết học

trong lịch sử có những phát hiện, đóng góp khác nhau trong việc lí giải về con
người.
Theo quan niệm của triết học phương Đông: Trong nền triết học Trung Hoa
cổ, khi xét tới vấn đề bản tính con người, các nhà tư tưởng tiếp cận thực tiễn hoạt
động chính trị, đạo đức của xã hội và đi đến kết luận về bản tính tự nhiên của con
người là Thiện - theo Nho gia và Bất Thiện - theo Pháp gia. Ngược lại, các nhà tư
tưởng của trường phái triết học ấn Đột lại tiếp cận từ sự suy tư về con người và đời
người ở tầm sâu triết lí siêu hình đối với những vấn đề nhân sinh quan và rút ra kết
luận về bản tính vơ ngã, vơ thường, hướng thiện của con người trên con đường truy
tìm sự giác ngộ.
Theo quan niệm của triết học phương Tây: Các nhà triết học theo lập trường
triết học duy vật đã lựa chọn giác độ khoa học tự nhiên để lí giải về bản chất con
người. Họ coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên, đều được cấu tạo
nên từ vật chất. Trong khi đó, các nhà triết học duy tâm lại chú trọng hoạt động lí
tính của con người. Họ lí giải bản chất của con người từ giác độ siêu tự nhiên.
Nhìn chung, các quan điểm trước Mác và ngồi macxit cịn phiến diện trong
phương pháp tiếp cận lí giải các vấn đề triết học về con người. Những hạn chế đó
đã được khắc phục và vượt qua bởi quan niệm duy vật biện chứng của triết học
Mác - Lênin về con người.

3


1.2. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về con người
1.2.1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học và mặt xã hội
Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người. Con người là kết quả của q
trình phát triển và tiến hố lâu dài của môi trường tự nhiên. Tuy nhiên, đặc trưng
quy định sự khác biệt của con người là phương diện xã hội. Tính xã hội biểu hiện
trong hoạt động sản xuất vật chất. Qua đó, con người sản xuất ra của cải vật chất
và tinh thần, phục vụ đời sống, hình thành và phát triển ngơn ngữ và tư duy, xác

lập quan hệ xã hội. ở con người, mặt tự nhiên tồn tại trong sự thống nhất với mặt
xã hội. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con người. Mặt xã hội là đặc
trưng bản chất để phân biệt con người với loài vật. Nhu cầu sinh học phải mang giá
trị văn minh con người. Nhu cầu xã hội cũng khơng thể thốt li khỏi tiền đề của
nhu cầu sinh học. Hai mặt trên thống nhất với nhau để tạo thành con người viết
hoa, con người tự nhiên - xã hội.
1.2.2. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hồ các mối quan hệ
xã hội
“Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của cá nhân
riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan
hệ xã hội” (Luận cương về Feuerbach - C.Mác). Con người luôn cụ thể, xác định,
sống trong một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định.
Quan niệm này giúp chúng ta nhận thức đúng đắn, tránh khỏi cách hiểu thô
thiển về mặt tự nhiên, cái sinh học ở con người. Tóm lại, bản chất chung nhất, sâu
sắc nhất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội diễn ra trong hiện tại và
quá khứ. Con người không phải là cố định, bất biến mà có tính lịch sử cụ thể.
Chúng ta khơng thể hiểu bản chất con người bên ngoài mối quan hệ giữa cá nhân
và xã hội.
1.2.3. Con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử
Khơng có thế giới tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con
người. Bởi vậy, con người là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hoá lâu dài của giới
hữu sinh. Song điều quan trọng hơn cả, con người luôn luôn là chủ thể của lịch sử xã hội. Với tư cách là thực thể xã hội, con người hoạt động thực tiễn, tác động và
cải biến giới tự nhiên, tái tạo lại một thiên nhiên thứ hai theo mục đích của mình;
đồng thời thúc đẩy sự vận động phát triển của lịch sử - xã hội. Trong quá trình cải
biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình. Hoạt động lao động sản
xuất vừa là điều kiện cho sự tồn tại của con người vừa là phương thức để làm biến
đổi đời sống và bộ mặt xã hội. Khơng có hoạt động của con người thì cũng khơng
tồn tại quy luật xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ lịch sử loài người.
4



Chương 2. Vấn đề xây dựng nguồn lực con người ở nước ta hiện nay
2.1. Các quan niệm về nguồn nhân lực
2.1.1. Khái niệm nguồn nhân lực
Theo tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), nguồn nhân lực là toàn bộ con người
trong độ tuổi lao động có khả năng tham gia lao động. Ở nghĩa rộng, “nguồn nhân
lực là nguồn cung cấp sức lao động cho sản xuất xã hội, cung cấp nguồn lực cho sự
phát triển”. Còn theo nghĩa hẹp, “nguồn nhân lực là khả năng lao động xã hội, là
nguồn lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội bao gồm các nhóm dân cư trong độ tuổi
lao động, có khả năng tham gia vào q trình lao động, sản xuất xã hội, tức là toàn
bộ các cá nhân có thể tham gia q trình lao động”
Theo tổ chức Liên Hợp Quốc, nguồn nhân lực là tất cả những kiến thức, kỹ
năng và năng lực của con người có quan hệ bởi sự phát triển của đất nước. Đây
được coi là một yếu tố quan trọng bậc nhất trong kết cấu hạ tầng – kinh tế.
Theo từ điển kinh tế chính trị: nguồn nhân lực là dân cư của đất nước, có tồn
bộ những khả năng thể chất, tinh thần có thể sử dụng trong qua trình lao động.
Ở Việt Nam, theo tác giả Phạm Văn Đức: “Nguồn nhân lực con người chỉ là khả
năng và phẩm chất của lực lượng lao động. Đó khơng chỉ là số lượng và khả năng
chun mơn mà cịn có cả trình độ văn hóa thái độ với cơng việc và mong muốn tự
hoàn thiện của lực lượng lao động”.

5


Còn tác giả Phạm Minh Hạc: “Nguồn nhân lực cần phải hiểu là tổng thể các
tiềm năng lao động của một nước, một địa phương sẵn sàng tham gia vào một cơng
việc nào đó”.
Từ những quan điểm về nguồn nhân lực nêu trên, có thể đi đến một cách hiểu
chung nhất về nguồn nhân lực như sau: nguồn nhân lực là tổng thể các tiềm năng
lao động xã hội được chuẩn bị ở các mức độ khác nhau, sẵn sàng tham gia vào quá

trình phát triển kinh tế - xã hội, đáp ứng yêu cầu chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
2.1.2. Khái niệm phát triển nguồn nhân lực
Trong thời đại ngày nay, con người được coi là một “tài nguyên đặc biệt”, một
nguồn lực của sự phát triển kinh tế. Bởi vậy, việc phát triển con người, phát triển
nguồn nhân lực trở thành vấn đề chiếm vị trí trung tâm trong hệ thống phát triển
các nguồn lực. Đầu tư cho con người là đầu tư có tính chiến lược, là cơ sở chắc
chắn nhất cho sự phát triển bền vững, phồn thịnh của quốc gia.
Cho đến nay, do xuất phát và cách tiếp cận khác nhau, nên có rất nhiều cách
hiểu khác nhau khi bàn về phát triển nguồn nhân lực.
Theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO): Phát triển nguồn nhân lực bao hàm
trình độ lành nghề và năng lực được sử dụng hiệu quả và làm thỏa mãn nghề
nghiệp cũng như cuộc sống cá nhân. Theo quan niệm này sự lành nghề không chỉ
được đào tạo, bồi dưỡng mà cịn là sự tích lũy kinh nghiệm trong cuộc sống và quá
trình làm việc của người lao động.
Theo tác giả Phạm Minh Hạc: “Phát triển nguồn nhân lực được hiểu cơ bản là
tăng giá trị cho con người trên các mặt đạo đức, trí tuệ, kĩ năng, tâm hồn, thể lực,
… làm cho con người trở thành những lao động có năng lực và phẩm chất mới đáp
ứng yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế xã hội, của sự nghiệp cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước”.
Theo tác giả Bùi Văn Nhơn: “Phát triển nguồn nhân lực là tổng thể các hình
thức, phương pháp, chính sách và biện pháp nhằm hồn thiện và nâng cao chất
6


lượng cho nguồn nhân lực nhằm đáp ứng đòi hỏi về nguồn nhân lực cho sự phát
triển kinh tế xã hội trong từng giai đoạn phát triển”.
Từ những luận điểm trên, có thể hiểu phát triển nguồn nhân lực là tổng thể
hoạt động của Đảng, Nhà nước, các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội và người
lao động, với đường lối, cơ chế, chính sách đúng đắn, đặc biệt chú trọng đến

phát triển giáo dục đào tạo nhằm nâng cao thể lực, trí tuệ và phẩm chất tâm lí xã
hội để tạo ra nguồn nhân lực chất lượng, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã
hội bền vững của đất nước; phát triển nguồn nhân lực còn là quá trình sử dụng,
đãi ngộ xứng đáng nhằm tạo động lực, phát huy vị trí, vai trị và giá trị của
nguồn nhân lực này.
2.2. Thực trạng nguồn nhân lực ở nước ta hiện nay
Nguồn lực từ nông dân: Dân số cả nước hiện nay là 84,2 triệu người, trong
đó nông dân chiếm 73% dân số, tương đương 61,5 triệu người, chiếm tỉ lệ cao
trong lực lượng lao động. Tuy nhiên, nguồn nhân lực to lớn này vẫn chưa được
khai thác, tổ chức, bị bỏ mặc, từ đó dẫn đến sản xuất tự phát, manh mún. Hiện có
tới 90% lao động nông nghiệp và cán bộ quản lý nông thôn chưa được đào tạo.
Điều này phản ánh chất lượng nguồn nhân lực trong nơng dân cịn rất yếu kém.
Việc liên kết "bốn nhà" (nhà nước, nhà nụng, nhà khoa học, nhà doanh nghiệp) chỉ
là hình thức.
Nguồn lực từ cơng nhân: Giai cấp cơng nhân Việt Nam hiện nay có khoảng
dưới 5 triệu người, chiếm 6% dân số cả nước. Công nhân có tay nghề cao chiếm tỷ
lệ rất thấp so với đội ngũ cơng nhân nói chung. Trình độ cơng nhân cịn thấp. Số
cơng nhân có trình độ cao đẳng, đại học khoảng 150.000 người, chiếm 3,3% đội
ngũ công nhân. Sự già đi và ít đi của đội ngũ cơng nhân Việt Nam chỉ ra rằng cơng
nhân khó có thể đóng vai trị chủ yếu trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa - hiện đại
hóa đất nước. Về chính trị, cơng nhân chưa có địa vị bằng trí thức, cơng chức, viên
chức, rất khó vươn lên vị trí chủ đạo trong đời sống xã hội.
Nguồn lực từ trí thức, cơng chức, viên chức: Đội ngũ trí thức Việt Nam
trong những năm gần đây tăng rất nhanh. Tuy nhiên, chất lượng nguồn nhân lực
cịn yếu. Khoảng 80% cơng chức, viên chức làm việc trong các cơ quan công
quyền chưa hội đủ những tiêu chuẩn của một cơng chức, viên chức. Ước tính có tới
63% tổng số sinh viên tốt nghiệp ra trường chưa có việc làm. Khơng ít đơn vị nhận
7



người vào làm phải mất 1-2 năm đào tạo lại. 37% sinh viên có việc làm cũng
khơng đáp ứng được u cầu cơng việc.
Nói tóm lại, có thể rút ra mấy điểm về thực trạng nguồn nhân lực ở Việt
Nam như sau: Nguồn nhân lực ở Việt Nam khá dồi dào nhưng chưa được sự quan
tâm đúng mức, chưa được quy hoạch, khai thác. Chất lượng nguồn nhân lực chưa
cao, dẫn đến mâu thuẫn giữa lượng và chất. Sự kết hợp nhân lực từ nơng dân, cơng
nhân, trí thức chưa tốt, thiếu sự cộng lực để thực hiện mục tiêu chung là xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc.
2.3. Một số giải pháp nhằm giải quyết hợp lí vấn đề nguồn nhân lực ở Việt Nam
Nhìn rõ thực trạng nguồn nhân lực để phát huy ưu điểm, khắc phục nhược
điểm và đưa ra yêu cầu xây dựng nguồn nhân lực. Một mặt phải trực tiếp giải
quyết vấn đề về chất lượng nguồn nhân lực, trình độ văn hố, trình độ chun môn
kĩ thuật. Mặt khác phải giải quyết vấn đề nâng cao thể lực người lao động và phân
phối hợp lý nguồn nhân lực. Trong trình tự giải quyết phải đi tuần tự từ tiếp tục xoá
mù chữ, phổ cập tiểu học, trang bị những kiến thức cơ bản, đào tạo nghề từ sơ cấp
đến các bậc cao hơn nhưng phải tạo ra một bộ phận người lao động có chất lượng
cao, đặc biệt phải chú trọng đào tạo lao động kĩ thuật, nhằm đáp ứng nhu cầu của
những ngành công nghệ mới, các khu công nghiệp và các khu kinh tế mở.
Một là phải xác định rõ nguồn nhân lực là tài nguyên quý giá của Việt Nam
trong công cuộc đổi mới và phát triển đất nước.
Hai là nâng cao chất lượng con người và chất lượng cuộc sống. Chất lượng
con người, trước hết, phải tính đến vấn đề chất lượng sinh nở. Ngành y tế phải có
những quy định cụ thể về chất lượng sinh nở như kiểm tra sức khỏe, bệnh tật, di
truyền… trước khi đăng kí giá thú và vợ chồng quan hệ để sinh con. Hiện nay đang
có tình trạng đẻ khơng tính tốn cân nhắc, nhất là ở nơng thơn, làm cho trẻ sinh ra
cịi cọc, kém phát triển. Vì vậy phải tăng cường chất lượng hoạt động của các cơ
quan chức năng. Tiếp đó phải tính đến chất lượng cuộc sống, nghĩa là phải nuôi
dưỡng vật chất và tinh thần cho con người sinh ra.
Ba là Nhà nước cần xây dựng chiến lược nguồn nhân lực gắn với chiến lược
phát triển kinh tế - xã hội, cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, hội nhập kinh

tế quốc tế. Phải xác định thật rõ xây dựng nguồn nhân lực không chỉ là trách nhiệm
của các nhà hoạch định và tổ chức thực hiện chính sách mà cịn là trách nhiệm của
cả hệ thống chính trị.

8


Bốn là Chính phủ và các cơ quan chức năng có biện pháp giải quyết hiệu
quả những vấn đề vừa cấp bách vừa lâu dài của nguồn nhân lực, đặc biệt là vấn đề
khai thác, đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực.
Năm là Nhà nước phải có kế hoạch phối hợp tạo nguồn nhân lực có trình độ
cao, phù hợp với nhu cầu xã hội, đáp ứng tốt yêu cầu cơng việc.
Sáu là khơng ngừng nâng cao trình độ học vấn, thực hiện toàn xã hội học tập
và làm việc. Vấn đề đặt ra một cách gay gắt là phải bằng mọi biện pháp đầu tư để
nâng cao trình độ học vấn của cả nước lên, bằng không sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến
phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội.
Bảy là Đảng và Nhà nước cần có chính sách đúng đắn trong việc trọng dụng
nhân tài, nhất là các nhà khoa học và chuyên gia tài năng thật sự. Phải phân biệt
rành mạch tài thật và tài giả, những kẻ cơ hội và những người chân chính. Không
giải quyết được vấn đề này một cách rõ ràng thì nhân tài của đất nước sẽ lại “rơi lả
tả như lá mùa thu”, “vàng thau lẫn lộn”, làm cho những người thật sự có tài năng
khơng có cơ hội phát triển, còn những kẻ cơ hội xu nịnh, bợ đỡ lại tồn tại trong các
cơ quan công quyền.
Tám là Chính phủ cần có những quyết định đúng đắn về việc được phép đầu
tư vào lĩnh vực nào trong nguồn nhân lực. Cải thiện chính sách tiền tệ và tài chính,
phát triển cơ sở hạ tầng, hiện đại hóa giáo dục là những vấn đề quan trọng vào thời
điểm hiện nay.
Chín là cải thiện thơng tin về nguồn nhân lực theo hướng rộng rãi và dân
chủ, giúp mọi người thấy được tầm quan trọng của phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta và trên thế giới.


9


Mười là hàng năm cần tổng kết lý luận và thực tiễn về nguồn nhân lực ở Việt Nam,
đánh giá nghiêm túc ưu nhược điểm, kịp thời rút kinh nghiệm, từ đó xây dựng
chính sách mới, điều chỉnh chính sách cũ. Phần kết luận
Con người là chủ thể lịch sử và sáng tạo ra lịch sử. Trong cách mạng xã hội
chủ nghĩa, con người là yếu tố quyết định vừa là điểm xuất phát vừa là mục đích
của một chính sách kinh tế - xã hội xây dựng xã hội chủ nghĩa là xây dựng xã hội
chủ nghĩa là xây dựng một xã hội mà ở đó có đủ những điều kiện vật chất và tinh
thần.
Phát triển con người Việt Nam tồn diện - đó cũng chính là động lực, là mục
tiêu nhân đạo của sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá mà chúng ta đang từng
béc tiến hành. Bởi lẽ, người lao động nước ta ngày càng đóng vai trò quan trọng
trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trong sự phát triển nền kinh tế đất nước
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng xã hội chủ
nghĩa, thì chất lượng người lao động là nhân tố quyết định. Thực tiễn đã chứng tỏ
rằng khơng có người lao động chất lượng cao.
Để thực hiện có hiệu quả các chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng, nước ta
cần có một số giải pháp như tăng cường công tác chỉ đạo đối với các đề án, hoàn
thiện các văn bản quy phạm, sử dụng, theo dõi, quản lý cán bộ sau khi tiếp nhận,
bố trí cơng tác hợp lý và các chính sách đãi ngộ, giữ chân các đối tượng thu hút và
đào tạo. Tuy nhiên, một số giải pháp trên chỉ là giải pháp cho nguồn nhân lực khu
vực cơng, muốn phát triển một cách tồn diện của đời sống xã hội thì cần đẩy
mạnh hơn nữa việc đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao ở
mọi lĩnh vực, đưa đất nước Việt Nam phát triển bền vững.

10



Danh mục tài liệu tham khảo
1 Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Giáo trình Triết học Mác2
3
4

5
6
7

Lenin, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội;
/> />Đề tài cấp Nhà nước: “Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn 20112020” của PGS. TS. Đức Vượng, Viện trưởng Viện Khoa học nghiên cứu
nhân tài nhân lực.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản quốc gia Hà
Nội, năm 1996.
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ VIII, Nhà xuất bản chính trị
quốc gia Hà Nội, năm 1991.
Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản chính trị quốc
gia Hà Nội, năm 2001.

11



×