Tải bản đầy đủ (.doc) (31 trang)

Vận dụng quan điểm triết học Mác Lênin về con người vào nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại cơ quan Sở Y tế Quảng Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.2 KB, 31 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Tư tưởng về con người của triết học Mác - Lênin được hình thành trên cơ
sở kế thừa biện chứng những tư tưởng tiến bộ của nhân loại, từ đó triết học Mác
- Lênin đã khẳng định vai trò cải tạo của thế giới, làm nên lịch sử của con người.
Trong tư tưởng khoa học và cách mạng ấy, con người vừa là mục tiêu, vừa là
động lực phát triển của lịch sử. Bản chất nhân đạo, mục tiêu cao cả, thước đo
nhân văn của sự phát triển xã hội là phát triển vì con người.
Từ xa xưa cho đến thời đại ngày nay, con người được xem là vị trí trung
tâm và có vai trị quyết định sự tồn vong, phát triển của xã hội. Con người được
xem là chủ thể của lịch sử, con người làm ra lịch sử xã hội. Vì vậy con người đã
trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều môn khoa học khác nhau như: sinh vật
học, tâm lý học, đạo đức học, y học và trong đó có triết học. Vấn đề con người
đã trở thành một nội dung lớn trong lịch sử triết học nhân loại và là nội dung cơ
bản của chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác - Lênin nói riêng. Con
người cũng luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học cổ đại đến trung đại.
Ở nước ta trong mỗi thời kì cách mạng, Đảng và Nhà nước luôn chú trọng
đến sự nghiệp xây dựng, phát triển và giải phóng con người Việt Nam. Đặc biệt
là trong công cuộc đổi mới 20 năm qua, bằng việc thay đổi cơ chế quản lý kinh
tế, thực hiện chính sách mở cửa, tạo điều kiện thuận lợi cho đất nước tiến lên.
Ngày nay, trước xu thế tồn cầu hóa kinh tế và văn hóa, cải cách hành chính trở
thành một trào lưu, là một nhu cầu tự thân, nỗ lực của hầu hết các quốc gia trên
thế giới, nhằm xây dựng một nền hành chính nhà nước hiện đại, năng động hiệu
quả, giảm phiền hà, một nền hành chính lấy đối tượng phục vụ làm tôn chỉ, mục

1


đích, để từ đó xây dựng, phát triển và hồn thiện nền hành chính. Ở Việt Nam,
trong q trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng ta đã chỉ rõ sự cần thiết


phải tiến hành cải cách hành chính, coi đây là một giải pháp quan trọng góp phần
đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Trong đó, việc nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, người lao động nhằm tạo động lực
thực sự để cán bộ, công chức, viên chức thực thi cơng vụ có chất lượng và hiệu
quả cao tại cơ quan Sở Y tế tỉnh Quảng Nam luôn được quan tâm sâu sắc. Trong
những năm qua, mỗi đảng viên, cán bộ, công chức đã luôn nỗ lực phấn đấu, rèn
luyện, nâng cao ý thức, tinh thần trách nhiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ, góp
phần tích cực vào cơng tác cải cách hành chính, vào sự phát triển chung của xã
hội, đặc biệt là trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 thời gian qua địi hỏi mỗi cán
bộ, cơng chức, viên chức, người lao động ngành y tế thì việc nâng cao tinh thần
trách nhiệm hơn nữa trong công cuộc bảo vệ sức khỏe cho người dân là hết sức
cần thiết. Đây là một trong những nội dung trọng tâm, quan trọng để nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ công chức, viên chức, người lao động, giải quyết vấn
đề này vừa mang tính lý luận đồng thời cũng mang ý nghĩa thực tiễn sâu sắc. Vì
vậy, tơi đã lựa chọn đề tài “Vận dụng quan điểm triết học Mác - Lênin về con
người vào nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động tại cơ quan Sở Y tế Quảng Nam” làm đề tài tiểu luận kết thúc
mơn học của mình.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu

2.1 Mục đích: Mục đích của tiểu luận nhằm làm rõ sự vận dụng quan điểm triết
học Mác - Lênin về con người vào nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động tại cơ quan Sở Y tế Quảng Nam
2.2 Nhiệm vụ của đề tài:

2


Đề tài có những nhiệm vụ sau:
- Tìm hiểu quan niệm triết học Mác - Lênin về con người.

- Phân tích và làm rõ cơ sở lý luận của đề tài (quan điểm triết học nghiên
cứu vận dụng)
- Vận dụng quan điểm triết học để làm rõ thực trạng việc nâng cao tinh
thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại cơ quan
Sở Y tế Quảng Nam
- Vận dụng quan điểm triết học để làm rõ các giải pháp nâng cao hiệu quả
công tác lãnh đạo quản lý cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại cơ
quan Sở Y tế Quảng Nam.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1 Đối tượng nghiên cứu: Là những quan điểm triết học Mác - Lênin về con
nguời và vận dụng quan điểm đó vào nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ,
công chức, viên chức, người lao động tại cơ quan Sở Y tế Quảng Nam
3.2 Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Trong nội dung này chúng ta chỉ nghiên cứu
việc vận dụng quan điểm triết học Mác - Lênin về con người vào nâng cao tinh
thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức, người lao động tại cơ quan
Sở Y tế Quảng Nam.
4. Phương pháp nghiên cứu

Để giải quyết các nhiệm vụ của đề tài tôi đã sử dụng các phương pháp cơ
bản: Dựa trên phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản về bản
chất con ngưòi và xây dựng con người xã hội chủ nghĩa.
Nhóm phương pháp cụ thể:
- Phương pháp lơgíc và lịch sử.

3


- Phương pháp phân tích và tổng hợp.

- Phương pháp so sánh và đối chiếu...
5. Ý nghĩa của tiểu luận
- Đề tài góp phần làm sáng tỏ và khẳng định sự đúng đắn, khoa học của

quan điểm về con người trong triết học Mác - Lênin.
Để làm rõ tính khoa học của quan điểm triết học Mác - Lênin về con người
và vận dụng nó vào nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên
chức, người lao động tại cơ quan Sở Y tế Quảng Nam. Chỉ ra thực trạng việc
nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, cơng chức, viên chức, người lao động
và đóng góp một số giải pháp cơ bản vào nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo
quản lý nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức,
người lao động tại cơ quan Sở Y tế Quảng Nam.
6. Kết cấu tiểu luận

Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, tiểu luận
gồm 3 chương.

4


CHƯƠNG I
MỘT SỐ QUAN ĐIỂM TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN VỀ CON NGƯỜI
1.1 Quan điểm về con người trong lịch sử triết học phương Đông
Trong lịch sử triết học phương Đông, giai đoạn này là một nền kinh tế
chậm phát triển, lạc hậu mà trong đó ln có sự chia rẽ, đối kháng giai cấp, vấn
đề quan hệ giữa con ngưịi với con người ln ln được đặt ra. Ở Trung Quốc
sự phân chia đẳng cấp là hết sức gay gắt, sự áp bức bóc lột của giai cấp chủ nơ
vói nơ lệ, giai cấp phong kiến với nơng dân hết sức nặng nề. Có thể nói đó là
nguồn gốc cơ bảncủa nhiều học thuyết về con người đã thịnh hành ở Trung
Quốc. Nhưng trong khuôn khổ của đề tài này ta chỉ đề cập tói ba học thuyết cơ

bản có ảnh hưởng lớn nhất trong tư tưởng cổ đại cổ đại Việt Nam là “Nho Giáo,
Phật giáo và Đạo giáo”. Các học thuyết này điều đề cập đến mối quan hệ giữa
con người với tự nhiên, giữa con người với con người, giữa con người với xã hội
và các vấn đề nhân sinh...
Trước tiên là Nho giáo: đứng đầu là Khổng Tử (551- 479 TCN) cho rằng:
Trời sinh ra con ngi và vạn vật, khơng có trời thì khơng sinh ra được con
người, con người có mệnh có số đều do trời quy định. Bản chất con người trong
Nho giáo đã được nhiều nhà nho trình bày dưới nhiều quan điểm đa dạng, ví dụ
như: Khổng Tử đề cao tính thiện của con người, theo Khổng tử ngay từ khi con
người sinh ra đã vốn tính thiện (thiện tính) nhưng do q trình tồn tại và phát
triển, nó đã bị ảnh hưởng bởi những thói hư tật xấu trong xã hội do đó tính thiện
của con người dần mất đi trong quá trình phát triển.
Mạnh Tử đề xuất để con người giữ được tính thiện của mình phải trau dồi
đạo đức, từ đó hai ơng khẳng định tầm quan trọng của cách quản lý đất nước
bằng đức trị và lễ trị, cịn Tn Tử thì ngược lại, con người bản tính vốn ác, phải

5


luôn ngăn chặn bằng pháp trị, nhưng quan điểm này được Hàn Phi rất coi trọng.
Thuyết “thiên - nhân hợp nhất” cho rằng, người với trời hịa hợp, có tác động lẫn
nhau. Đây cũng là một quan điểm mang nhiều yếu tố tích cực, thể hiện mối quan
hệ biện chứng giữa con ngưịi với tự nhiên, nhưng cũng vì thế mà con người phải
tuân theo mệnh trời thiếu sự quyết đoán.
Thứ hai là Đạo giáo: Khác với quan điểm của Nho giáo khi nói về nguồn
gốc con người, các nhà sáng lập ra đạo giáo cho rằng “Đạo là nguồn gốc của con
người và vạn vật, đạo là vạn vật chi tông” (nguồn gốc của vạn vật), đạo sinh ra
một, một sinh ra hai, hai sinh ra ba, ba sinh ra vạn vật. Nhưng vấn đề đạo họ đề
cập ở đây là gì? Trang Tử nói “đạo là vơ vi vơ hình” “từ gốc từ rễ, chưa có trời
đất tự cổ đã sinh ra trời, sinh ra đất”. Đã có người tưởng “đạo” có tính vật chất

và cho đạo duy vật. Nhưng thực ra tư tưởng của Đạo giáo là duy tâm, vì Thiên
hạ, vạn vật sinh ra từ hữu, hữu sinh ra từ vơ do đó Đạo giáo mang tính duy tâm
khách quan.
Phật giáo: xuất hiện đầu tiên ở Ấn Độ, Phật giáo lại có quan điểm khác
Đạo giáo không thừa nhận một đấng sáng thế tạo ra con ngưịi, khơng thừa nhận
linh hồn thế giới là linh hồn cụ thể, mà họ cho rằng con người là nguyên nhân
của chính mình, con người của q khứ là ngun nhân của con người hiện tại,
con người hiện tại là nguyên nhân của con người tương lai (thuyết nhân duyên).
Luận điểm này có ý nghĩa tích cực trong việc chống lại chủ nghĩa số mệnh,
nhưng vẫn còn luẩn quẩn trong vịng duy tâm thần bí.Vì vây, nó khơng làm ta
tiếp nhận tri thức khoa học mà khiến người ta chấp nhận tín ngưỡng, dù thế nào
đi nữa thì Phật giáo cũng cho rằng: con người điều do luật nhân quả, do nghiệp
mà ra, sự tồn tại hay diệt vong đều do vong luôn hồi tạo ra. Về bản chất con
người Phật giáo không thừa nhận con người là một thực thể khách quan, vì con

6


người là “vơ thường” (ln ln biến đổi) khơng có dạng ổn định “vơ ngã”
(khơng có bản thân mình) “giả tưởng” (giả tạm không thực). Do vậy quan niệm
của Phật giáo tuy không hư vô như Đạo nhưng cũng không có một cơ sở khoa
học nào, hơn nữa lại đưa con người vào chỗ u tối, mù mịt.
Qua việc tìm hiểu nguồn gốc, bản chất con người phương Đông cổ đại,
chúng ta thấy ba học thuyết trên là sản phẩm của chế độ kinh tế chính trị phương
đơng, tất nhiên khơng phải tồn bộ nội dung đó là tiêu cực. Mà ta vẫn thấy được
nét tích cực của nó: như khích động lịng cao thượng trong con người của đạo
Phật, điều nhân nghĩa của đạo Nho giáo, coi thường phú quý của Đạo giáo.
Chúng đều là sản phẩm của chế độ nơ lệ, phong kiến khơng cịn lí do nào để tồn
tại nữa, nhưng những ảnh hưởng của chúng còn khá dai dẳng và nặng nề.
1.2 Quan điểm về con người trong lịch sử triết học phương Tây

Triết học phương Tây trước Mác đã thể hiện nhiều quan niệm khác nhau
về con người:
Trong đó, phải kể tới triết học Hy Lạp cổ đại: Con người được xem là
điểm khởi đầu của tư duy triết học. Prôtago, một nhà ngụy biện cho rằng “con
người là thước đo của vũ trụ”. Hay quan điểm của Arixtốt về con ngưịi, theo ơng
chỉ có linh hồn, tư duy, trí nhớ, ý chí, năng khiếu nghệ thuật là làm cho con
người nổi bật lên, con người là thang bậc cao nhất của vũ trụ. Khi đề cao nhà
nước thì ơng xem con người là “một động vật chính trị”.
Như vậy, trong triết học Hy Lạp cổ đại bước đầu cũng có sự phân biệt con
ngưịi vói tự nhiên, nhưng chỉ là hiểu biết bên ngồi về tồn tại của con người mà thôi.
Tiếp đến là Triết học Tây Âu thời trung cổ: xem con người là sản phẩm
của Thượng đế sáng tạo ra. Mọi số phận, niềm vui, lỗi buồn, sự may rủi của con

7


người điều do thượng đế sắp đặt. Trí tuệ của con người thấp hơn lý trí anh minh
sáng suốt của Thượng đế.
Triết học thời kì phục hưng và cận đại: đặc biệt đề cao vai trị trí tuệ, lý
tính của con người, xem con người là một thực thể có trí tuệ. Đó là một trong
những yếu tố quan trọng nhằm để giải thốt con ngưịi khỏi những gơng cùm
chặt hẹp, mà chủ thần bí thời trung cổ đã kìm hãm, áp đặt cho con người.
Triết học cổ điển Đức: là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương
Tây và có ảnh hưởng lớn tới triết học hiện đại. Trong đó, lĩnh vực bàn về bản
chất con người được các nhà triết học thòi kỳ này đặc biệt quan tâm nghiên cứu,
cụ thể trong đó phải kể tới các nhà triết học như.
Nhìn chung, các học thuyết thuộc trào lưu triết học nhân bản phi lý tính
cũng như học thuyết khác ở phương Tây hiện đại điều coi những yếu tố về tinh
thần như nhu cầu về bản năng, vơ thức, tri thức, tình cảm,... là bản chất của con
người. Con người thường được tuyệt đối hóa về mặt cá nhân. Đó là những tiền

đề có ý nghĩa cho việc hình thành tư tưởng về con người của triết học Mácxít.
1.3 Quan điểm triết học Mác - Lênin về con người
Chủ nghĩa Mác - Lênin đã kế thừa mặt tích cực và khắc phục những mặt
hạn chế, đồng thời phát triển những quan niệm về con người đã có trong những
học thuyết trước đây, để đi tới con người hiện thực, con ngưòi vừa là sản phẩm
tự nhiên và xã hội. Hay nói cách khác chủ nghĩa Mác - Lênin xem xét con người
như một thực thể xã hội, bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.
Thứ nhất, con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh học với xã hội.
Triết học Mác-Lênin đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết
học, đồng thòi khẳng định con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố sinh
học và yếu tố xã hội. Tiền đề vật chất đầu tiên quy sự tồn tại của con người là sản

8


phẩm của giói tự nhiên. Con người tự nhiên là con người mang tất cả bản tính
sinh học, tính lồi. Yếu tố sinh học trong con người là điều kiện đầu tiên quy
định sự tồn tại của con ngưịi. Vì vậy giới tự nhiên là “thân thể vô cơ của con
người”. Con người là một bộ phận của tự nhiên.
Là động vật cấp cao nhất, tinh hoa của mn lồi, con người là sản phẩm
của quá trình phát triển hết sức lâu dài của thế giới tự nhiên. Con người phải tìm
kiếm mọi điều kiện càn thiết cho sự tồn tại trong đòi sống tự nhiên như thức ăn,
nước uống, hang động để ở. Đó là q trình con nguời đấu tranh với tự nhiên.
Con người phải thay đổi từ vượn thành người, điều đó đã được chứng minh trong
các cơng trình nghiên cứu của Đácuyn. Các giai đoạn mà mang tính sinh hoạt mà
con người trải qua từ sinh thành, phát triển đến mất đi quy định bản tính sinh học
trong đời sống con người. Như vậy, con người trước hết là một tồn tại sinh vật,
biểu hiện trong những cá nhân con người, là tổ chức cơ thể của con người và mối
quan hệ của nó đối với tự nhiên, Những thuộc tính những đặc điểm sinh học, quá
trình tâm - sinh lý, các giai đoạn phát triển khác nhau nói lên bản chất sinh học

của cá nhân con ngưịi.
Tuy nhiên, mặt tự nhiên khơng phải là yếu tố duy nhất quy định bản chất
con người. Đặc trưng quy định bản chất con người với thế giới loài vật là mặt xã
hội. Trong lịch sử đã có những quan niệm lịch sử khác nhau phân biệt con người
với lồi vật, như con người là sử dụng cơng cụ lao động, là “một động vật có tính
xã hội” hoặc con người động vật có tư duy ... Nhưng những quan niệm trên điều
phiến diện chỉ vì nhấn mạnh một khía cạnh nào đó trong bản chất xã hội của con
người mà chưa nêu lên được nguồn gốc của bản chất xã hội ấy.
Với phưomg pháp biện chứng duy vật, Triết học Mác-Lênin nhận thức vấn
đề con ngưòi một cách tồn diện cụ thể, trong tồn bộ tính hiện thực xã hội của

9


nó, mà trước hết là vấn đề lao động sản xuất ra của cải vật chất. Mác và Ăngghen
đã nêu lên vai trò của lao động sản xuất ở con người. “Có thể phân biệt con
người với súc vật, bằng ý thức, bằng tơng giáo... Bản thân con ngưịi bắt đầu từ
sự phân biệt với súc vật ngay từ khi con người bắt đầu sản xuất ra những tư liệu
sinh hoạt của mình - đó là một bước tiến lớn do tổ chức của con người quy định.
Sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt của mình, như thế con người đã gián tiếp sản
xuất ra chính đời sống vật chất của mình” [9, tr.469].
Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con người đã làm thay đổi, cải
biến toàn bộ giới tự nhiên “Con vật chỉ tái sản xuất ra bản thân nó, cịn con ngưịi
tái sản xuất ra tồn bộ giới tự nhiên” [9, tr.469].
Tính xã hội của con người được biểu hiện trong toàn bộ hoạt động sản
xuất vật chất, hoạt động sản xuất vật chất biểu hiện một cách căn bản tính xã hội
của con người.Thơng qua hoạt động sản xuất vật chất, con người sản xuất ra của
cải vật chất và tinh thần, phục vụ địi sống của mình, hình thành và phát triển
ngơn ngữ và tư duy, xác lập quan hệ xã hội. Bởi vậy, lao động là yếu tố quyết
định sự hình thành bản chất xã hội của con người, đồng thịi hình thành nhân

cách cá nhân trong cộng đồng xã hội.
Con người là sản phẩm của tự nhiên và xã hội nên q trình hình thành và
phát triển của con người ln luôn bị quyết định bởi ba hệ thống quy luật khác
nhau, nhưng lại thống nhất vói nhau. Hệ thống các quy luật tự nhiên như quy luật
về sự phù họp với môi trường, quy luật về sự trao đổi chất, về di truyền, biến dị,
tiến hóa... quy định phương diện sinh học của con người. Hệ thống các quy luật
tâm lý ý thức hình thành và vận động trên nền tảng sinh học của con người như
hình thành tình cảm, khát vọng, niềm tin, ý chí. Hệ thống các quy luật xã hội quy
định quan hệ xã hội giữa con người với con người.

10


Ba hệ thống quy luật trên cùng tác động, tạo nên thể thống nhất hoàn chỉnh
trong đời sống con người bao gồm cả mặt sinh học và xã hội. Mối quan hệ sinh
học và xã hội là cơ sở để hình thành nên hệ thống các nhu cầu sinh học và nhu cầu
xã hội trong đời sống con người như nhu cầu ăn, mặc, ở; nhu cầu tái sản xuất xã
hội, nhu cầu tình cảm, nhu cầu thẩm mỹ và hưởng thụ các giá trị tinh thần.
Với phương pháp luận duy vật biên chứng, chúng ta thấy rằng quan hệ
giữa mặt sinh học và mặt xã hội, cũng như nhu cầu sinh hoạt và nhu cầu xã hội
trong mỗi con ngưòi thống nhất. Mặt sinh học là cơ sở tất yếu tự nhiên của con
ngưòi, còn mặt xã hội là đặc trưng bản chất để phân biệt con người với lồi vật.
Nhu cầu sinh học phải được “nhân hóa” để mang giá trị văn minh con người và
đến lượt nó, nhu cầu xã hội khơng thể thốt ly khỏi tiền đề của nhu cầu sinh học.
Hai mặt trên thống nhất với nhau, hòa quyện vào nhau để tạo thành con người,
con người tự nhiên - xã hội.
Thứ hai, trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa các
mối quan hệ xã hội.
Từ những quan niệm đã trình bày ở trên, chúng ta thấy rằng, con người
vượt lên thế giói lồi vật, trên cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự

nhiên, quan hệ với xã hội và quan hệ với chính bản thân con ngưịi. Cả ba mối
quan hệ đó, suy cho cùng, đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ giữa con
người với con người là quan hệ bản chất bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và
mọi hoạt động trong chừng mực liên quan đến con người.
Bởi vậy, trong tác phẩm Luận cương về Phoiơbẳc, C.Mác đã phê phán một
cách vắn tắt những quan điểm đó và xác lập quan niệm mới của mình: “Bản chất
con người khơng phải là một cái trừu tượng cố hữucủa cá nhân riêng biệt. Trong

11


tính hiện thực của nó, bản chất con ngưịi là tổng hòa những mối quan hệ xã hội” [9,
tr.471].
Luận đề trên khẳng định rằng, khơng có con ngưịi trừu tượng, thốt ly
mọi điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người luôn cụ thể, xác định, sống
trong một điều kiện lịch sử nhất định, một thời đại nhất định.Trong điều kiện lịch
sử đó, bằng hoạt động thực tiễn của mình, con người đã tạo ra những giá trị vật
chất và tinh thần để tồn tại và phát triển cả về thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong
tồn bộ mối quan hệ xã hội đó (như quan hệ giai cấp, dân tộc, thời đại, quan hệ
chính trị, kinh tế, quan hệ cá nhân, gia đình, xã hội...) con người mới bộc lộ toàn
bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa
là phủ nhận cái mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn
nhấn mạnh sự phân biệt giữa con người với thế giới động vật trước hết là ở bản
chất xã hội và đấy cũng là sự khắc phục thiếu sót của các nhà triết học trước Mác
khơng thấy được bản chất xã hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý
nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính quy luật chứ khơng thể là cái duy nhất; do
đó cần phải thấy được cái biểu hiện riêng biệt, phong phú và đa dạngcủa mỗi cá
nhân về cả phong cách và lợi ích trong cộng đồng xã hội.
Thứ ba, con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử

Khơng có thế giói tự nhiên, khơng có lịch sử xã hội thì khơng tồn tại con
ngưịi. Bởi vậy, con ngưòi là sản phẩm của lịch sử, của sự tiến hóa lâu dài của
giới hữu sinh. Song, điều quan trọng hơn cả là, con người luôn luôn là chủ thể
của lịch sử - xã hội. C.Mác đã khẳng định: “Cái học thuyết duy vật chủ nghĩa
cho rằng con người là sản phẩm của những hoàn cảnh và giáo dục... cái học
thuyết ấy quên rằng chính con người làm thay đổi hoàn cảnh và bản thân nhà

12


giáo dục cíăng cần phải được giáo dục” [9, tr.472]. Trong tác phẩm Biện chứng
của tự nhiên, Ph. Ăng ghen cũng cho rằng: “Trong các vật của giới tự nhiên, con
người ln ln phát hiện ra những đặc tính mới mà từ trước tới nay chưa ai biết
đến” [1, tr. 304]. Hay Ăngghen cịn nói “lồi vật chỉ lợi dụng giới tự nhiên bên
ngoài và gây ra những biến đổi trong giới tự nhiên, chỉ đon thuần do sự có mặt
của nó thơi. Cịn con người thì do tạo ra những biến đổi đó, mà bắt giói tự nhiên
phải phục vụ những mục đích của mình, mà thống trị giới tự nhiên” [1, tr. 317].
Như vậy với tư cách là thực thể xã hội, con ngưòi hoạt động thực tiễn, tác
động vào tự nhiên, cải biến giói tự nhiên, đồng thời thúc đẩy sự vận động phát
triển của lịch sử xã hội. Thế giới lồi vật thì dựa vào những điều kiện sẵn có của
tự nhiên. Con người thì trái lại, thơng qua các hoạt động thực tiễn của mình để
làm phong phú thêm thế giới tự nhiên, tái tạo lại một tự nhiên thứ hai theo mục
đích của mình.
Trong quá trình cải biến tự nhiên, con người cũng làm ra lịch sử của mình.
Con ngưịi là sản phẩm của lịch sử, đồng thời cũng là chủ thể sáng tạo ra lịch sử
của chính bản thân con người. Hoạt động lao động sản xuất vừa là điều kiện cho
sự tồn tại của con người đồng thời vừa làm phưomg thức biến đổi đời sống và bộ
mặt xã hội. Trên cơ sở lắm bắt quy luật lịch sử xã hội, con ngưịi thơng qua các
hoạt động vật chất và tinh thần, thúc đẩy xã hội phát triển từ thấp đến cao, phù
hợp với mục tiêu và nhu cầu do con người đặt ra. Khơng có hoạt động của con

người thì khơng tồn tại quy luật xã hội, và do đó, khơng có sự tồn tại của tồn bộ
lịch sử xã hội lồi ngưịi.
Khơng có con người trừu tượng, chỉ có con người cụ thể trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định của xã hội. Do vậy, bản chất con người, trong mối quan
hệ với điều kiện lịch sử xã hội luôn vận động biến đổi, cũng phải thay đổi cho phù

13


họp. Bản chất con người khơng phải hệ thống đóng kín, mà là hệ thống mở, tương
ứng với điều kiện tồn tại của con người. Mặc dù là “tổng hòa các mối quan hệ xã
hội”, con người có vai trị tích cực trong tiến trình lịch sử với tư cách là chủ thể
sáng tạo. Thơng qua đó, bản chất con người cũng vận động biến đổi cho phù họp.
Có thể phù họp, mỗi sự vận động và tiến lên của lịch sẽ quy định tương ứng (mặc
dù không trùng khắp) với sự vận động và biến đổi của bản chất con người.
Vì vậy, để phát triển bản chất con người theo hướng tích cực, cần phải làm
cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh đó chính là
tồn bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con ngưòi theo khuynh
hướng phát triển nhằm đạt tói các giá trị có mục đích, tự giác, có ý nghĩa định
nghĩa giáo dục. Thơng qua đó, con người tiếp nhận hồn cảnh một cách tích và
tác động trở lại hoàn cảnh trên nhiều phương diện khác nhau: hoạt động thực
tiễn, quan hệ ứng xử, hành vi con người, sự phát triển của phẩm chất trí tuệ và
năng lực tư duy, các quy luật nhận thức hướng con người tới hoạt động vật chất.
Đó là biện chứng của mối quan hệ giữa con người với con người và hoàn cảnh
trong bất kì giai đoạn nào của lịch sử xã hội loài người.

14


CHƯƠNG II

THỰC TRẠNG VIỆC NÂNG CAO TINH THẦN TRÁCH NHIỆM
CỦA CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG
TẠI CƠ QUAN SỞ Y TẾ QUẢNG NAM
2.1 Tinh thần yêu nước, lòng tự hào dân tộc
Trước hết càn khẳng định, yêu nước và lịng tự hào dân tộc khơng chỉ có
riêng ở dân tộc Việt Nam, mà nó cịn là thuộc tính phổ biến ở mọi quốc gia, dân
tộc trên thế giới. Tuy nhiên ở Việt Nam, do lịch sử và những điều kiện của mình,
tinh thần u nước, lịng tự hào dân tộc đã trở thành sức mạnh, là động lực và
hơn nữa, nó được kết tinh thành truyền thống, triết lý phát triển của dân tộc.
Lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc đã tạo nên chủ
nghĩa yêu nước Việt Nam. Đối với Việt Nam, truyền thống u nước khơng chỉ
là tình cảm tự nhiên, mà nó cịn là sản phẩm hun đúc từ chính lịch sử đau thương
mà hào hùng của dân tộc Việt Nam. Lịch sử mấy nghìn năm của dân tộc Việt
Nam là lịch sử đấu tranh dụng nước và giữ nước, bảo vệ nền động lập tự chủ từ
bao kẻ xâm lược. Chính vì vậy mà tinh thần u nước đã ngấm sâu vào tình cảm,
tư tưởng của mỗi người dân Việt Nam qua tất cả các thời đại, làm nên một sức
mạnh kỳ diệu đánh thắng mọi kẻ thù của dân tộc. Điều này đã được Hồ Chí
Minh tổng kết trong Báo cáo Chính trị đọc tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
II của Đảng, tháng 2 năm 1951: Dân tộc ta có một lịng lồng nàn yêu nước. Đó là
một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng
thì tỉnh thần ấy lại sơi nổi, nó kết thành một nàn sóng vơ cùng mạnh mẽ, to lớn,
nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khổ khăn, nó nhấn chìm tất cả bè lũ bán nước và
lũ cướp nước. Chúng ta có quyền tự hào về trang sử vẻ vang thời đại Bà Trưng,

15


Bà Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung... chúng ta phải ghi nhớ công
lao của các vị anh hùng dân tộc, vì các vị ấy tiêu biểu cho một dân tộc anh hùng.
Tinh thần ấy không chỉ được thể hiện qua lịch sử đấu tranh dựng nước và

giữ nước mà nó cịn được thể hiện qua việc xây dựng và phát triển đất nước sánh
vai với các nước trên thế giới. Sau khi danh được độc lập dưới sự lãnh đạo và chỉ
dẫn của Hồ Chí Minh, nhân dân ta tiếp tục khắc phục lại hậu quả của chiến hanh,
xây dựng và bảo vệ tổ quốc, tiếp tục sự nghiệp đi lên xây dựng CNXH. Qua đó
thì con người Việt Nam giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa q báu của
dân tộc mình, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
2.2 Lịng nhân ái của người cán bộ, công chức, viên chức, người lao động
Nhân ái là tình cảm đạo đức khơng phải của riêng một dân tộc nào, đất
nước nào. Tuy vậy, không phải mọi người đều có lịng nhân ái giống nhau. Bởi
lẽ, tình cảm đó nảy sinh trên những cơ sở, điều kiện, mơi trường xã hội và hồn
cảnh lịch sử khác nhau.
Lịng nhân ái của dân tộc Việt Nam có nguồn gốc sâu xa từ trong xã hội
công xã nông thôn thời kỳ nguyên thuỷ, buổi đầu dựng nước. Chứng ta đều biết,
dân tộc Việt Nam có lịch sử ngàn năm dụng nước và giữ nước, nhà nước Văn
Lang tồn tại lâu dài hàng nghìn năm. Trong thời gian dài như vậy, dân tộc Văn
Lang đã hình thành nền văn hố mang bản sắc riêng của mình; trong đó, lịng
nhân ái là một tình cảm đạo đức lớn, có nét đẹp riêng, như là một giá trị văn hoá
rất cơ bản trong hệ giá trị của người Việt Nam.
Ở con ngưòi Việt Nam, đặc biệt là đội ngũ cán bộ công chức, viên chức,
người lao động ngành y tế hiện nay, chúng ta vẫn thấy một tấm lòng nhân ái bao
la. Đó chính là sự u thương con người, rơi nước mắt, chia sẻ đùm bọc với
những hồn cảnh khó khăn, bất hạnh. Chung vui với những ngưịi có được hạnh

16


phúc và may mắn. Tất cả vẫn luôn tâm niệm “thương người như thể thương
thân”, “một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”, “lá lành đùm lá rách”. Các tình cảm
thiêng liêng như: tình ruột thịt, tình vợ chồng, tình anh em, tình đồng chí ln có
một vị trí đặc biệt trong mỗi con người, người cán bộ y tế thì tình cảm đó cịn cả

những người bệnh nhân.
2.3 Lịng trung thực của người cán bộ công chức, viên chức, người lao
động
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm “trung thực” là sống phải thật thà, trung
thực, thẳng thắn, nghĩa tình; trung thực là nói phải đi đơi với làm. Cán bộ, đảng
viên trung thực trước hết là phải trung với nước, trung với Đảng, với cách mạng,
phải trung thực trong thực hiện đường lối cách mạng của Đảng; trung thực với
nếp sống của mình, thống nhất trong lời nói và việc làm; phải nghiêm túc với
chính mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “trách nhiệm” là bổn phận phải làm của
mỗi ngưịi, mà trách nhiệm này là khơng thể thối thác. Mỗi người phải tự xác
định trách nhiệm mình phải làm. Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định trách nhiệm
đầu tiên là trách nhiệm vói Tổ quốc; thứ đến là mỗi người đều có trách nhiệm
với gia đình, với q hương; trách nhiệm vói nhân dân, cộng đồng dân tộc; đối
vói cán bộ, đảng viên, cơng chức có trách nhiệm đối với Đảng, với Chính phủ.
Việc học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
“trung thực”, “trách nhiệm” có ý nghĩa thực tiễn trước mắt và lâu dài. Mỗi
người, nhất là cán bộ, đảng viên, đồn viên, hội viên cần xây dựng cho mình lối
sống trung thực, trách nhiệm. Phải thật sự trung thực, trách nhiệm với chính
mình, với gia đình, người thân, với bạn bè, đồng chí, với Tổ quốc và nhân dân.
Khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối mình, dối người, dối Đảng,
dối dân. Trung thực phải đi liền với trách nhiệm. Đã trung thực với chính mình

17


thì khơng bao giờ từ bỏ trách nhiệm của mình. Neu như mỗi người đều xây dựng
được lối sống trung thực và trách nhiệm sẽ góp phần khắc phục suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội; tạo ra sự chuyển biến
về tình cảm và nhân cách: tôn trọng chân lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng
sự thật, lẽ phải; sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm nhận lỗi khi mình mắc

khuyết điểm, tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê bình, cầu thị,
sửa chữa khuyết điểm. Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về
“trung thực”, “trách nhiệm” là nỗ lực hành động vì chân lý, vì sự tiến bộ, vì mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Trong đội ngũ cán bộ công chức, viên chức hiện nay đức tính trung thực là
rất cần thiết cho mọi người, nó là một trong những đức tính đáng q mà mọi
người đều cần phải có, để hồn thiện chính mình và trở thành người cơng dân
tốt. Đức tính trung thực là hết lịng vói mọi người, là thật thà, ngay thẳng. Người
có đức tính trung thực là người ln nói đúng sự thật, không làm sai lệch sự thật,
ngay thẳng thật thà, là người luôn được mọi người tin tưởng. Những con người
mang trong mình hoặc đang rèn luyện đức tính trung thực thì những người đó sẽ
dần hồn thiện nhân cách của họ, sẽ được mọi ngưòi yêu mến và tơn trọng. Nếu
rèn luyện đức tính trung thực, chúng ta sẽ thành đạt trong cuộc sống, chúng ta có
vốn tri thức để làm giàu một cách chân chính và nếu chúng mắc sai lầm mà biết
sửa chữa được nó hồn thiện được mình trở thành những cơng dân tốt, có ích cho
xã hội. Như vậy chúng ta sẽ trở lên trong sạch, văn minh và tốt đẹp, khiến đất
nước ngày càng đi lên và phát triển đến tầm cao.
2.4 Tinh thần trách nhiệm của người cán bộ, công chức, viên chức Sở
Y tế Quảng Nam
Trong mỗi con người nói chung và người cán bộ cơng chức, viên chức nói

18


riêng ý thức trách nhiệm, tinh thần trách nhiệm càng cao càng chứng tỏ sự
trưởng thành thật sự về con người về nhân cách. Hơn nữa chính nhờ sự trưởng
thành, định hình về tinh thần trách nhiệm, về đạo đức và nhân cách mà ta có thể
tự tin về sự thành cơng trong cơng việc, trong sự nghiệp dù khó khăn gian khó
như thế nào.
Là người cán bộ cơng chức, viên chức làm việc tại Sở Y tế Quảng Nam thì

tinh thần trách nhiệm càng nặng hơn nhiều, đặc biệt là trong thời điểm hiện nay
khi mà dịch bệnh Covid-19 đang diễn ra trên tất cả mọi miền đất nước thì ý thức
trách nhiệm, tinh thần trách nhiệm mang trên vai mỗi người càng nặng thêm.
Những khoảng thời gian gọi là đỉnh điểm của dịch bệnh bùng phát thì những con
người là lãnh đạo, cán bộ công chức, viên chức, người lao động ngành y tế tập
trung cao độ cho chống dịch Covid-19, trắng đêm bàn các giải pháp khoanh
vùng, truy vết, dập dịch…Những người ở tuyến đầu đã khẩn cấp lên đường
không ngại hiểm nguy, để lại sau lưng cha mẹ già, con nhỏ để tập trung tình
nguyện lao vào vùng dịch để chống dịch. Ở các địa phương từ người già đến trẻ
nhỏ, từ cán bộ, công nhân, viên chức đến người lao động…người góp tiền, kẻ
góp gạo, người thì mì tơm, rau xanh, thịt, cá…người vận chuyển, người nấu
ăn….tất cả đều hướng về những khu cách ly, những bệnh viện... Đó là tình u
q hương, là tinh thần chống dịch và cũng là tinh thần trách nhiệm xã hội mà
của mỗi con người và đặc biệt là tinh thần trách nhiệm cao của những người
nhân viên y tế.
Ngồi ra, người cán bộ cơng chức, viên chức làm việc trong ngành y tế từ
xưa đến nay làm việc bất cứ ở bộ phận nào, lĩnh vực nào cũng đều phải có tinh
thần trách nhiệm cao, có đạo đức nghề nghiệp, chuyên môn giỏi để nâng cao chất
lượng khám chữa bệnh cho người dân và người bệnh cũng yên tâm giao phó tính

19


mạng, sức khỏe cho đội ngũ cán bộ công chức, viên chức y tế. Như triết học
Mác-Lênin nhận thức vấn đề con người một cách toàn diện cụ thể, trong tồn bộ
tính hiện thực xã hội của nó, con người phải phát triển và thể hiện một cách toàn
diện tinh thần trách nhiệm, trọng trách được giao phó thì mới phát huy ở mọi
lĩnh vực và trưởng thành về nhân cách.
Chúng ta thấy rằng ngồi những người cán bộ cơng chức, viên chức vơ
cùng trách nhiệm thì ở đâu đó trong thời điểm cả nước chống dịch lại xuất hiện

những con người chủ quan, thậm chí thiếu trách nhiệm, lơ là và thậm chí là cơ
hội…chốt kiểm dịch bng bỏ, kiểm sốt, quản lý cơng dân từ vùng dịch về lỏng
lẻo hoặc công dân thiếu trách nhiệm xã hội mà dẫn đến không khai báo y tế hoặc
khai báo thiếu trung thực, cơ quan chức năng không kiểm chứng lời khai của
công dân… Và cái kết của sự chủ quan hay thiếu trách nhiệm của ai đó đã mở lối
cho dịch bùng phát, rồi lan rộng đã làm tốn biết bao nhiêu tiền của, cơng sức của
nhà nước và tính mạng của hàng vạn người dân đã ra đi vì dịch bệnh. Nói như
vậy để thấy được tinh thần trách nhiệm của người cán bộ công chức, viên chức,
người lao động công tác trong lĩnh vực y tế là hết sức quan trọng và đó là tinh
thần ln ln cần phải có trong mỗi người cán bộ cơng chức, viên chức.
Tóm lại, con người trưởng thành khơng chỉ về thể xác, hay về trình độ
nhận thức, học vấn mà quan trọng hơn là trưởng thành về nhân cách, nhất là về ý
thức trách nhiệm, tinh thần trách nhiệm. Ý thức trách nhiệm, tinh thần trách
nhiệm của cán bộ công chức, viên chức, người lao động càng cao càng chứng tỏ
sự trưởng thành thật sự về con người, về nhân cách. Hơn nữa chính nhờ sự
trưởng thành, định hình về tinh thần trách nhiệm, về đạo đức và nhân cách mà ta
có thể tự tin về sự thành cơng trong cơng việc, trong sự nghiệp dù khó khăn gian
khó như thế nào.

20


CHƯƠNG III
GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC LÃNH ĐẠO
QUẢN LÝ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC, VIÊN CHỨC, NGƯỜI LAO ĐỘNG
TẠI CƠ QUAN SỞ Y TẾ QUẢNG NAM.
3.1 Tăng cường giáo dục tinh thần trách nhiệm cho cán bộ, công chức
Giáo dục là vấn đề có ý nghĩa quyết định, bởi lẽ, mọi cơng việc được tiến
hành có sn sẻ hay khơng, có chất lượng hay khơng hồn tồn phụ thuộc vào ý
thức của người trực tiếp tiền hành. Trong mọi hoạt động của con người, cái định

hướng, chi phối hành động, tạo ra hiệu quả của hành động đều bắt nguồn từ
nhận thức. C.Mác cho rằng, cái gì thúc đẩy con người hoạt động đều phải
thơng qua đầu óc con người. Đối với mỗi người, nhận thức đúng là cơ sở xây
dựng tư tưởng, tình cảm và ý chí quyết tâm cao, hạn chế được những sai lầm
khuyết điểm trong hành động. Đối với cả đội ngũ và các tổ chức, nhận thức
đúng là cơ sở để thống nhất tư tưởng và hành động. Thực tiễn cho thấy, những
ưu điểm, khuyết điểm của công tác xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đều
gắn liền với những ưu điểm, hạn chế về nhận thức và trách nhiệm của của các
tổ chức, lực lượng liên quan, trước hết là cấp uỷ, cán bộ chủ trì các cấp. Chính
vì vậy. Tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam về cán bộ, công tác cán bộ; Luật cán bộ Công chức cho các đối
tượng, lực lượng là nhằm nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp uỷ,
chính quyền, các cơ quan chức năng và đội ngũ cán bộ, công chức.
Trước hết, cần làm cho cán bộ, công chức nhận thức một cách sâu sắc
rằng, Đảng ta là Đảng cầm quyền; việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa và toàn bộ hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là để nhân
dân thực hiện quyền làm chủ của mình trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại

21


hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cần
làm cho cán bộ, công chức quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về thái độ,
trách nhiệm của Đảng, Chính phủ nói chung và của người cán bộ cách mạng nói
riêng đối với nhân dân. Đặc biệt, cần chú ý đến tư tưởng sau đây của Người:
Ngồi lợi ích của nhân dân, Đảng ta khơng có lợi ích nào khác. Đảng và Chính
phủ phải có trách nhiệm đối với nhân dân. Nếu để nhân dân đói, rét, khơng được
học hành là Đảng và Chính phủ có lỗi. Đảng và Chính phủ là "cơng bộc" của
nhân dân; cán bộ của Đảng, của Nhà nước cũng là "công bộc" của nhân dân.

Tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, công chức trước hết là trách nhiệm đối
với nhân dân. Trách nhiệm đối với nhân dân cũng là trách nhiệm của Đảng và
Chính phủ. Mỗi cán bộ, cơng chức trong bộ máy cơng quyền phải thật thấu hiểu
mình là "cơng bộc" của nhân dân chứ không phải là những "ông quan cách
mệnh" ăn trên, ngồi trốc, đè đầu cỡi cổ nhân dân như bọn quan lại phong kiến,
thực dân. Nếu Đảng, Nhà nước làm tốt việc giáo dục tinh thần trách nhiệm và
xây dựng chế độ trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức để mỗi cán bộ, công
chức không ngừng rèn luyện và nâng cao tinh thần trách nhiệm của mình trong
thực thi cơng vụ, sẽ tạo nên một động lực mạnh mẽ thúc đẩy việc thực hiện
chương trình cải cách hành chính nhà nước đi đến thắng lợi.
Trong giai đoạn hiện nay, mỗi cán bộ, công chức, đảng viên cần tiếp tục
nghiên cứu và thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII
về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, Quy định số 47-QĐ/TW của Ban
Chấp hành Trung ương khóa XI về những điều đảng viên không được làm, Quy
định số 101-QĐ/TW của Ban Bí thư khóa XI về trách nhiệm nêu gương của cán
bộ, đảng viên, Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học

22


tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Quy định số 55QĐ/TW của Bộ Chính trị khóa XII về một số việc cần làm ngay để tăng cường
vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức trong việc thực
hiện chức trách, nhiệm vụ được giao.
3.2 Đẩy mạnh việc tự phê bình và phê bình trong tất cả các cơ quan
hành chính các cấp
Cần làm rõ mỗi cán bộ, cơng chức có hồn thành nhiệm vụ được giao hay
khơng. Trên cơ sở đó, xem xét, đánh giá tinh thần trách nhiệm của họ và có thái
độ xử lý thỏa đáng đối với những người thiếu tinh thần trách nhiệm. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề này. Người viết: "Hiện nay,
phong trào tự phê bình và phê bình đang mở rộng ở nhiều nơi. Đó là một bước

tiến đáng mừng. Nhưng trong những cuộc kiểm thảo, có một thiếu sót chung và
quan trọng là chưa nêu thật rõ tinh thần trách nhiệm" .
Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức phải chủ động nêu cao ý thức trách
nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, công việc, phần việc được giao. Phải tự sốt
xét, kiểm tra, kiểm sốt lại cơng việc đã thực hiện đến đâu, với mức độ, kết quả
như thế nào, có kết quả, sáng kiến gì để phát huy; những gì chưa làm được hay
làm với kết quả chưa như mong muốn cần điều chỉnh; đề ra biện pháp khắc phục
sửa chữa thiếu sót, hạn chế, khuyết điểm; đề xuất những vấn đề với lãnh đạo cơ
quan, đơn vị, chi bộ để có biện pháp giúp đỡ, tháo gỡ hoặc tạo điều kiện để thực
hiện tốt nhiệm vụ, công việc được giao. Tiếp thu ý kiến của đồng chí, đồng
nghiệp, của lãnh đạo cơ quan, đơn vị, tổ chức đảng, chi ủy... để phát huy mặt
mạnh; khắc phục, sửa chữa, điều chỉnh mặt yếu còn tồn tại.
Suy cho cùng, chỉ có việc tự phê bình và phê bình mới giúp cho mỗi con
người, mỗi tập thể ngày càng được hoàn thiện hơn, tốt hơn. Đồng thời, tránh việc

23


thực hiện tự phê bình và phê bình mang tính hình thức trong các cơ quan hành
chính hiện nay, nhất là việc thấy đúng không bảo vệ, thấy sai không đấu tranh,
tất cả những việc làm đó sẽ ngày càng đẩy cơng việc thêm trì trệ.
3.3 xây dựng chế độ trách nhiệm cá nhân của cán bộ, công chức, nhất
là đối với người đứng đầu cơ quan, đơn vị
Đây là giải pháp căn bản, cốt lõi, mang tính nội sinh. Vì vậy, mỗi cán bộ,
cơng chức cần được giao chức trách, nhiệm vụ rõ ràng, cụ thể với những quyền
hạn nhất định. Trên cơ sở đó, thường xuyên tiến hành kiểm tra việc làm của họ.
Nếu họ khơng hồn thành nhiệm vụ thì nghĩa là họ đã thiếu tinh thần trách
nhiệm, chứ khơng phải là thiếu trách nhiệm vì trách nhiệm đã được giao rõ ràng,
cụ thể.
Trong cơ quan Sở Y tế, cần thực hiện chế độ thủ trưởng, nghĩa là cần xây

dựng chế độ trách nhiệm cá nhân của người đứng đầu. Thủ trưởng hay người
đứng đầu cơ quan, đơn vị chẳng những chịu trách nhiệm về những sai lầm,
khuyết điểm của bản thân mà còn phải chịu trách nhiệm về những sai lầm,
khuyết điểm của những cán bộ dưới quyền trong khi thi hành nhiệm vụ. V.I. Lênin nói rất đúng rằng: "Một người lãnh đạo chính trị khơng những phải chịu
trách nhiệm về cách mình lãnh đạo, mà còn phải chịu trách nhiệm về hành động
của những người dưới quyền mình nữa. Đơi khi người lãnh đạo khơng biết
những hành động đó, thường là khơng muốn cho những hành động đó xảy ra,
nhưng vẫn phải chịu trách nhiệm về những hành động đó". Điều đó làm cho
người thủ trưởng phải đi sâu, đi sát, kiểm tra thường xuyên công việc của cán bộ,
công chức dưới quyền; kịp thời phát hiện và xử lý những sai lầm, thiếu sót của
họ, khơng để cho tình trạng bê bối, tiêu cực xảy ra trong đơn vị mình mà thủ
trưởng khơng hay biết.

24


Cùng với đó, để nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện chức
trách, nhiệm vụ được giao thì mỗi cán bộ, cơng chức cần chịu khó, tích cực,
hăng hái; nêu cao tính chủ động, sáng tạo, hết lịng, hết sức hồn thành cơng
việc, nhiệm vụ được giao, gương mẫu trong cơng tác, ứng xử, hoạt động. Tự
mình phải chủ động, tích cực, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ, cơng việc có
chương trình, kế hoạch, khoa học, ngăn nắp, nền nếp, giải quyết cơng việc có kết
quả cao nhất, không để chậm trễ, tồn đọng. Trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ
được giao, dù đơn giản, hay phức tạp, dù nhiều hay ít cũng phải tuân thủ nghiêm
ngặt quy chế, chế độ, quy trình, thủ tục, khơng làm tắt, làm trái quy định, khơng
có động cơ cá nhân trong cơng việc. Tuy nhiên, cũng khơng nên cứng nhắc, máy
móc, phải linh hoạt, sáng tạo, không ngừng cải tiến, đổi mới để hồn thành cơng
việc một cách tốt nhất.
Phải có tính tự trọng cao. Vì có tự trọng thì mới nêu cao ý thức trách
nhiệm, làm việc với tinh thần, thái độ cơng tâm, khách quan, vì lợi ích chung của

cơ quan, đơn vị, tập thể và nhân dân. Có tự trọng thì làm cơng việc một cách
trong sáng, khơng vì lợi ích của bản thân, của gia đình, hay lợi ích nhóm, lợi ích
cục bộ. Có tự trọng thì khi thực hiện công việc không để người khác, cấp trên
phải đơn đốc, nhắc nhở, phê bình, góp ý, được tổ chức, đồng chí, đồng nghiệp tin
yêu, tín nhiệm, giúp đỡ để hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao.
Phải biết tự xử với chính bản thân mình trong mọi việc. Khi mắc phải
thiếu sót, khuyết điểm phải tự giác nhận trách nhiệm cá nhân, xác định rõ nguyên
nhân do đâu mà mắc phải để có biện pháp sửa chữa, khắc phục, phấn đấu vươn
lên; không tranh công, đổ lỗi cho khách quan, cho người khác.
Phải có sự tự tin trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Vì khi có
tự tin thì mới chủ động, tự giác, năng động, sáng tạo thực hiện nhiệm vụ được

25


×