Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Quy định của pháp luật về người phiên dịch Thực tiễn thực hiện và kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.34 KB, 17 trang )

MỤC LỤC
A - MỞ ĐẦU................................................................................................................. 3
1. Tình hình cấp thiết của việc nghiên cứu..............................................................3
2. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu.........................................................3
3. Cơ cấu của bài báo cáo.........................................................................................3
Chương I: QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM...........................4
VỀ NGƯỜI PHIÊN DỊCH..........................................................................................4
1. Người phiên dịch trong Luật Tố tụng dân sự......................................................4
2. Người phiên dịch trong Luật Tố tụng hình sự....................................................4
3. Người phiên dịch trong Luật Công chứng:.........................................................5
CHƯƠNG II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG LIÊN
QUAN ĐẾN NGƯỜI PHIÊN DỊCH...........................................................................7
1. Quy định đối với người phiên dịch nói................................................................7
2. Quy định đối với Cộng tác viên dịch....................................................................7
CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN.............9
VỀ NHỮNG QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN QUY ĐỊNH NGƯỜI PHIÊN DỊCH 9
1. Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật...................................................9
2. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật..........................................................................14
C - KẾT LUẬN..........................................................................................................17

1


A - MỞ ĐẦU
1.

Tình hình cấp thiết của việc nghiên cứu

Việt Nam hiện nay đã và đang trong quá trình hội nhập, phát triển giao lưu mạnh
mẽ với không với hầu hết các quốc gia trên thế giới. Từ đó, việc phát sinh có nhiều
giao dịch, hợp đồng các hoạt động có liên quan đến người nước ngồi là điều không


thể tránh khỏi. Vây đối với những trường hợp người nước ngồi, người dân tộc thiểu
số khơng thơng thạo Tiếng Việt phát sinh các giao dịch cần phải công chứng thì cần
phải giải quyết như thế nào?
Trên thực tế, xu hướng cần có người phiên dịch đối với những bản dịch có tiếng
nước ngồi hoặc những hợp đồng, giao dịch có người u cầu cơng chứng khơng
thành thạo Tiếng Việt là khá lớn. Tuy nhiên, quy định pháp luật hiện nay điều chỉnh về
nội dung này lại chưa nhiều, chủ yếu được quy định trong “Luật công chứng năm
2014”. Để nghiên cứu kỹ hơn vấn đề này này em xin chọn đề tài “ Quy định của pháp
luật về người phiên dịch - Thực tiễn thực hiện và kiến nghị hồn thiện pháp luật”.
2.

Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng nghiên cứu

-

Mục đích nghiên cứu của đề tài này là thơng qua việc đánh giá, phân tích các quy
định của Luật công chứng và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến
người phiên dịch để hiểu hơn về khái niệm, về quy định của pháp luật liên quan
đến người phiên dịch nói chung và người phiên dịch trong lĩnh vực cơng chứng
nói riêng. Đồng thời nhận định những vấn đề pháp luật quy định cịn bất cập để
đóng góp một số ý kiến nhằm hồn thiện pháp luật.

-

Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên em sẽ tập trung vào các nhiệm
vụ sau:
+ Phân tích các quy định của pháp luật nói chung và Luật cơng chứng năm
2014 có liên quan đến người phiên dịch. Liệu rằng có phải chỉ có một chủ thể
“người phiên dịch”? Nếu có nhiều hơn một chủ thể “người phiên dịch thì các
chủ thể đó có đặc điểm gì?

+ Đánh giá thực trạng, áp dụng pháp luật từ đó phân tích những điểm chưa hoàn
thiện trong hệ thống pháp luật.
+ Đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.

-

Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp
luật Công chứng năm 2014 và các văn bản pháp luật chuyên ngành cũng như các
văn bản hướng dẫn thi hành có liên quan đến người phiên dịch.

3.

Cơ cấu của bài báo cáo

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của bài
báo cáo gồm 03 chương như sau:
2


Chương 1: Quy định chung của pháp luật Việt Nam về người phiên dịch
Chương 2: Quy định của pháp luật về cộng tác viên phiên dịch của tổ chức hành
nghề cơng chứng
Chương 3: Thực trạng và giải pháp hồn thiện về những quy định liên quan đến
người phiên dịch.

B - NỘI DUNG
Chương I: QUY ĐỊNH CHUNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ NGƯỜI PHIÊN DỊCH
1.


Người phiên dịch trong Luật Tố tụng dân sự
Điều 81 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định:

1. Người phiên dịch là người có khả năng dịch từ một ngôn ngữ khác ra tiếng
Việt và ngược lại trong trường hợp có người tham gia tố tụng không sử dụng được
tiếng Việt. Người phiên dịch được một bên đương sự lựa chọn hoặc các bên đương sự
thỏa thuận lựa chọn và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án yêu cầu để phiên
dịch.
2. Người biết chữ của người khuyết tật nhìn hoặc biết nghe, nói bằng ngơn ngữ,
ký hiệu của người khuyết tật nghe, nói cũng được coi là người phiên dịch.
Trường hợp chỉ có người đại diện hoặc người thân thích của người khuyết tật
nhìn hoặc người khuyết tật nghe, nói biết được chữ, ngơn ngữ, ký hiệu của người
khuyết tật thì người đại diện hoặc người thân thích có thể được Tịa án chấp nhận làm
người phiên dịch cho người khuyết tật đó.”
Từ khái niệm nêu trên, có thể rút ra một số đặc điểm về người phiên dịch trong
luật tố tụng dân sự như sau:
- Người phiên dịch là người có khả năng dịch một ngôn ngữ khácra tiếng Việt và
ngược lại.
- Được một bên đương sự lựa chọn hoặc các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn
và được Tòa án chấp nhận hoặc được Tòa án yêu cầu (Tòa chỉ định).
- Người biết chữ của người khuyết tật nhìn hoặc biết nghe, nói bằng ngơn ngữ,
ký hiệu của người khuyết tật nghe, nói cũng được coi là người phiên dịch.
2.

Người phiên dịch trong Luật Tố tụng hình sự
Khoản 1 Điều 70 Bộ luật tố tụng hình sự quy định:

“Người phiên dịch, người dịch thuật là người có khả năng phiên dịch, dịch thuật
và được cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng yêu cầu trong trường hợp có người
tham gia tố tụng khơng sử dụng được tiếng Việt hoặc có tài liệu tố tụng không thể hiện

3


bằng tiếng Việt.”
Như vậy, Ngoài “Người phiên dịch”, Bộ luật tố tụng hình sự có ghi nhận thêm
một chủ thể khác là “người dịch thuật”. Hai chủ thể này thường được đi kèm với nhau
trong các quy định liên quan trong Bộ luật Tố tụng hình sự nhưng vẫn có những đặc
điểm khác biệt.
3.

Người phiên dịch trong Luật Công chứng:

Trong Luật Công chứng, ta thấy xuất hiện rõ ràng 02 (hai) chủ thể cùng được ghi
nhận là “Người phiên dịch”. Các chủ thể này có nhiều điểm tương đồng, nhưng lại có
nhiều đặc điểm khác biệt nhau, cụ thể như sau:
* Chủ thể Người phiên dịch thứ nhất:
Khoản 3 Điều 47 Luật Công Chứng năm 2014 quy định:
“Trường hợp người u cầu cơng chứng khơng thơng thạo tiếng Việt thì họ phải
có người phiên dịch.
Người phiên dịch phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, thông thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu công chứng sử dụng.
Người phiên dịch do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc phiên dịch của mình.”
Đó là quy định đối với việc cơng chứng. Cịn trong hoạt động chứng thực thì
người phiên dịch cũng được quy định tương tự, cụ thể: Điều 11 Nghị định
23/2015/NĐ-CP ngày 16 tháng 02 năm 2015 quy định:
“Tiếng nói và chữ viết dùng trong chứng thực hợp đồng, giao dịch là tiếng Việt.
Trường hợp người yêu cầu chứng thực không thơng thạo tiếng Việt thì phải có người
phiên dịch”
Đồng thời, khoản 1 Điều 22 Thông tư 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020 cũng quy

định:
“Trong trường hợp người yêu cầu chứng thực hợp đồng, giao dịch khơng thơng
thạo tiếng Việt thì phải có người phiên dịch. Người phiên dịch phải là người có năng
lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật, thông thạo tiếng Việt và ngôn
ngữ mà người yêu cầu chứng thực sử dụng. Người phiên dịch do người yêu cầu chứng
thực mời hoặc do cơ quan thực hiện chứng thực chỉ định. Thù lao phiên dịch do người
u cầu chứng thực trả.”
Như vậy, có thể nhìn nhận chủ thể “Người phiên dịch thứ nhất” này có một số
đặc điểm như sau:
- Người phiên dịch này gắn với vào hoạt động công chứng/chứng thực hợp đồng,
giao dịch. Người phiên dịch này mang tính chất bắt buộc trong trường hợp người yêu
4


cầu công chứng/chứng thực không thông thạo tiếng Việt.
- Việc phiên dịch này nằm trong sự chứng kiến của công chứng viên chứng nhận
hợp đồng.
- Yêu cầu đối với người phiên dịch tương đối đơn giản: có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ theo quy định của pháp luật và thông thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người
yêu cầu công chứng/chứng thực sử dụng.
- Người phiên dịch do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc phiên dịch của mình.
* Chủ thể “Người phiên dịch thứ hai”:
Khoản 1 Điều 61 Luật công chứng năm 2014 quy định:
“Việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngồi sang tiếng Việt để cơng chứng phải do người phiên dịch là cộng tác viên
của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp
đại học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà thơng thạo thứ tiếng nước ngồi đó. Cộng
tác viên phải chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề cơng chứng về tính chính
xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện.”

Khoản 1 Điều 22 Thơng tư 01/2021/TT-BTP ngày 03 tháng 02 năm 2021 quy
định:
“Cộng tác viên phiên dịch của tổ chức hành nghề công chứng phải đáp ứng đầy
đủ các tiêu chuẩn theo quy định tại khoản 1 Điều 61 của Luật Công chứng.
Trong trường hợp cộng tác viên phiên dịch đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức
hành nghề cơng chứng mà mình làm cộng tác viên thì có thể ký trước vào bản dịch;
công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của cộng tác viên phiên dịch với chữ ký mẫu
trước khi ghi lời chứng và ký vào từng trang của bản dịch”.
Như vậy, chủ thể “Người phiên dịch thứ hai” này được quy định chặt chẽ hơn và
có một số đặc điểm khác biệt với người phiên dịch thứ nhất như sau:
- Người phiên dịch tham gia vào hoạt động dịch thuật giấy tờ, văn bản chứ không
bắt buộc phải gắn với hợp đồng, giao dịch.
- Việc phiên dịch này có thể được thực hiện ngồi sự chứng kiện của cơng chứng
viên.
- Yêu cầu đối với người phiên dịch này chặt chẽ hơn: Người phiên dịch phải là
người tốt nghiệp đại học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà thông thạo thứ tiếng nước
ngồi đó.
- Người phiên dịch phải ký hợp đồng cộng tác viên với tổ chức hành nghề công
chứng và chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề cơng chứng về tính chính xác,
5


phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện.
Theo những nhận định ở trên, ta có thể thấy, cùng một tên gọi là “Người phiên
dịch” nhưng luật công chứng phân biệt ra hai chủ thể khác nhau với những đặc điểm
và yêu cầu đối với Người phiên dịch khác nhau.
Dưới đây, để dễ dàng theo dõi, tôi xin tạm phân chia:
+ “Người phiên dịch thứ nhất” là “NGƯỜI PHIÊN DỊCH NÓI”.
+ “Người phiên dịch thứ hai” là “CỘNG TÁC VIÊN DỊCH”.


CHƯƠNG II. CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT CÔNG CHỨNG LIÊN
QUAN ĐẾN NGƯỜI PHIÊN DỊCH
1.

Quy định đối với người phiên dịch nói
Điều 48 Luật cơng chứng quy định:

“1. Người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch phải ký vào
hợp đồng, giao dịch trước mặt công chứng viên.

2. Việc điểm chỉ được thay thế việc ký trong trường hợp người yêu cầu công
chứng, người làm chứng, người phiên dịch không ký được do khuyết tật hoặc không
biết ký. Khi điểm chỉ, người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch
sử dụng ngón trỏ phải; nếu khơng điểm chỉ được bằng ngón trỏ phải thì điểm chỉ bằng
ngón trỏ trái; trường hợp khơng thể điểm chỉ bằng hai ngón trỏ đó thì điểm chỉ bằng
ngón khác và phải ghi rõ việc điểm chỉ đó bằng ngón nào, của bàn tay nào.”
Điều 36 nghị định 23/2015/NĐ-CP ngày 16/02/2015 quy định:
“Trường hợp phải phiên dịch thì người phiên dịch có trách nhiệm dịch đầy đủ,
chính xác nội dung của hợp đồng, giao dịch, nội dung lời chứng cho người yêu cầu
chứng thực và ký vào từng trang hợp đồng với tư cách là người phiên dịch.”
Có thể thấy, yêu cầu của pháp luật đối với người phiên dịch nói khá đơn giản.
Thậm chí cả trường hợp khơng thể ký được do khuyết tật hoặc không biết ký cũng có
thể trở thành người phiên dịch nói.
Ngồi các quy định đã dẫn chiếu, Luật cơng chứng có rất ít những điều khoản
quy định riêng về người phiên dịch nói mà hầu hết nằm ở các điều khoản quy định về
Người phiên dịch nói chung: Ví dụ: Nghiêm cấm người làm chứng, người phiên dịch
có hành vi gian dối, khơng trung thực (Điểm c, khoản 2 điều 7 Luật công chứng).
2.

Quy định đối với Cộng tác viên dịch


Trái với Người phiên dịch nói, Quy định về Cộng tác viên dịch trong luật công
chứng khá đầy đủ và chặt chẽ.
6


a/ Quy định về điều kiện, tiêu chuẩn trở thành cộng tác viên phiên dịch trong luật
công chứng:
Căn cứ Khoản 1 Điều 61 Luật công chứng 2015, Điều 27 nghị định 23/2015/NĐCP ngày 16/2/2015 và Điều 16 thông tư 01/2020/TT-BTP ngày 03/3/2020, tiêu chuẩn
của cộng tác viên dịch thuật phải đáp ứng các yêu cầu như sau:
- Có năng lực hành vi dân sự đầy đủ theo quy định của pháp luật
- Có bằng cử nhân ngoại ngữ trở lên về thứ tiếng nước ngồi cần dịch hoặc có
bằng tốt nghiệp đại học trở lên đối với thứ tiếng nước ngồi cần dịch.
Đối với ngơn ngữ khơng phổ biến mà người dịch khơng có bằng cử nhân ngoại
ngữ, bằng tốt nghiệp đại học theo quy định tại Khoản này thì phải thơng thạo ngơn ngữ
cần dịch.
Trường hợp có bằng đại học trở lên đối với chuyên ngành khác được học bằng
thứ tiếng nước ngồi cần dịch thì người dịch cần xuất trình thêm bảng điểm hoặc giấy
tờ để chứng minh ngơn ngữ học của mình.
b/ Ngồi ra, để trở thành cộng tác viên phiên dịch của tổ chức hành nghề cơng
chứng, tổ chức hành nghề cơng chứng và người có nhu cầu trở thành cộng tác viên
phiên dịch còn cần phải thực hiện các thủ tục như sau:
Ký hợp đồng với cộng tác viên phiên dịch, trong đó xác định rõ trách nhiệm của
cộng tác viên đối với nội dung, chất lượng bản dịch, thù lao, quyền và nghĩa vụ của
các bên
Thông báo bằng văn bản cho Sở Tư pháp nơi tổ chức hành nghề công chứng
đăng ký hoạt động danh sách cộng tác viên phiên dịch chậm nhất là 05 ngày làm việc
kể từ ngày ký hợp đồng với cộng tác viên.
Niêm yết công khai danh sách cộng tác viên phiên dịch tại trụ sở của tổ chức
hành nghề cơng chứng.

c/ Quy trình chứng nhận bản dịch:
- Cơng chứng viên tiếp nhận bản chính giấy tờ, văn bản cần dịch, kiểm tra và
giao cho người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức mình thực hiện. Người phiên
dịch phải ký vào từng trang của bản dịch trước khi công chứng viên ghi lời chứng và
ký vào từng trang của bản dịch.
- Từng trang của bản dịch phải được đóng dấu chữ “Bản dịch” vào chỗ trống phía
trên bên phải; bản dịch phải được đính kèm với bản sao của bản chính và được đóng
dấu giáp lai.
- Lời chứng của công chứng viên đối với bản dịch phải ghi rõ thời điểm, địa điểm
công chứng, họ tên công chứng viên, tên tổ chức hành nghề công chứng; họ tên người
7


phiên dịch; chứng nhận chữ ký trong bản dịch đúng là chữ ký của người phiên dịch;
chứng nhận nội dung bản dịch là chính xác, khơng vi phạm pháp luật, khơng trái đạo
đức xã hội; có chữ ký của cơng chứng viên và đóng dấu của tổ chức hành nghề công
chứng.
- Trong trường hợp cộng tác viên phiên dịch đã đăng ký chữ ký mẫu tại tổ chức
hành nghề công chứng mà mình làm cộng tác viên thì có thể ký trước vào bản dịch;
công chứng viên phải đối chiếu chữ ký của cộng tác viên phiên dịch với chữ ký mẫu
trước khi ghi lời chứng và ký vào từng trang của bản dịch (Khoản 1 Điều 22 Thông tư
số 01/2021/TT-BTP).
d/ Quyền và nghĩa vụ của cộng tác viên phiên dịch (Khoản 3 Điều 22 Thông tư
01/2021/TT-BTP):
- Nhận thù lao phiên dịch theo thỏa thuận với tổ chức hành nghề cơng chứng;
- Chịu trách nhiệm về tính chính xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình
thực hiện;
- Hồn trả số tiền mà tổ chức hành nghề công chứng đã bồi thường thiệt hại do
lỗi của mình gây ra theo quy định tại Điều 38 của Luật Công chứng;
- Chấp hành các quy định của pháp luật về dịch thuật, nội quy làm việc của tổ

chức hành nghề công chứng;
- Các quyền, nghĩa vụ khác theo thỏa thuận với tổ chức hành nghề công chứng
hoặc theo quy định của pháp luật.
Quyền và nghĩa vụ của cộng tác viên phiên dịch đã được quy định rất cụ thể
như ở trên. Cộng tác viên nhận được thù lao tương xứng với nội dung bản dịch mà
mình đã thực hiện. Đặc biệt pháp luật đã quy định rất cụ thể về trách nhiệm phải dịch
nội dung bản dịch khách quan, chính xác, trung thực phù hợp với bản dịch. Ngoài ra
cộng tác viên cũng phải chịu trách nhiệm bồi thường số tiền nhất định cho tổ chức
công chứng nếu đã gây ra thiệt hại cho người bị hại.
Quy định rất cụ thể và chi tiết sẽ là nền tảng pháp lý để cộng tác viên bản dịch
nhận thấy được tầm quan trọng cũng như trách nhiệm của mình đối với bản dịch. Cộng
tác viên cũng phải tuân thủ theo các nội quy làm việc của tổ chức hành nghề công
chứng và những quy định khác theo thỏa thuận với tổ chức hành nghề công chứng
hoặc theo quy định của pháp luật.

CHƯƠNG III: THỰC TIỄN ÁP DỤNG VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN
VỀ NHỮNG QUY ĐỊNH LIÊN QUAN ĐẾN QUY ĐỊNH NGƯỜI PHIÊN
DỊCH
1.

Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật
8


Có thể thấy, nước ta đang trong q trình hội nhập trên nhiều lĩnh vực với thế
giới và khu vực. Việc đó đồng nghĩa với việc các nhà đầu tư nước ngoài, cá nhân nước
ngoài nhập cảnh và cư trú tại Việt Nam cũng ngày càng nhiều hơn. Từ đó dẫn đến các
hợp đồng, giao dịch liên có chủ thể tham gia là người nước ngồi cũng như việc cơng
chứng các bản dịch cũng xuất hiện với tần số ngày càng lớn. Việc phát triển như vậy
vừa là cơ hội cũng đồng thời là những thách thức đối với các cơng chứng viên hành

nghề cơng chứng. Bên cạnh đó, đối với những người dân tộc thiểu số, việc thông thạo
tiếng Việt cũng là một vấn đề cần quan tâm khi công chứng viên thực hiện các thủ tục
công chứng. Luật công chứng 2014 và các văn bản hướng dẫn liên quan đã có những
quy định để giải quyết về vấn đề này đó chính là người phiên dịch.
Thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật công chứng liên quan đến người
phiên dịch có thể kể đến như sau:
1. Đối với người phiên dịch nói
Như đã phân tích ở trên, đối với trường hợp mà người yêu cầu công chứng khơng
thơng thạo tiếng Việt thì họ sẽ phải có người làm chứng. Người làm chứng sẽ phải là
người đáp ứng những điều kiện luật định và do người yêu cầu công chứng mời, chịu
trách nhiệm trước pháp luật về việc phiên dịch của mình.
Thực tiễn hành nghề cơng chứng hiện nay có thể thấy, việc áp dụng quy định về
người phiên dịch nói đã được các cơng chứng viên khi hành nghề công chứng tuân thủ
và thực hiện một cách nghiêm túc và đầy đủ. Khi công chứng viên tiếp nhận hồ sơ yêu
cầu công chứng, công chứng viên sẽ cần xem xét và nghiên cứu hồ sơ, nếu thấy xuất
hiện chủ thể tham gia giao dịch là người nước ngồi hoặc thơng qua giao tiếp khẳng
định người u cầu cơng chứng khơng thơng thạo tiếng việt thì cơng chứng viên sẽ yêu
cầu phải có người phiên dịch nói. Đối với các văn bản cơng chứng hiện nay thì các
giao dịch có yếu tố nước ngồi khơng q nhiều nhưng khi giao dịch thì đều tuân theo
quy định là có người phiên dịch nói.
Tuy nhiên, có thể thấy, Luật công chứng chưa quy định một cách cụ thể về vấn
đề này nên vẫn xuất hiện những bất cập nhất định liên quan đến các hợp đồng, giao
dịch cần phải có người phiên dịch nói. Có thể kể đến những bất cập tiêu biểu như sau:
Thứ nhất, việc xác định người yêu cầu công chứng không thông thạo tiếng Việt:
Theo quy định của Luật cơng chứng 2014 thì trường hợp người u cầu cơng
chứng khơng “thơng thạo” tiếng Việt thì sẽ phải có người làm chứng, tuy việc, việc
xác định khơng “thơng thạo” là như thế nào lại chưa có quy định cụ thể, chưa có
những quy định chung để xác định vấn đề này. Các công chứng viên khi hành nghề
cơng chứng thì sẽ thường căn cứ vào quan điểm cũng như kinh nghiệm hành nghề để
xác định vấn đề này. Do việc chưa có những quy định cụ thể dẫn đến mỗi cơng chứng

viên sẽ có những quan điểm và cách hành nghề khác nhau, dẫn đến sự thiếu thống nhất
9


trong hành nghề cơng chứng.
Thực tế cho thấy, có rất nhiều chủ thể là người nước ngồi đã có thời gian sinh
sống và làm việc tại Việt Nam, do đó, họ rất thành thạo tiếng Việt. Họ có thể nghe, đọc
hiểu và giao tiếp bình thường bằng tiếng Việt. Tuy nhiên, khi tham gia vào các giao
dịch công chứng, tùy từng quan điểm của cơng chứng viên, có cơng chứng viên sẽ
thông qua giao tiếp, khả năng đọc hiểu văn bản cơng chứng để xác định vấn đề có
“thành thạo” tiếng Việt hay không để yêu cầu người làm chứng. Nhưng lại có những
cơng chứng viên thì sẽ ln ln yêu cầu phải có người phiên dịch nói, do họ là người
nước ngồi và khơng có bằng cấp để chứng minh việc thơng thạo tiếng Việt, khơng có
giấy tờ cụ thể để lưu trong hồ sơ. Như vậy, khơng có quy định cụ thể này đã dẫn đến
những quan điểm khác nhau khi hành nghề, gây ra những khó khăn cũng như làm tổn
thất về chi phí cho người yêu cầu cơng chứng. Điều này gây khó khăn cho người u
cầu cơng chứng là người nước ngồi và tạo cơ chế không linh động, cứng nhắc trong
hoạt động công chứng.
Đồng thời, nước ta là một nước đông dân tộc anh em, tại những địa phương ở
vùng sâu vùng xa có nhiều dân tộc thiểu số thì việc áp dụng để xác định mức độ thông
thạo tiếng Việt lại càng trở lên khó khăn hơn. Nơi địa bàn có nhiều dân tộc thiểu số có
nhiều người có thể nghe nói đọc viết được tiếng Việt tuy nhiên độ thông thạo chưa
nhiều. Việc xác định mức độ hoàn toàn dựa vào yếu tố chủ quan của mỗi công chứng
viên và hiển nhiên mỗi người lại có sự đánh giá về sự “thành thạo tiếng Việt” cũng
khơng giống nhau. Chính vì lẽ đó, đối với cơng chứng viên này thì đủ điều kiện
“thơng thạo”, nhưng cũng người đó, đối với cơng chứng viên khác thì chưa hẳn đã đạt
tiêu chí “thơng thạo”. Trên thực tế nếu có các giao dịch, hợp đồng mà người yêu cầu
công chứng là dân tộc thiểu số chưa thơng thạo tiếng Việt thì các cơng chứng viên
thường mời người phiên dịch nói là người quen biết hoặc người trong làng để việc
cơng chứng diễn ra nhanh chóng đỡ mất thời gian. Tuy nhiên, có nhiều trường hợp sẽ

khơng thể hiện được sự khách quan, chính xác của hợp đồng, giao dịch.
Thứ hai, vấn đề mời người phiên dịch nói của người u cầu cơng chứng
Tại khoản 3 Điều 47 Luật công chứng quy định: “Người phiên dịch do người yêu
cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc phiên dịch của
mình”. Như vậy, khác với người làm chứng, người làm chứng sẽ do người yêu cầu
công chứng mời, nếu người yêu cầu công chứng khơng mời được thì sẽ do Cơng
chứng viên chỉ định. Cịn đối với người làm chứng thì việc mời này sẽ hoàn toàn được
giao trách nhiệm cho người yêu cầu công chứng. Quy định này tạo ra sự chủ động cho
người yêu cầu công chứng, giảm bớt gánh nặng cho công chứng viên. Người yêu cầu
công chứng được quyền lựa chọn người phiên dịch phù hợp với quy định của pháp
luật.
Tuy nhiên, với quy định này khi thực tiễn thực hiện cũng sẽ gặp phải những khó
10


khăn nhất định. Rất nhiều trường hợp người yêu cầu cơng chứng khơng có người quen
hoặc cách thức liên hệ nào để mời được người phiên dịch nói hoặc người u cầu cơng
chứng thì sẽ mời những người thân quen để phiên dịch cho mình. Như vậy, một là sẽ
có thể kéo dài thời gian thực hiện thủ tục công chứng hoặc có thể sẽ khơng bảo đảm
được tính khách quan của việc phiên dịch. Do đó, trong thực tế hành nghề hiện nay, rất
nhiều trường hợp người phiên dịch nói này sẽ do cơng chứng viên giới thiệu cho người
yêu cầu công chứng và người yêu cầu công chứng phải trả phí cho người phiên dịch.
Việc cơng chứng viên có được mời người u cầu cơng chứng hay khơng thì pháp luật
khơng quy định và cũng khơng có quy định nào cấm về vấn đề này, do đó, hoạt động
này vẫn diễn ra khá phổ biến trong hoạt động công chứng hiện nay.
Thứ ba, đối với trường hợp tiếng nói của người u cầu cơng chứng là tiếng
“hiếm”
Đối với một số tiếng “hiếm” trên thế giới hiện nay, thì việc phiên dịch ra tiếng
Việt cũng rất khó khăn. Tiếng hiếm là những ngơn ngữ ít phổ biến, chưa sử dụng rộng
rãi trong cộng đồng như: Tiếng Ả Rập, Tây Ban Nha, Na Uy,... Những thứ tiếng này

đều là những thứ tiếng ít người sử dụng, ít người biết đến. Trong trường hợp những
người nước ngoài biết một trong số những tiếng này có giao dịch, hợp đồng tại Việt
Nam thì việc tìm được người phiên dịch nói những thứ tiếng trên cũng rất khó khăn.
Pháp luật cũng chưa có quy định nào hướng dẫn hay tháo gỡ khó khăn đối với những
trường hợp mà người yêu cầu công chứng là người sử dụng thành thạo tiếng “hiếm”
muốn phiên dịch hợp đồng, giao dịch sang tiếng Việt Nam. Công chứng viên khi tiếp
nhận những hồ sơ yêu cầu công chứng liên quan đến vấn đề này mà người yêu cầu
công chứng khơng mời được người phiên dịch nói thì theo quy định chỉ có thể từ chối
u cầu cơng chứng.
2. Đối với cộng tác viên dịch
Như đã phân tích ở trên, cộng tác viên dịch được hiểu là cộng tác viên phiên dịch
của tổ chức hành nghề công chứng. Các cộng tác viên dịch này cũng sẽ phải đáp ứng
các yêu cầu theo quy định của pháp luật và được quy định cụ thể về quyền và nghĩa
vụ. Có thể thấy, hầu hết những cộng tác viên dịch khi thực hiện các hoạt động dịch
thuật của mình đều đã tuân thủ theo các quy định của pháp luật. Các bản dịch được
cơng chứng viên chứng nhận có giá trị theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong
quá trình thực hiện hoạt động công chứng bản dịch vẫn xuất hiện những vấn đề nhất
định, có thể kể đến như:
Thứ nhất, theo quy định của Luật cơng chứng 2014 thì người phiên dịch phải ký
vào từng trang của bản dịch trước khi công chứng viên ghi lời chứng và ký vào từng
trang của bản dịch. Tuy nhiên, hiện nay, rất nhiều bản dịch đã được công chứng và
phát hành cho người yêu cầu công chứng dịch lại thiếu chữ ký vào từng trang của bản
dịch. Việc thiếu sót như vậy đã thể hiện việc kiểm sốt hồ sơ cơng chứng dịch không
11


được chặt chữ, người phiên dịch không thực hiện nghĩa vụ của mình theo quy định.
Hiện nay, rất nhiều trường hợp đã bị xử phạt đối với việc người phiên dịch không ký
vào từng trang của bản dịch, gây ra những hậu quả đối với tổ chức hành nghề công
chứng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 14 của Nghị định số 82/2020/NĐ-CP ngày

15/07/2020 do Chính phủ ban hành quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực bổ trợ tư pháp, hành chính tư pháp, hơn nhân và gia đình, thi hành án dân sự, phá
sản doanh nghiệp, hợp tác xã thì “Phạt tiền từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng
đối với hành vi công chứng bản dịch mà thiếu chữ ký của công chứng viên hoặc thiếu
chữ ký của người dịch vào từng trang của bản dịch hoặc khơng đính kèm bản sao của
bản chính.”. Do đó, người phiên dịch cần phải hiểu rõ quyền, nghĩa vụ cũng như trách
nhiệm của mình, tránh những trường hợp sai sót.
Thứ hai, Việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ
tiếng nước ngoài sang tiếng Việt để công chứng phải do người phiên dịch là cộng tác
viên của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Tuy nhiên hiện nay, rất nhiều tổ
chức hành nghề công chứng chỉ lập hồ sơ đăng ký theo quy định và người thực hiện
việc dịch này lại là một cá nhân khác. Bên cạnh việc dịch là một cá nhân khác thì việc
cộng tác viên dịch có phải là người trực tiếp ký vào bản dịch hay không cũng là một
vấn đề cần phải xem xét thêm. Vậy, việc thực hiện như vậy sẽ bị xử lý như thế nào khi
bị phát hiện? Ai sẽ là người chịu trách nhiệm cho việc dịch chưa chính xác các bản
dịch này?
Thứ ba, theo quy định tại Khoản 1, Điều 2 Luật Cơng chứng năm 2014 thì về mặt
ngun tắc, cơng chứng viên phải chịu trách nhiệm về “tính chính xác, hợp pháp,
không trái đạo đức xã hội của bản dịch giấy tờ”, tuy vậy trên thực tế, với các bản dịch
từ tiếng nước ngoài sang tiếng Việt điều này là không khả thi, bởi lẽ công chứng viên
không thể thông thạo tất cả các ngôn ngữ trên thế giới, cho dù đó là những ngơn ngữ
được xác định là rất phổ biến. Đối chứng với mẫu lời chứng từ bản dịch được quy định
cụ thể tại Thông tư số 01/2021/TT-BTP Thông tư quy định chi tiết một số biện pháp thi
hành Luật công chứng đã hướng dẫn ghi nội dung chi tiết: “Nội dung bản dịch chính
xác, khơng vi phạm pháp luật, không trái đạo đức xã hội”;
Rõ ràng, nội dung bản dịch chính xác, khơng vi phạm pháp luật được dựa trên
nội dung của cộng tác viên dịch sau khi cộng tác viên đã dịch xong. Nội dung của bản
dịch có chính xác hay khơng vi phạm pháp luật hay không dựa trên bản dịch của
người phiên dịch. Trong phần lời chứng của cơng chứng viên có quy định về trách
nhiệm của công chứng viên để xác định bản dịch chính xác, khơng vi phạm pháp luật,

khơng trái đạo đức xã hội là hồn tồn khơng hợp lý.
Nói một cách khác công chứng viên không thể biết được và xác nhận nội dung
của bản dịch có chính xác, khơng vi phạm pháp luật hay không trái đạo đức hay
không. Nội dung của bản dịch phụ thuộc hoàn toàn vào trình độ, chun mơn, ý chí
12


chủ quan của người phiên dịch.
Thứ tư, đối bản dịch tại Điều 61 Luật Cơng chứng năm 2014 có quy định điều
kiện để làm cộng tác viên phiên dịch đó là “Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp đại
học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngồi đó”. Pháp luật
quy định rất rõ cũng như cụ thể phải là những người có bằng đại học ngoại ngữ hoặc
đại học khác thông thạo thứ tiếng nước ngồi đó mới đủ điều kiện là cộng tác viên
phiên dịch. Tuy nhiên, hiện nay đối với tiếng Anh là thứ tiếng thơng dụng và phổ biến
thì cũng có rất nhiều cuộc thi để cấp chứng chỉ TOEIC, IELTS,... Tiếng Trung cũng có
cuộc thi HSK có 4 kỹ năng để đánh giá được mức độ thông thạo của người tham gia
thi. Như vậy, khơng chỉ có bằng đại học ngoại ngữ hay bằng đại học trường nào đó
mới là cơ sở để đánh giá về độ thông thạo một thứ tiếng nước ngồi. Hiện nay có rất
nhiều cuộc thi uy tín cấp chứng chỉ tiếng nước ngồi rất khách quan, chính xác. Vì
vậy, thiết nghĩ các nhà làm luật nên mở rộng hơn về điều kiện trở thành cộng tác viên
phiên dịch để phù hợp, đáp ứng xu thế phát triển hiện nay.
2.

Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Thứ nhất, cần có quy định hướng dẫn cụ thể về mức độ thông thạo tiếng
Việt đặc biệt đối với người dân tộc thiểu số. Qua đó, tạo cơ sở pháp lý để công
chứng viên xác định cũng như áp dụng pháp luật chính xác.
Thực tiễn cho thấy tại một số địa phương có đồng bào dân tộc thiểu số, khi tham
gia hoạt động cơng chứng, sẽ có nhiều trường hợp có người viết được tiếng Việt nhưng

còn ở mức độ hạn chế như chỉ biết viết họ và tên của mình, có người nghe hiểu, biết
nói nhưng là khơng biết viết do không biết chữ,… khi gặp các trường hợp như vậy,
thông thường các công chứng viên sẽ dựa theo kinh nghiệm của bản thân để xác định
mức độ thông thạo tiếng Việt đối với người yêu cầu công chứng. Do vậy, việc xác định
mức độ thông thạo tiếng Việt thường mang tính định tính và khơng thống nhất giữa
các tổ chức hành nghề cơng chứng nói chung và giữa các cơng chứng viên nói riêng.
Điều này có thể dẫn đến việc bị coi là sách nhiễu, gây khó khăn cho người công chứng
do từng công chứng viên khác nhau sẽ có cách xác định khác nhau.
Chính vì vậy, đối với trường hợp người yêu cầu công chứng là người dân tộc
thiểu số, pháp luật nên có cơ chế hỗ trợ đồng bào khi tham gia hoạt động công chứng.
Đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, kinh tế, xã hội còn gặp nhiều khó khăn thì nhà nước
nên có những chính sách hỗ trợ phù hợp để đảm bảo người dân tiến hành công chứng
một cách thuận lợi. Vấn đề “thông thạo” trong tiếng Việt đối với đồng bào dân tộc
thiểu số cũng cần phải quy định một cách cụ thể hơn về các tiêu chí xác định thế nào là
thơng thạo tiếng Việt.
Đối với người yêu cầu công chứng là người nước ngồi thì cần xác định rõ người
nước ngồi có thể nói, đọc viết, nghe được một cách rõ ràng thì khơng cần có người
phiên dịch nữa. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần có quy định riêng về mức độ “thông
13


thạo” tiếng Việt của những người nước ngồi. Cơng chứng viên dựa vào mức độ đó để
xác định một người nước ngồi có cần phải người phiên dịch hay khơng?
Thứ hai, về ngôn ngữ phiên dịch trong hoạt động chứng
Đối với một số ngôn ngữ hiếm khi xuất hiện trong hoạt động công chứng như
tiếng Ả rập, tiếng Hungary,… , mặc dù hiện nay các ngôn ngữ này hiếm khi xuất hiện
trong các văn bản công chứng nhưng không phải là khơng có. Xã hội ngày càng phát
triển, xu hướng hội nhập ngày càng gia tăng vì vậy các ngơn ngữ tiếng nước ngoài
ngày sẽ xuất hiện nhiều và đa dạng hơn, đặc biệt là ngôn ngữ hiếm nêu trên. Pháp luật
cần có quy định cụ thể và chi tiết hơn nữa đối với những giao dịch, hợp đồng, bản dịch

sử dụng những thứ “tiếng hiếm” này. Có chăng pháp luật nên quy định những người sử
dụng ngôn ngữ “tiếng hiếm” nhưng đồng thời thơng thạo tiếng Anh thì có thể cho họ
sử dụng tiếng Anh để làm ngôn ngữ dịch sang tiếng Việt. Hiện nay, tiếng Anh là tiếng
phổ biến và ngày càng thông dụng, hầu hết các quốc gia trên thế giới đểu lấy tiếng Anh
làm ngôn ngữ thứ hai được sử dụng song song cùng ngôn ngữ mẹ đẻ. Việc cho phép
người sử dụng thông thạo đồng thời “tiếng hiếm” và tiếng Anh lấy tiếng Anh để làm
ngơn ngữ chính dịch sang tiếng Việt là hồn tồn hợp lý và phù hợp.
Thứ ba, về việc mời người phiên dịch
Việc mời người phiên dịch được quy định tại khoản 3 Điều 47 Luật Công chứng
2014 như sau:
“Điều 47. Người yêu cầu công chứng, người làm chứng, người phiên dịch
3. Trường hợp người yêu cầu công chứng không thông thạo tiếng Việt thì họ phải
có người phiên dịch.
Người phiên dịch phải là người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự
đầy đủ, thơng thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu công chứng sử dụng.
Người phiên dịch do người yêu cầu công chứng mời và phải chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc phiên dịch của mình.”
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên, người u cầu cơng chứng có trách
nhiệm mời người phiên dịch để phiên dịch cho mình khi tham gia hoạt động cơng
chứng. Có thể thấy rằng, việc quy định như trên để đảm bảo tính khách quan khi thực
hiện hoạt động công chứng. Tuy nhiên, pháp luật chỉ quy định điều kiện đối với người
phiên dịch là “người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, thông
thạo tiếng Việt và ngôn ngữ mà người yêu cầu công chứng sử dụng”. Như vậy, trong
trường hợp, người yêu cầu công chứng mời người phiên dịch là anh em, họ hàng đáp
ứng đầy đủ các điều kiện nêu trên để tham gia hoạt động cơng chứng thì vấn đề đặt ra
là liệu việc người phiên dịch và người u cầu cơng chứng có mối quan hệ như vậy thì
có đảm bảo tính khách quan theo đúng tinh thần của quy định nêu trên hay khơng. Đối
với trường hợp này, pháp luật cịn bỏ ngỏ chưa có quy định, hướng dẫn cụ thể để giải
14



quyết, gây khó khăn cho cơng chứng viên khi thực hiện chứng nhận hợp đồng, giao
dịch.
Bên cạnh đó, pháp luật chỉ quy định việc mời người phiên dịch do người yêu cầu
công chứng thực hiện, tuy nhiên, trong trường hợp người yêu cầu công chứng không
thể mời được người phiên dịch thì giải quyết như nào, cơng chứng viên có được chỉ
định người phiên dịch trong trường hợp này không thì pháp luật lại chưa có hướng dẫn
cụ thể. Điều này gây khó khăn, bối rối cho các cơng chứng viên khi thực hiện chứng
nhận hợp đồng, giao dịch.
Chính vì vậy, pháp luật nên bổ sung quy định về việc công chứng viên được mời
người phiên dịch đối với các hợp đồng, giao dịch. Bên cạnh đó, pháp luật cũng cần
phải quy định cụ thể các trường hợp cụ thể như: người nhà như vợ chồng, con cái, bố,
mẹ, anh chị em không được tham gia là người phiên dịch cho người yêu cầu công
chứng. Quy định này đảm bảo tính khách quan theo đúng tinh thần được đặt ra, đồng
thời góp phần hồn thiện hệ thống pháp luật đối với những quy định liên quan đến
người phiên dịch trong hoạt động công chứng.
Thứ tư, đối với quy định về người phiên dịch là cộng tác viên của tổ chức
hành nghề công chứng
Điều kiện của công tác viên đối với người phiên dịch được quy định tại khoản 1
Điều 61 Luật Công chứng 2014 như sau:
“Điều 61. Công chứng bản dịch
1. Việc dịch giấy tờ, văn bản từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài hoặc từ tiếng
nước ngoài sang tiếng Việt để công chứng phải do người phiên dịch là cộng tác viên
của tổ chức hành nghề công chứng thực hiện. Cộng tác viên phải là người tốt nghiệp
đại học ngoại ngữ hoặc đại học khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngồi đó. Cộng
tác viên phải chịu trách nhiệm đối với tổ chức hành nghề cơng chứng về tính chính
xác, phù hợp của nội dung bản dịch do mình thực hiện.”
Như vậy, căn cứ theo quy định nêu trên, điều kiện đối với người phiên dịch là
cộng tác viên của tổ chức hành nghề công chứng là “người tốt nghiệp đại học ngoại
ngữ hoặc đại học khác mà thông thạo thứ tiếng nước ngồi đó”. Có thể thấy rằng, việc

quy định như trên để đảm bảo người phiên dịch phải có một trình độ nhất định đối với
ngơn ngữ được phiên dịch và đảm bảo việc phiên dịch trong hoạt động công chứng
được thực hiện một cách đúng đắn.
Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam đang trong quá trình hội nhập với các quốc
gia trên thế giới, việc quy định về điều kiện của cộng tác viên hiện nay cịn bó hẹp
trong khn khổ là phải tốt nghiệp “trường đại học ngoại ngữ hoặc trường nào khác
mà thông thạo thứ tiếng đó”.
Chính vì vậy, để đáp ứng với xu thế hội nhập ngày nay các nhà làm luật nên quy
15


định theo hướng mở rộng hơn nữa như quy định bổ sung thêm những người có chứng
chỉ tiếng nước ngồi của các tổ chức uy tín thì hồn tồn cũng có thể đáp ứng yêu cầu
là cộng tác viên phiên dịch của tổ chức hành nghề công chứng.
Thứ năm, về lời chứng bản dịch
Đối với bản dịch cần phải xem xét lại về mẫu lời chứng đối với bản dịch về việc
trách nhiệm của công chứng viên về việc xác nhận tính chính xác, khơng vi phạm pháp
luật, khơng trái đạo đức xã hội. Có thỏa đáng hay chưa nếu để công chứng viên xác
nhận nội dung mà họ phải phụ thuộc người phiên dịch mới xác định được? Pháp luật
nên quy định về việc công chứng viên chỉ cần xác nhận về việc cộng tác viên phiên
dịch họ đã ký vào bản dịch, chữ ký trong bản dịch là đúng chữ ký của họ có sự xác
nhận của cơng chứng viên. Việc quy định này rõ ràng là hợp lý, phù hợp với thực tiễn
tạo cơ chế thuận lợi cho công chứng viên hơn. Rõ ràng pháp luật không thể quy định
công chứng viên xác định nội dung của một giao dịch, hợp đồng là có chính xác, có vi
phạm pháp luật, hay có trái đạo đức xã hội hay không khi mà họ cần thông qua cộng
tác viên phiên dịch mới nắm được nội dung của văn bản đó.
Cuối cùng, trong trường hợp đối với hợp đồng giao dịch mà cần cả người
làm chứng và người phiên dịch thì người làm chứng và người phiên dịch có thể là
1 người được không?
Trên thực tế xảy ra rất nhiều trường hợp như này, mỗi công chứng viên lại dựa

vào kinh nghiệm và hiểu biết về áp dụng pháp luật để có cách xử lý khác nhau. Thiết
nghĩ cần quy định rõ hơn nữa về cách áp dụng đối với trường hợp hợp đồng, giao dịch
cần phải có người phiên dịch và người làm chứng để tránh việc áp dụng tùy nghi và
vận dụng sai về bản chất. Điều này tạo thuận lợi cho công chứng viên dễ dàng vận
dụng pháp luật vào những trường hợp pháp luật cụ thể hơn, tránh những sai lầm khơng
đáng có, đồng thời, tạo sự đồng bộ, thống nhất giữa các tổ chức hành nghề cơng chứng
nói chung và các cơng chứng viên nói riêng, tạo thuận lợi cho người u cầu cơng
chứng, góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động công chứng.

C - KẾT LUẬN
Ngày nay với sự phát triển về khoa học, kinh tế, xã hội và xu thế hội nhập thì
những giao dịch, hợp đồng có yếu tố nước ngồi đã và đang gia tăng rất nhanh chóng.
Địi hỏi những vấn đề pháp lý liên quan đến giao dịch, hợp đồng cũng rất phức tạp. Đã
từ rất lâu người phiên dịch đã có một vị trí vai trị khơng thể thiếu đối với người nước
ngoài hoặc người dân tộc thiểu số khi cơng chứng các giao dịch hợp đồng có yếu tố
nước ngoài hoặc bản dịch.
Vấn đề pháp lý quy định về người phiên dịch hiện nay đã được đề cập đến Luật
Công Chứng năm 2104 và những văn bản có liên quan. Tuy nhiên, hệ thống văn hướng
dẫn và điều chỉnh về vấn đề này vẫn chưa nhiều. Việc hoàn thiện hệ thống pháp luật sẽ
16


tạo hành lang pháp lý rất tốt để công chứng viên và cộng tác viên dịch thuật áp dụng
và thực hiện pháp luật hiệu quả hơn.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Luật Công chứng năm 2014;


2.

Luật Tố tụng Dân sự năm 2015;

3.

Luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

4.

Thơng tư số 01/2021/TT-BTP Thông tư quy định chi tiết một số biện pháp thi
hành Luật cơng chứng

5.

Giáo trình kỹ năng hành nghề cơng chứng;

17



×