Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Hãy bình luận về nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong tố tụng hành chính theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính năm 2015? Qua đó, hãy phân tích làm rõ chủ thể đóng vai trò quyết định trong thực hiện nghĩa vụ chứng minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (970.78 KB, 20 trang )

----------

MƠN: LUẬT TỐ TỤNG HÀNH CHÍNH
Đề tài: Hãy

bình luận về nghĩa vụ chứng minh của các

chủ thể trong tố tụng hành chính theo quy định tại
Luật Tố tụng hành chính năm 2015? Qua đó, hãy
phân tích làm rõ chủ thể đóng vai trị quyết định
trong thực hiện nghĩa vụ chứng minh

Hà Nội – 2021


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU ..................................................................................................... 1
B. NỘI DUNG ................................................................................................. 2
I. Khái quát chung về chứng minh trong tố tụng hành chính ................. 2
1. Khái niệm chứng minh trong tố tụng hành chính .................................... 2
2. Ý nghĩa của hoạt động chứng minh ........................................................ 2
3. Đối tượng chứng minh............................................................................ 3
II. Bình luận về nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong tố tụng hành
chính theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính năm 2015 ..................... 4
1. Đương sự................................................................................................ 4
1.1. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự ................................................. 4
1.2. Đương sự là chủ thể đóng vai trị quyết định trong thực hiện nghĩa vụ
chứng minh ............................................................................................. 6
2. Người đại diện của đương sự .................................................................. 8
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự .......................................... 9
4. Tòa án nhân dân ................................................................................... 10


5. Viện kiểm sát nhân dân ........................................................................ 11
III. Mở rộng một số vấn đề ......................................................................... 12
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn........................................ 12
2. Hướng giải quyết .................................................................................. 15
C. KẾT LUẬN ............................................................................................... 17
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................... 18


A.

MỞ ĐẦU

Trong giai đoạn hiện nay, nhiệm vụ phát triển và bảo vệ đất nước, yêu cầu
xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa đòi hỏi phải tiến hành
cải cách tư pháp và vấn đề đảm bảo xử lý nhanh chóng, kịp thời, đúng đắn các vụ
án hành chính đang được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Mỗi vụ án hành
chính được giải quyết tại Tịa án đều chứa đựng trong nó nhiều mâu thuẫn giữa
các đương sự, và thực tiễn việc giải quyết các vụ án này cho thấy đây là lĩnh vực
giải quyết tranh chấp rất phức tạp. Để việc giải quyết vụ án hành chính được đúng
đắn, mỗi vấn đề mà các bên đưa ra cần phải được xác minh, làm rõ, đảm bảo tính
hợp pháp trước khi tịa án đưa ra phán quyết cuối cùng, do đó các chủ thể cần phải
thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh của mình. Bên cạnh đó, do chưa nắm vững và
chưa thực hiện tốt nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong pháp luật tố tụng
hành chính dẫn đến việc giải quyết vụ án hành chính gặp nhiều khó khăn, chưa
nhanh chóng, chính xác, đặc biệt là kéo dài gây tốn kém thời gian, đơi khi chưa
đạt được sự hài lịng của các bên.
Việc tìm hiểu, nghiên cứu các vấn đề xung quanh vấn đề này sẽ giúp cho
việc áp dụng pháp luật tố tụng hành chính có hiệu quả và nâng cao hiệu quả trong
hoạt động chứng minh. Từ nhận định đó, trong nội dung bài tiểu luận dưới đây,
em đã chọn đề tài “Hãy bình luận về nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể

trong tố tụng hành chính theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính năm 2015?
Qua đó, hãy phân tích làm rõ chủ thể đóng vai trị quyết định trong thực hiện
nghĩa vụ chứng minh”. Thơng qua đó nhằm góp phần cũng cố lại những kiến
thức căn bản về tố tụng hành chính cho bản thân trong suốt quá trình học tập. Do
thời gian nghiên cứu hạn hẹp, năng lực, trình độ cịn nhiều hạn chế nên khơng
tránh khỏi những thiếu sót, sai lầm, em rất mong nhận được các ý kiến nhận xét
đóng góp từ phía thầy/cơ!

1


B.

NỘI DUNG

I. Khái quát chung về chứng minh trong tố tụng hành chính
1. Khái niệm chứng minh trong tố tụng hành chính
“Chứng minh” dùng để chỉ dạng hoạt động phổ biến của con người trong
đời thường (ví dụ như chứng minh khi tranh luận trong các cuộc hội thảo, chứng
minh khi phát biểu bảo vệ quan điểm trên các diễn đàn...) nhằm “làm cho thấy rõ
là có thật, là đúng bằng sự việc hoặc bằng lý lẽ hoặc dùng suy luận logic vạch rõ
một điều gì đó là đúng” [5].
Trong khoa học pháp lý, khái niệm chứng minh được hiểu là quá trình làm
rõ sự thật khách quan của vụ án do Tòa án và những người tham gia tố tụng thực
hiện thông qua các hoạt động cung cấp, thu thập, nghiên cứu, đánh giá sử dụng
chứng cứ. Chứng minh trong tố tụng hành chính cũng được hiểu theo nghĩa này.
Đó chính là q trình làm rõ sự thật khách quan vụ án hành chính, được thực hiện
bởi các chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng hành chính nhằm
giải quyết vụ án hành chính được khách quan, cơng bằng, đúng pháp luật qua đó
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức [3].

Quá trình chứng minh trong tố tụng hành chính bao gồm các hoạt động sau:
giao nộp tài liệu, chứng cứ; xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ (lấy lời khai của
đương sự, người làm chứng; đối chất; xem xét, thẩm định tại chỗ; trưng cầu giám
định; định giá tài sản, thẩm định giá tài sản; yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức
cung cấp chứng cứ…); bảo quản chứng cứ; đánh giá chứng cứ; công bố và sử
dụng chứng cứ; bảo vệ chứng cứ.
2. Ý nghĩa của hoạt động chứng minh
Ý nghĩa trực tiếp của chứng minh là tìm ra căn cứ để kết luận về các tình tiết
của vụ án, từ đó quyết định về u cầu của người khởi kiện. Khơng có hoạt động
chứng minh thì khơng thể có căn cứ để kết luận về các tình tiết, sự kiện và quan
điểm của đương sự [4]. Hoạt động chứng minh trong tố tụng hành chính là hoạt
động của chủ thể tiến hành tố tụng và chủ thể tham gia tố tụng. Kết quả giải quyết
2


vụ án hành chính có thể phụ thuộc vào kết quả của hoạt động chứng minh. Chứng
minh là cách duy nhất để xác định các tình tiết của vụ việc và tính đúng đắn của
hoạt động xét xử.
Bên cạnh đó, chứng minh cịn có ý nghĩa đối với việc bảo đảm cho việc giải
quyết vụ án khách quan, có căn cứ và hợp pháp, nhờ đó mà bảo đảm được pháp
chế trong hoạt động quản lí nhà nước của cơ quan hành chính. Ý nghĩa này cịn
thể hiện rất rõ vì Luật tố tụng hành chính cịn quy định nhiệm vụ của Tòa án, Viện
kiểm sát trong việc xác minh, thu thập và đánh giá chứng cứ [4].
Thẩm phán biết rõ được nội dung vụ việc để xác định sự thật khách quan của
vụ án thông qua hoạt động chứng minh. Đối với các đương sự và luật sư, chứng
minh có ý nghĩa quan trọng để thuyết phục Hội đồng xét xử và bảo vệ quyền lợi
của mình. Trước Tịa án nếu các bên đương sự và luật sư không chứng minh được
sự tồn tại quyền và lợi ích hợp pháp của họ thì quyền là lợi ích hợp pháp đó khơng
thể được Tịa án bảo vệ.
3. Đối tượng chứng minh

Đối tượng chứng minh trong vụ án hành chính là những tình tiết trong vụ án
cần phải được làm rõ để có thể giải quyết vụ án. Ở góc độ chung nhất, đối tượng
chứng minh trong vụ án hành chính bao giờ cũng là các yêu cầu hoặc phải đối của
đương sự [3]. Việc xác định đối tượng chứng minh là điều kiện cần thiết để hiểu
đúng các tình tiết của vụ việc và quyết định hướng giải quyết cụ thể. Nếu không
xác định được đối tượng chứng minh sẽ khiến cho hoạt động chứng minh thiếu
cơ sở khoa học, dẫn đến tình trạng Tịa án xác định cả những sự kiện khơng liên
quan đến vụ án và bỏ sót những tình tiết quan trọng. Những gì khơng liên quan
đến u cầu của đương sự thì khơng cần phải chứng minh.
Trong Luật tố tụng hành chính khơng quy định cụ thể đối tượng chứng minh.
Tuy nhiên, các vụ án hành chính với đặc trưng về đối tượng khởi kiện chủ yếu là
quyết định hành chính, hành vi hành chính trong các lĩnh vực quản lý hành chính
nhà nước hoặc quyết định kỷ luật buộc thôi việc công chức giữ chức vụ từ Tổng
Cục trưởng và tương đương trở xuống hay quyết định giải quyết khiếu nại về
3


quyết định xử lý vụ việc cạnh tranh, danh sách cử tri, thì những tình tiết là đối
tượng chứng minh thường liên quan đến tính hợp pháp hay khơng hợp pháp của
quyết định hay hành vi là đối tượng khởi kiện [3].
Pháp luật tố tụng hành chính thừa nhận một số đối tượng không cần chứng
minh tại Điều 79, gồm:
- Những tình tiết, sự kiện rõ ràng mà mọi người đều biết và được Tịa án thừa
nhận;
- Những tình tiết, sự kiện đã được xác định trong bản án, quyết định của Tịa
án đã có hiệu lực pháp luật;
- Những tình tiết, sự kiện đã được ghi trong văn bản và được cơng chứng,
chứng thực hợp pháp; trường hợp có nghi ngờ về tính xác thực của tình tiết, sự
kiện trong văn bản này thì Thẩm phán có thể u cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
đã cung cấp, giao nộp văn bản xuất trình văn bản gốc, bản chính;

- Một bên đương sự thừa nhận hoặc không phản đối những tình tiết, sự kiện,
tài liệu, văn bản mà bên đương sự kia đưa ra thì bên đương sự đưa ra tình tiết, sự
kiện, tài liệu, văn bản đó khơng phải chứng minh
II. Bình luận về nghĩa vụ chứng minh của các chủ thể trong tố tụng hành
chính theo quy định tại Luật Tố tụng hành chính năm 2015
Nghĩa vụ chứng minh trước hết là nghĩa vụ pháp lý của những chủ thể nhất
định trong quá trình chứng minh, là nghĩa vụ phải làm rõ các tình tiết, sự kiện có
ý nghĩa đối với việc giải quyết vụ án. Đây là nghĩa vụ pháp lý bắt buộc mà nếu
không thực hiện sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý bắt buộc.
1. Đương sự
1.1. Nghĩa vụ chứng minh của đương sự
Đương sự trong tố tụng hành chính bao gồm người khởi kiện, người bị kiện,
người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan1.Trong tố tụng hành chính nghĩa vụ chứng

1

Xem khoản 7 Điều 3 Luật tố tụng hành chính 2015

4


minh trước tiên thuộc về đương sự, bởi đương sự là người có quyền lợi trực tiếp
nhất.
Khoản 1 Điều 9 Luật tố tụng hành chính 2015 quy định: các đương sự có
quyền và nghĩa vụ chủ động thu thập, giao nộp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án và
chứng minh u cầu của mình là có căn cứ và hợp pháp. Điều 78 Luật tố tụng
hành chính 2015 quy định người khởi kiện, người bị kiện và người có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ chứng minh để bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của mình. Theo đó, đương sự trong vụ án hành chính có nghĩa
vụ cung cấp chứng cứ, điều đó đồng nghĩa với việc xác định nghĩa vụ chứng minh

thuộc về đương sự [3]. Khi người khởi kiện đưa ra yêu cầu tới Tịa án có thẩm
quyền thì nghĩa vụ chứng minh của họ phải có căn cứ, hợp pháp là vô cùng quan
trọng. Bởi lẽ, khi làm đơn khởi kiện quyết định hành chính, hành vi hành chính,
thì người khởi kiện phải có nghĩa vụ cung cấp các chứng cứ liên quan đến các
quyết định hành chính, hành vi hành chính đó để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của mình. Và khi người bị kiện muốn phản đối, bác bỏ yêu cầu của người khởi
kiện thì họ cũng có nghĩa vụ chứng minh tính đúng đắn bằng các tài liệu, chứng
cứ liên quan đến nội dung vụ án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có nghĩa
vụ cung cấp những chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình trong
q trình tham gia tố tụng. Đương nhiên không phải tất cả tài liệu cùng với những
lập luận của đương sự đều có giá trị chứng minh yêu cầu hay phản đối của đương
sự là đúng [3].
Việc đánh giá chứng cứ, xác định giá trị chứng minh của các tài liệu có trong
hồ sơ vụ án thuộc về Toà án mà trên hết là thuộc về Hội đồng xét xử [3]. Nghĩa
vụ của đương sự là chứng minh đầy đủ và đúng đắn quan điểm của mình trên cơ
sở pháp lý, Tịa án sẽ dựa trên cơ sở chứng minh của các đương sự để đưa ra quyết
định và phán quyết của mình. Nếu không đưa ra được chứng cứ hoặc không đầy
đủ chứng cứ thì phải chịu hậu quả của việc khơng chứng minh được hoặc chứng

5


minh không đầy đủ. Khi đương sự không thể tự mình thu thập được chứng cứ thì
có thể đề nghị Tòa xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của vụ án2.
Ví dụ khi người khởi kiện khởi kiện yêu cầu hủy Quyết định thu hồi Giấy
chứng nhận quyền sử dung đất. Người khởi kiện phải chứng minh mình có căn cứ
chứng minh quyết định hành chính đó là sai. Nếu người bị kiện không đồng ý, họ
sẽ phải chứng minh điều ngược lại. Tòa án cũng chỉ cần kiểm tra Giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất có hợp pháp hay không? Hoạt động chứng minh trong vụ án
này sẽ bắt đầu khi người khởi kiện nộp đơn khởi kiện và được Tòa án thụ lý.

Trong đơn khởi kiện, người khởi kiện sẽ thực hiện họat động chứng minh thông
qua việc cung cấp những chứng cứ như Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyết
định thu hồi đất,… Toàn bộ quá trình chứng minh sẽ xoay quanh các quyết định
này.
1.2. Đương sự là chủ thể đóng vai trị quyết định trong thực hiện nghĩa vụ
chứng minh
Hơn ai hết, đương sự phải biết rõ các thông tin về sự kiện liên quan vụ án và
để chứng minh cho quyền lợi của mình, họ phải đưa ra được chứng cứ. Mỗi một
chứng cứ đều có mục đích để chứng minh cho các luận điểm của đương sự là đúng
đắn tại Tòa án. Chính vì vậy, nghĩa vụ của các đương sự là ngang nhau trong việc
chứng minh tính đúng đắn trên cở sở pháp lý và chứng cứ hợp pháp của mình.
Theo quan điểm của cá nhân em, đương sự là chủ thể đóng vai trị quyết định
trong thực hiện nghĩa vụ chứng minh, thể hiện ở một số điểm sau:
Thứ nhất, đương sự là những người thực hiện hầu hết việc chứng minh.
Đương sự có thể thực hiện nghĩa vụ chứng minh bằng mọi cách, có thể tự mình
thu thập, cung cấp chứng cứ, hoặc nhờ Tòa án hỗ trợ thu thập. Trong giai đoạn
cung cấp chứng cứ thì đương sự chính là người cung cấp chứng cứ cho Tịa án.
Đây chính là hoạt động giao nộp chứng cứ vào hồ sơ vụ án, chứng cứ nhiều hay
ít sẽ có ảnh hưởng đến việc tranh luận giữa các bên có thể rút ngắn hoặc kéo dài

2

Xem khoản 7 Điều 55 Luật tố tụng hành chính 2015

6


hơn, chứng cứ càng cụ thể, chính xác thì việc tranh luận và trách nhiệm của Tòa
án càng đơn giản. Ngay cả khi nộp đơn khởi kiện cho Tòa án, người khởi kiện đã
phải thực hiện nghĩa vụ chứng minh qua việc cung cấp chứng cứ ban đầu. Và sau

khi được Tịa án thơng báo về việc khởi kiện, người bị kiện, người có quyền lợi
nghĩa vụ liên quan có quyền cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền lợi của mình.
Trong suốt quá trình tố tụng, đương sự vẫn có quyền cung cấp chứng cứ. Tại các
phiên tịa sơ thẩm, phúc thẩm, các đương sự có quyền bổ sung chứng cứ để chứng
minh cho yêu cầu của mình là có căn cứ, hợp pháp3. Như vậy, việc quy định đương
sự có nghĩa vụ chứng minh tại tất cả quá trình giải quyết vụ án nhằm tạo điều kiện
để đương sự có thể phát huy hết khả năng của mình trong việc chứng minh cho
yêu cầu của mình.
Thứ hai, đương sự là người tham gia tích cực nhất trong hoạt động chứng
minh. Hoạt động chứng minh của đương sự rất đa dạng, bao gồm cung cấp, thu
thập tài liệu chứng cứ; nghiên cứu, đánh giá chứng cứ,... Vì thế, ngồi nghĩa vụ
thu thập chứng cứ để cung cấp cho Tòa án, đương sự cịn có nghĩa vụ nghiên cứu
chứng cứ mà mình thu thập được trong vụ án, tiến hành xác minh những chứng
cứ mình đưa ra có hợp pháp hay khơng. Hơn nữa, đương sự sẽ có sự chủ động
hơn trong việc nghiên cứu, đánh giá chứng cứ cũng như tìm kiếm những bằng
chứng để phủ nhận quan điểm của đối phương thông qua quyền được biết, ghi
chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác xuất trình hoặc do Tịa án
thu thập4. Bên cạnh đó, tại các phiên tòa, các bên đương sự sẽ nghe lời trình bày
của các bên và tranh luận với nhau. Điều này cho thấy rằng vai trò của đương sự
trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh được thể hiện rất rõ nét.
Thứ ba, nghĩa vụ chứng minh của đương sự có vai trị nổi bật hơn so với các
chủ thể khác trong hoạt động chứng minh. Bên cạnh các đương sự, các chủ thể
khác như người đại diện cho đương sự, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự, Viện kiểm sát và Tòa án cũng là các chủ thể chứng minh. Phạm vi

3
4

Xem khoản 3 Điều 176 và khoản 3 Điều 237 Luật tố tụng hành chính 2015
Xem khoản 5 Điều 55 Luật tố tụng hành chính 2015


7


chứng minh của các chủ thể này sẽ khác nhau ở các giai đoạn tố tụng, bởi lẽ xuất
phát từ địa vụ pháp lý và vai trò của các chủ thể là khác nhau khi tham gia vào
quan hệ tố tụng. Song, vai trò chứng minh của các chủ thể này đều phát sinh từ
vai trò chứng minh của đương sự, trực tiếp hoặc gián tiếp hỗ trợ cho đương sự
trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình.
2. Người đại diện của đương sự
Đại diện của đương sự được xác định là người tham gia tố tụng thay mặt
đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của đương sự trước Tịa án. Do đó, đại diện của đương sự có quyền thay mặt
đương sự thực hiện các quyền và nghĩa vụ chứng minh. Đại diện đương sự có
quyền này là do:
+ Đối với đương sự là cá nhân vì có những đặc điểm đặc biệt về tinh thần và
thể chất, họ bị mất hoặc hạn chế năng lực nhân thức hoặc năng lực hành vi, nếu
để họ tự thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh thì họ không thể thực hiện được;
hay người chưa thành niên do chưa có đủ năng lực hành vi nên chưa ý thức được
đầy đủ các hoạt động chứng minh dẫn đến thiếu điều kiện để tự bảo vệ lợi ích của
mình. Do đó, để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự này pháp luật
đã cho phép đại diện của họ được thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh thay
họ5.
+ Còn đối với đương sự là cơ quan, tổ chức, xuất phát từ tính chất của cơ
quan, tổ chức là một tập thể người mà quyền và nghĩa vụ chứng minh phải do một
chủ thể cụ thể thực hiện nên phải có người đại diện cho cả tập thể tham gia vào
hoạt động chứng minh để bảo vệ quyền lợi cho cơ quan, tổ chức đó6.
Nghĩa vụ chứng minh của người đại diện được hình thành trên cơ sở nghĩa
vụ chứng minh của đương sự. Do đó, nghĩa vụ chứng minh của người đại diện
cũng tương tự như của đương sự. Nếu đại diện cho người khởi kiện thì người đại

diện phải có nghĩa vụ thu thập, cung cấp chứng cứ, tình tiết liên quan đến vụ việc

5
6

Xem khoản 4 Điều 54 Luật tố tụng hành chính 2015
Xem khoản 5 Điều 54 Luật tố tụng hành chính 2015

8


trước; nếu phản đối lại yêu cầu khởi kiện thì người đại diện cho người bị kiện phải
chứng minh cho việc phản đối đó; người đại diện cho người có quyền và nghĩa vụ
liên quan cũng thực hiện quyền và nghĩa vụ chứng minh để bảo vệ quyền và lợi
ích khi có yêu cầu độc lập hay tham gia tố tụng với người khởi kiện hoặc với
người bị kiện7. Và khi tư cách đương sự chấm dứt thì tư cách đại diện của họ cũng
chấm dứt.
Như vậy, so với đương sự, hoạt động chứng minh của người đại diện gặp
nhiều khó khăn hơn nên hiệu quả chứng minh hạn chế và kém hiệu quả hơn. Bởi
nghĩa vụ chứng minh của người đại diện là “thay mặt” đương sự, nên họ khơng
hiểu rõ quyền và lợi ích của đương sự bị ảnh hưởng như thế nào, nguyên nhân
tranh chấp cũng như các tình tiết, sự kiện liên quan đến vụ việc tranh chấp diễn ra
như thế nào. Bên cạnh đó, Luật tố tụng hành chính chưa có quy định nào cụ thể
về quyền và nghĩa vụ chứng minh của người đại diện.
3. Người bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự
Quyền và nghĩa vụ chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của đương sự được xác lập trên cơ sở quyền và nghĩa vụ chứng minh của đương
sự. Để người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự thực hiện đúng chức
năng của mình là trợ giúp các đương sự trong việc chứng minh, điểm b khoản 6
Điều 61 Luật Tố tụng hành chính 2015 quy định người bảo vệ quyền và lợi ích

hợp pháp của đương sự có quyền và nghĩa vụ: “Thu thập tài liệu, chứng cứ và
cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án, nghiên cứu hồ sơ vụ án…”. Trong trường
hợp này, vai trò chứng minh của người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
đương sự đóng vai trị giúp đỡ đương sự chứ khơng có quyền thay mặt đương sự,
do có hạn chế về mặt pháp lý cũng như kinh nghiệm tố tụng nên đương sự phải
cần đến sự hỗ trợ, những người này chỉ có quyền chứ khơng có nghĩa vụ chứng
minh, bởi việc chứng minh được hay không không ảnh hưởng đến quyền và lợi
ích của họ. Cũng giống như người đại diện, người bảo vệ quyền lợi cho người

7

Xem Điều 58 Luật tố tụng hành chính 2015

9


khởi kiện hay người bị kiện hay người có quyền, nghĩa vụ liên quan đều thực hiện
hoạt động chứng minh cho các yêu cầu hay phản đối của các bên.
Do đó, có thể thấy người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự
tham gia tố tụng cùng với đương sự khi đương sự nhờ và giúp đỡ đương sự về
mặt pháp lý. Đây cũng là một chủ thể chứng minh, nhưng khơng phải chủ thể
đóng vai trị quyết định trong thực hiện nghĩa vụ chứng minh tương tự như người
đại diện, hạn chế trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh, điều này là minh
chứng rõ hơn cho việc đương sự có vai trị nổi bật nhất trong việc thực hiện nghĩa
vụ chứng minh.
4. Tòa án nhân dân
Tuy Luật tố tụng hành chính quy định nghĩa vụ chứng minh chủ yếu thuộc
về đương sự, nếu đương sự khơng chứng minh được thì phải chịu hậu quả về việc
đó nhưng điều đó khơng có nghĩa là Tịa án đứng ngồi cuộc của q trình chứng
minh [4]. Tịa án có trách nhiệm hỗ trợ đương sự trong việc thu thập tài liệu, chứng

cứ và tiến hành thu thập, xác minh chứng cứ; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân
cung cấp tài liệu, chứng cứ cho Tòa án hoặc đương sự theo quy định8. Với tư cách
là chủ thể đưa ra các phán quyết về vụ án, Toà án tham gia chứng minh bằng việc
yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu liên quan đến việc giải quyết
vụ án hoặc có thể tiến hành một số biện pháp để thu thập chứng cứ hoặc thực hiện
yêu cầu của Viện kiểm sát hoặc của đương sự nếu xét thấy cần thiết9.
Mặc dù các đương sự có nghĩa vụ xuất trình chứng cứ trước Tịa án nhằm
thuyết phục về những yêu cầu mà mình đưa ra là có căn cứ, song chứng cứ do các
đương sự cung cấp khơng phải lúc nào cũng có độ chính xác tuyệt đối (vì có thể
có sự giả mạo hoặc nhầm lần). Do đó, Tịa án phải trực tiếp, xem xét, phân tích,
so sánh chứng cứ tại phiên tồ [8]. Nghĩa vụ chứng minh của Toà án thực chất là
việc kiểm tra xác minh tính xác thực của các tài liệu, đánh giá chứng cứ do các
bên đương sự xuất trình để làm sáng tỏ vụ án. Việc đánh giá chứng cứ, xác định

8
9

Xem Điều 9 Luật tố tụng hành chính 2015
Xem Điều 38, Điều 40, Điều 131 và Điều 84 Luật tố tụng hành chính 2015

10


giá trị chứng minh của các tài liệu trên hết là thuộc về Hội đồng xét xử [3]. Ngồi
ra, Tịa án còn xem xét đến các căn cứ pháp lý của các yêu cầu của đương sự. Hơn
nữa, Tòa án có nghĩa vụ chứng minh là do khả năng tự bảo vệ của các đương sự
khá là yếu, sự hiểu biết pháp luật của họ còn hạn hẹp; và chưa có điều kiện để
thực hiện tốt việc chứng minh, vì vấn đề quản lý hành chính của các cơ quan liên
quan đến cơ cấu tổ chức, công việc nội bộ của cơ quan đó nên các đương sự khó
mà có thể tiếp cận để thu thập tài liệu được, thậm chí là khơng thực hiện được. Để

đảm bảo quyền lợi cho đương sự thì trong trường hợp này phải có sự giúp đỡ của
Tòa án.
Như vậy, Tòa án cũng là một chủ thể chứng minh, nhưng khơng có nghĩa là
Tịa án có nghĩa vụ chứng minh các tình tiết của vụ án mà chỉ có trách nhiệm
chứng minh. Trách nhiệm chứng minh của Tòa án nổi bật ở vai trò nghiên cứu và
đánh giá về giá trị chứng minh của các chứng cứ được Tòa án tiến hành dựa trên
cơ sở pháp luật. Đây chỉ là hoạt động hỗ trợ cho việc thu thập chứng cứ của đương
sự và mang tính chất tham khảo [8]. Bởi với tư cách là cơ quan tiến hành tố tụng,
Tịa án có nhiệm vụ rất lớn trong hoạt động chứng minh chủ yếu để làm rõ cơ sở
cho quyết định của mình, đảm bảo tính khách quan, chứ khơng chứng minh thiên
vị cho u cầu của một bên đương sự.
5. Viện kiểm sát nhân dân
Đối với việc tham gia của Viện kiểm sát vào hoạt động chứng minh, Luật tố
tụng hành chính khơng quy định trực tiếp về nghĩa vụ chứng minh nhưng khi
nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên có nhiệm vụ, quyền hạn xác minh, thu thập tài
liệu chứng cứ theo quy định của luật này10. Các trường hợp KSV tự mình xác
minh, thu thập chứng cứ: trường hợp kháng nghị bản án, quyết định của Toà án
theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm (khoản 6 Điều 84); trong quá
trình giải quyết đơn đề nghị giám đốc thẩm (khoản 2 Điều 259). Viện kiểm sát có
quyền u cầu Tịa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ khi xét thấy cần xác
minh, thu thập thêm chứng cứ để bảo đảm cho việc giải quyết vụ án có căn cứ và
10

Xem khoản 3 Điều 43 Luật tố tụng hành chính 2015

11


đúng pháp luật11; có quyền yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu,
chứng cứ12.

Theo đó, phạm vi nghĩa vụ chứng minh của Viện kiểm sát rất hẹp, được thực
hiện thơng qua quyền u cầu Tịa án, cá nhân, tổ chức xác minh, thu thập chứng
cứ hoặc tự mình thu thập chứng cứ chỉ trong trường hợp kháng nghị và thấy cần
phải có thêm chứng cứ. Có thể nhận thấy rằng, Viện kiểm sát cũng như Tòa án
chỉ tự mình thực hiện việc chứng minh khi xét thấy cần thiết, và hỗ trợ các đương
sự khi họ gặp khó khăn trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh.
III. Mở rộng một số vấn đề
1. Một số khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn
Thứ nhất, một trong những khó khăn lớn trong việc thực hiện nghĩa vụ
chứng minh là việc cơ quan hành chính khơng phối hợp giúp đỡ đương sự cũng
như Tòa án trong việc cung cấp tài liệu chứng cứ, họ không cung cấp hoặc cung
cấp không đầy đủ, dẫn đến việc đương sự không thể có được các tài liệu, chứng
cứ do chính cơ quan hành chính nhà nước này nắm giữ. Điều này làm cho việc
xét xử của Tịa án gặp khó khăn, khiến vụ án kéo dài quá thời hạn quy định của
Luật Tố tụng hành chính. Theo đó, Tịa án khơng có cơ sở để khẳng định và tuyên
bố quyết định hành chính hay hành vi hành chính bị khởi kiện có hợp pháp hay
khơng. Do đó, đã có những đề xuất là quy định về các biện pháp bắt buộc cơ quan
hành chính phải cung cấp, tuy nhiên, chưa chắc việc áp dụng các biện pháp đó sẽ
làm cho tịa án xét xử vụ án thuận lợi hơn, khi cơ quan này cố tình hoặc do lý do
nào đấy khơng thể thực hiện tốt nghĩa vụ tố tụng này [10].
Thứ hai, đối với người bị kiện, Điều 128 Luật tố tụng hành chính có quy
định: . “Trong thời hạn 10 ngày kể từ ngày nhận được thông báo, người bị kiện
phải nộp cho Tòa án văn bản ghi ý kiến của mình về yêu cầu của người khởi kiện
và tài liệu, chứng cứ kèm theo hoặc yêu cầu độc lập (nếu có)”. Theo hướng quy
định như vậy, người bị kiện chỉ phải cung cấp chứng cứ một cách có điều kiện,
11
12

Xem khoản 6 Điều 84 Luật tố tụng hành chính 2015
Xem khoản 4 Điều 93 Luật tố tụng hành chính 2015


12


mức độ nghĩa vụ cũng không cao như người khởi kiện. Trong khi đó, với địa vị
xã hội và trình độ pháp lý của người bị kiện nhìn chung có ưu thế hơn so với người
khởi kiện, người bị kiện hồn tồn có đủ điều kiện để tự thu thập và cung cấp
chứng cứ một cách tồn diện cho Tịa án. Tuy nhiên, với tư cách là một bên trong
vụ án, và để bảo vệ chính uy tín của mình, người bị kiện có thể từ chối hoặc chỉ
cung cấp các chứng cứ có lợi cho mình. Cịn những chứng cứ khác thì khi cần
thiết mới thụ động đưa ra. Có thể thấy rằng, người bị kiện sẵn sàng cung cấp
chứng cứ một cách phiến diện. Hành vi đó có thể được xem là cản trở hoạt động
xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Tòa án. Tùy theo tính chất, mức độ vi
phạm mà hành vi đó có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách
nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, việc áp dụng đó đối với
hành vi cản trở hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ của Tịa án trong vụ án
hành chính hiện nay pháp luật chưa quy định rõ ràng, vẫn còn bỏ ngỏ, gây khó
khăn cho Tịa án trong q trình giải quyết vụ án [7]. Như vậy, thiếu quy định về
cơ chế, trách nhiệm của người bị kiện trong hoạt động cung cấp chứng cứ nên
hoạt động cung cấp chứng cứ của người bị kiện chưa thật sự hiệu quả.
Thứ ba, theo quy định của Luật tố tụng hành chính 2015 thì các đương sự
có quyền “được biết, ghi chép và sao chụp tài liệu, chứng cứ do đương sự khác
xuất trình hoặc do Tòa án thu thập”13. Tuy nhiên, quyền quan trọng này của
đương sự rất khó thực hiện trên thực tế. Bởi lẽ, trong quá trình giải quyết vụ án
hành chính, khi các bên đưa ra chứng cứ mới hay những chứng cứ do Tịa án thu
thập được thì các bên đương sự chỉ có quyền được biết thơng qua hoạt động sao
chụp tài liệu, chứng cứ ở Tòa án. Nhưng chính vì quyền được biết này lại mang
tính chất chung chung, khi không quy định một cách cụ thể ai là người phải thơng
báo cho đương sự khi có những chứng cứ mới được đưa ra.
Thứ tư, về việc Tòa án thu thập chứng cứ thay đương sự. Theo quy định của

Luật tố tụng hành chính, Tịa án chỉ tiến hành thu thập chứng cứ khi đương sự đã
áp dụng mọi biện pháp nhưng vẫn không tự thu thập được và có u cầu Tịa án

13

Xem khoản 8 Điều 55 Luật tố tụng hành chính 2015

13


tiến hành thu thập. Điều 93 quy định đương sự phải làm đơn và phải nêu rõ lý do
tại sao mình khơng thu thập được chứng cứ mà khơng quy định cụ thể trong trường
hợp nào được coi là đương sự khơng thể tự mình thu thập được chứng cứ. Điều
này dẫn tới tình trạng đương sự ỷ lại cho Tịa án, khơng thu thập chứng cứ để
chứng minh mà trình bày với Tịa án rằng đương sự khơng thể thu thập được
chứng cứ. Do đó, Tịa án sẽ khơng có cơ sở pháp lý để xem xét lý do đưa ra của
đương sự là hợp lý hay không hợp lý, chấp nhận hay khơng chấp nhận u cầu
Tịa án thu thập chứng cứ thay của đương sự. Ngoài ra, chính cơ quan tiến hành
tố tụng này vẫn cịn vi phạm nhiều về mặt tố tụng. Một số Tòa án tiến hành các
hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ theo cảm tính cịn tồn tại, bởi họ có tâm
lý bàng quan, thiếu tích cực, khơng phải việc của mình. Mặt khác, pháp luật hiện
hành cũng chưa xác định nghĩa vụ của Tòa án trong hoạt động xác minh, thu thập
chứng cứ. Cho nên chưa có cơ sở ràng buộc Tòa án với hoạt động xác minh, thu
thập chứng cứ theo luật định.
Nguyên nhân của những thực trạng trên có thể xuất phát từ sự bất cân đối về
địa vị xã hội cũng như trình độ pháp lý, hiểu biết pháp luật giữa người khởi kiện
và người bị kiện, có thể nói rằng người khởi kiện khá yếu thế so với người bị kiện.
Người bị kiện có mối liên kết với các bộ phận khác trong bộ máy nhà nước nên
dường như người khởi kiện chỉ có thể cung cấp chứng cứ về hành vi nhưng thụ
động trong việc thu thập tài liệu, chứng cứ, khả năng tiếp cận nguồn chứng cứ cịn

rất hạn hẹp. Người khởi kiện có thể do thiếu hiểu biết về pháp luật nên khó xác
định được quyết định hành chính, hành vi hành chính có thực sự sai và xâm phạm
đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình hay khơng. Bên cạnh đó, có thể là họ
chưa nhận được các tài liệu, chứng cứ từ các cá nhân, cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền hoặc các cá nhân, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền khơng cung cấp cho
họ vì lý do nào đó, mặc dù họ đã yêu cầu được cung cấp tài liệu chứng cứ đó.
Điều đó dẫn đến việc khởi kiện của họ gặp trở ngại ngay từ khi nộp đơn khởi kiện.
Ngồi ra, với tâm lý mang trong mình quyền lực nhà nước, một mặt bảo vệ uy tín
của mình, mặt khác ngại sai, ngại sửa, người bị kiện đã thực hiện nghĩa vụ chứng
minh của mình một cách phiến diện, chỉ có lợi cho chính mình. Pháp luật hiện nay
14


vẫn chưa có quy định rõ ràng, chặt chẽ về nghĩa vụ chứng minh của các cơ quan
tiến hành tố tụng.
2. Hướng giải quyết
Xuất phát từ những yêu cầu thực tiễn cũng như q trình thể chế hóa các quy
định dân chủ và tiến bộ, có thể giải quyết một số nội dung theo hướng như sau:
Một là, khi các đương sự trong vụ án hành chính khơng cung cấp được đầy
đủ các tài liệu, chứng cứ cần thiết để Tịa án thụ lý vụ án thì Tịa án phải là cơ
quan thay mặt Nhà nước giải quyết tranh chấp, giúp đương sự trong việc thu thập
chứng cứ đang lưu giữ tại các cơ quan, tổ chức mà đương sự không thể thu thập
được, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích của nhân dân. Các biện pháp được đề xuất
phải hướng tới những chủ thể cụ thể trong thực hiện nghĩa vụ chứng minh, những
chủ thể có nghĩa vụ hỗ trợ cần có những biện pháp cụ thể, có tính thực tiễn cao,
vừa dễ làm, vừa có hiệu quả.
Hai là, cần có chế tài xử lý đối với những trường hợp người bị kiện không
cung cấp tài liệu, chứng cứ, đồng thời từ chối cung cấp tài liệu chứng cứ theo yêu
cầu của Tòa, để tránh kéo dài vụ án, đảm bảo việc giải quyết vụ án được toàn diện.
Cần có quy định về cách thức xử lý đối với hành vi cản trở hoạt động xác minh,

thu thập chứng cứ của Tòa án; phân biệt rạch ròi ranh giới giữa hành vi vi phạm
nào sẽ bị xử lý hành chính và hành vi vi phạm nào sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình
sự, từ đó để người có thẩm quyền áp dụng được thống nhất. Nếu là xử phạt hành
chính thì cũng phải có quy định rõ về hình thức xử lý cụ thể đối với từng loại hành
vi vi phạm, thẩm quyền, trình tự, thủ tục xử phạt... Nếu là truy cứu trách nhiệm
hình sự thì cũng cần có quy định rõ ràng mức độ cản trở, mức độ nguy hiểm, hậu
quả xảy ra... như thế nào là đủ điều kiện truy cứu trách nhiệm hình sự [7].
Ba là, cần mở rộng hơn quyền thu thập chứng cứ để đương sự có thể tự chủ
động bảo vệ mình khi tham gia quan hệ tố tụng hành chính. Cần phải có quy định
cụ thể hơn về việc thơng báo những chứng cứ mới được đưa ra cho đương sự được

15


biết, nhằm giúp đương sự nắm bắt được thông tin về các tình tiết, sự kiện liên
quan đến vụ án một cách nhanh chóng và chính xác.
Bốn là, hồn thiện các quy định của Tòa án trong hoạt động xác minh, thu
thập chứng cứ. Cần quy định một cách cụ thể những trường hợp đương sự khơng
thể tự mình thu thập được chứng cứ là những trường hợp do bất khả kháng, liên
quan đến bí mật quốc gia hoặc khi đương sự yêu cầu mà cơ quan, tổ chức đang
nắm giữ, quản lý chứng cứ không cung cấp chứng cứ cho đương sự cần có xác
nhận của cơ quan này về việc không cung cấp chứng cứ cho đương sự.... Pháp
luật cần xây dựng, bổ sung thêm quy định xác định nghĩ vụ của Tòa án trong việc
xác minh, thu thập chứng cứ để tránh việc vi phạm các thủ tục tố tụng.
Năm là, các cơ quan, tổ chức cần có trách nhiệm phối hợp, giúp đỡ đương
sự trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh. Chủ thể của hoạt động chứng minh
trong tố tụng hành chính rất đa dạng bao gồm các đương sự, Tòa án, Viện kiểm
sát. Trong đó, vai trị của đương sự ở vị trí trung tâm và quyết định đến việc chứng
minh của các chủ thể khác. Hơn nữa, các bên đương sự là những cá nhân, cơ quan,
tổ chức có địa vị pháp lý bình đẳng nên các biện pháp đưa ra để hồn thiện vai trị

chứng minh của đương sự phải mang tính bình đẳng.
Bên cạnh đó, cần nâng cao ý thức, trách nhiệm của những người tiến hành tố
tụng trong việc đảm bảo các quyền của người tham gia tố tụng trong các vụ án
hành chính. Chỉ khi người dân nắm được pháp luật, biết được các quyền, lợi ích
của mình cần được bảo vệ như thế nào mà không vi phạm pháp luật thì mới phát
huy đúng được tinh thần của Hiến pháp và pháp luật. Do đó, việc phổ biến pháp
luật cho người dân cần được sâu rộng hơn nữa, Đảng và nhà nước ta cần đề ra
những chủ trương chỉ thị để các địa phương phổ biến pháp luật được cụ thể và tốt
hơn giúp cho người dân nắm bát được pháp luật một cách hiệu quả nhất, bảo vệ
được quyền cơng dân của mình đúng lúc, đúng nơi.

16


C. KẾT LUẬN
Như vậy, có thể nói hoạt động chứng minh là hoạt động cơ bản, quan trọng
và có ảnh hưởng nhất mà các chủ thể cần hoặc buộc phải thực hiện. Luật tố tụng
hành chính 2015 đã quy định khá rõ ràng về nghĩa vụ chứng minh của các chủ
thể. Và hơn hết là nghĩa vụ chứng minh của đương sự là trọng yếu, bởi đương sự
là những người hơn ai hết phải biết rõ các thông tin về sự kiện liên quan đến vụ
án, nên phải hoàn toàn chủ động và tích cực thu thập, cung cấp chứng cứ, làm rõ
các tình tiết, sự kiện của vụ việc để chứng minh cho quyền và lợi ích hợp pháp
của mình và qua đó Tịa án mới có căn cứ để đưa ra các quyết định khách quan,
đúng đắn. Bên cạnh đó, các chủ thể khác cũng góp phần quan trọng trong họat
động chứng minh. Tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy là chưa thực sự có sự thay
đổi trong nhận thức về vai trò của các chủ thể trong hoạt động chứng minh, chưa
đảm bảo được việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của đương sự, nên cần có
những giải pháp để khắc phục, đảm bảo cho cho nghĩa vụ chứng minh được thực
hiện một cách hiệu quả, khách quan nhất nhằm giải quyết các vụ án nhanh chóng,
cơng bằng.


17


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013;
2. Luật tố tụng hành chính năm 2015;
3. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội (2015), Giáo trình Luật tố tụng hành chính,
Hà Nội;
4. Trường Đại học Luật Thành Phố Hồ Chí Minh (2012), Giáo trình Luật tố tụng
hành chính Việt Nam, Nxb. Hồng Đức;
5. Trung tâm từ điển học – Viện ngôn ngữ học (2002), Từ điển tiếng Việt, Nxb.
Đà Nẵng;
6. Nguyễn Thị Thế, Một số vấn đề về hoạt động thu thập tài liệu, chứng cứ của
Viện kiểm sát trong tố tụng hành chính, Tạp chí kiểm sát, số 8/2019;
7. Thu thập chứng cứ bằng biện pháp trưng cầu giám định trong vụ án hành chính,
Tạp chí kiểm sát, số 3/2019;
8. Nguyễn Minh Hằng, Phân định ranh giới giữa nghĩa vụ chứng minh và trách
nhiệm chứng minh trong Tố tụng dân sự, truy cập ngày 29/06/2021;
9. Nghĩa vụ cung cấp chứng cứ, chứng minh trong tố tụng hành chính,
truy cập ngày 29/06/2021;
10. Sửa đổi Luật Tố tụng hành chính: tiếp cận triệt để hơn ngun tắc bình đẳng
giữa các chủ thể tham gia tố tụng, Tạp chí nghiên cứu lập pháp,
truy cập ngày
30/06/2021

Cùng một số cơng trình nghiên cứu khoa học và trang thông tin khác…

18




×