Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số giải pháp phát huy vai trò kinh tế tư nhân ở Hải Phòng hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.63 KB, 8 trang )

PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

471

MỘT SỐ GIÂI PHÁP PHÁT HUY VAI TRÒ KINH TẾ TƯ NHÅN
Ở HÂI PHÒNG HIỆN NAY
TS. Tơ Mạnh Cường
Trường Đại học Thủy lợi

Tóm tắt: Kể từ khi đổi mới đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều Nghị quyết
khẳng định vai trị của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của kinh tế. Nghị quyết 10NQ/TƯ ngày 3/6/2017 về "Phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" của Hội nghị Trung ương 5
khóa XII càng khẳng định rõ điều đó. Hải Phịng là một thành phố trực thuộc Trung
ương có vị trí quan trọng về kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin và an ninh, quốc phòng
của vùng Bắc Bộ và cả nước. Phát huy lợi thế của mình, Hải Phịng đã tập trung các
nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội, tạo ra bước phát triển vượt bậc trong thời gian gần
đây. Trong thành quả phát triển đó, có sự đóng góp to lớn của thành phần kinh tế tư
nhân. Tuy vậy, kinh tế tư nhân Hải Phòng vẫn bộc lộ nhiều bất cập, địi hỏi trong thời
gian tới, tồn hệ thống chính trị và nhân dân phải tiếp tục đổi mới nhận thức, tìm tịi giải
pháp để khắc phục hạn chế và đưa kinh tế tư nhân phát triển hơn nữa, góp phần cùng
các thành phần kinh tế khác đưa Hải Phòng xứng đáng là trung tâm kinh tế - khoa học kỹ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ và là một trong 2 trung tâm phát triển
của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
Từ khóa: Doanh nghiệp tư nhân, kinh tế tư nhân, vai trò kinh tế tư nhân
SOME SOLUTIONS TO PROMOTE THE ROLE OF PRIVATE ECONOMY IN
HAI PHONG
Abtract: Since the renovation, up to now, the Communist Party of Vietnam has had many
resolutions affirming the role of the private economy in the development of the economy.
The Resolution 10 of the 5th meeting of the 12th CPVCC on developing the private
economy has confirmed that. Hai Phong is a city directly under the Central Government,
having an important position in economy, society, information technology, security and
national defense of the Northern region and the whole country. Promoting its advantages,


Hai Phong has gathered resources for socio-economic development, creating remarkable
development recently. In that development, there is a great contribution of the private
sector. However, Hai Phong's private economy still reveals many inadequacies, requiring
that in the coming time, the entire political system and people must continue to innovate
their awareness, explore solutions to overcome limitations and introduce The private
sector has further developed, contributing to other economic sectors to make Hai Phong a
worthy economic, scientific and technical center of the Northern Coastal Region and one
of the two development centers. development of Northern key economic region.
Keywords: Private enterprise, personal economic, private economic role.


472

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

1. ĐẶT VÇN ĐỀ:

Nghiên cứu khái quát nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trong đó, có nhiều Nghị quyết khẳng định vai trị của
kinh tế tư nhân. Hải Phòng là một thành phố trực thuộc Trung ương có vị trí quan trọng về
kinh tế, xã hội, công nghệ thông tin và an ninh, quốc phòng của vùng Bắc Bộ và cả nước.
Phát huy lợi thế của mình, Hải Phịng đã tập trung các nguồn lực phát triển kinh tế - xã hội,
tạo ra bước phát triển vượt bậc trong thời gian gần đây. Nghiên cứu chỉ ra thực trạng của
thành phần kinh tế tư nhân Hải Phịng, những đóng góp cũng như một số bất cập, khó khăn
của kinh tế tư nhân Hải Phịng và nguyên nhân dẫn tới bất cập đó. Nghiên cứu đề ra một số
giải pháp để khắc phục hạn chế và đưa kinh tế tư nhân Hải Phòng phát triển hơn nữa, góp
phần cùng các thành phần kinh tế khác đưa Hải Phòng xứng đáng là trung tâm kinh tế khoa học - kỹ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ và là một trong 2 trung tâm phát
triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ.
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU:


2.1. Quan điểm của Đảng về vai trò của kinh tế tư nhân
Kinh tế tư nhân, hiểu cách khái quát chung, là khu vực kinh tế nằm ngoài quốc
doanh (ngoài khu vực kinh tế nhà nước), bao gồm các doanh nghiệp trong và ngồi
nước, trong đó tư nhân nắm trên 50% vốn đầu tư. Kinh tế tư nhân là tất cả các cơ sở
sản xuất kinh doanh không dựa trên sở hữu nhà nước về các yếu tố của quá trình sản
xuất. Hiểu ở cấp độ hẹp, kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế gắn liền với loại hình sở
hữu tư nhân, bao gồm kinh tế cá thể, tiểu chủ và kinh tế tư bản tư nhân dựa trên sở hữu
tư nhân về tư liệu sản xuất. Kinh tế tư nhân tồn tại dưới các hình thức như: doanh
nghiệp tư nhân (DNTN), công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần và các hộ kinh
doanh cá thể.
Các Nghị quyết của Đảng từ Đại hội VI (12/1986) đến nay đều đã khẳng định việc
xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta với nội dung cơ bản là
phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự
quản lý, điều tiết của Nhà nước theo định hướng XHCN. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp
luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh, trong đó kinh tế nhà nước
giữ vai trị chủ đạo, kinh tế tập thể không ngừng được củng cố và phát triển. Kinh tế nhà
nước, kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân và
cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ. Kinh tế tư
nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi được
khuyến khích phát triển.
Nghị quyết số 14-NQ/TƯ, ngày 18/3/2002 của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX "Về
tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư
nhân" tạo cú hích quan trọng phát triển kinh tế tư nhân ở nước ta trở thành lực lượng quan
trọng đóng góp ngày càng lớn vào sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước và hội nhập quốc tế.


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


473

Sau 15 năm thực hiện Nghị quyết 14 của Hội nghị Trung ương 5 khóa IX, Hội nghị
Trung ương 5 khóa XII ban hành Nghị quyết 10-NQ/TƯ ngày 3/6/2017 về "Phát triển kinh
tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa".
Trên cơ sở Nghị quyết của Trung ương, nhiều cơ chế, chính sách và giải pháp được
Chính phủ và các Bộ, Ngành, địa phương ban hành. Với tinh thần đồng hành cùng doanh
nghiệp, cả hệ thống chính trị đã vào cuộc quyết liệt hỗ trợ kinh tế tư nhân phát triển. Kinh
tế tư nhân Hải Phịng vì vậy cũng đã có sự phát triển mạnh mẽ.
2. 2. Thực trạng vai trò kinh tế tư nhân ở Hải Phòng
2.2.1. Thành tựu đạt được
Được thành lập vào năm 1888, Hải Phịng là nơi có vị trí quan trọng về kinh tế, xã
hội, cơng nghệ thơng tin và an ninh, quốc phịng của vùng Bắc Bộ và cả nước. Hải Phịng
là đầu mối giao thơng đường biển phía Bắc. Với lợi thế cảng nước sâu, ngành vận tải biển
của Hải Phòng rất phát triển, trở thành một trong những động lực tăng trưởng của vùng
kinh tế trọng điểm Bắc bộ. Hải Phòng là trung tâm kinh tế - khoa học - kỹ thuật tổng hợp
của Vùng duyên hải Bắc Bộ và là một trong 2 trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng
điểm Bắc Bộ. Hiện nay, Hải Phịng có nhiều khu cơng nghiệp, thương mại lớn và trung
tâm dịch vụ, du lịch, giáo dục, y tế và thủy sản của vùng duyên hải Bắc Bộ Việt Nam.
Trong lịch sử, Hải Phịng đã có rất nhiều DNTN nổi tiếng của người Việt như doanh
nhân Bạch Thái Bưởi, Nguyễn Sơn Hà, Đồn Đức Ban…
Hải Phịng hiện có khoảng 20 nghìn doanh nghiệp, trong đó đa phần là các doanh
nghiệp nhỏ và vừa khu vực tư nhân. Các doanh nghiệp tập trung ở các lĩnh vực lợi thế của
thành phố như cảng biển, dịch vụ du lịch và dịch vụ xã hội...
Với lợi thế về cảng biển, thành phố có gần 40 doanh nghiệp cảng, đa phần là tư nhân.
Lượng hàng hóa qua cảng tăng trưởng từ 13% đến 15%/năm;
Ngành dịch vụ du lịch, dịch vụ xã hội cũng đóng góp vào bản đồ kinh tế thành
phố nhiều sắc màu, với hệ thống hàng chục bệnh viện, hàng trăm trường học dân lập,
cùng hơn 20 nghìn doanh nghiệp hoạt động theo các mơ hình trách nhiệm hữu hạn, cổ

phần tư nhân, DNTN…
Hải Phịng có các khu cơng nghiệp lớn như: Đình Vũ, Tràng Duệ (LG), VSIP… Khu
vực tư nhân và đầu tư nước ngồi đang đóng vai trị đặc biệt quan trọng với các khu cơng
nghiệp lớn này. Trong đó phải kể đến các tập đồn kinh tế tư nhân VinGroup, SunGroup,
Him Lam… với vốn đầu tư hàng trăm nghìn tỷ đồng.
Năm 2017, thu nội địa của thành phố đạt gần 22.000 tỷ đồng, trong đó cộng đồng các
doanh nghiệp đóng góp gần 16.000 tỷ đồng, chiếm gần 73%.
2.2.2. Một số khó khăn, bất cập
Tuy đạt được những thành quả ban đầu đáng ghi nhận nhưng nhìn chung thực trạng
DNTN ở Hải Phịng cịn nhiều bất cập, yếu kém.


474

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

- Quy mơ doanh nghiệp cịn nhỏ: Đa số các doanh nghiệp tư nhân là các doanh
nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Điều này làm ảnh hưởng tới năng lực cạnh tranh của DNTN so
với doanh nghiệp nhà nước và các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi (FDI).
Nhiều DNTN cịn kinh doanh theo hình thức ngắn hạn, chưa có tầm nhìn, chiến lược kinh
doanh dài hạn. Đội ngũ doanh nhân của khu vực tư nhân chưa thực sự lớn mạnh, còn thiếu
kinh nghiệm trên thương trường quốc tế và chưa được đào tạo sâu về quản lý sản xuất,
kinh doanh.
- Năng lực cơng nghiệp cịn yếu: Năng lực công nghiệp của khu vực kinh tế tư nhân
còn yếu và hầu hết đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ phát triển. Phần lớn các DNTN mới
dừng lại ở gia công lắp ráp, chủ yếu sử dụng máy móc, thiết bị và nguyên liệu nhập khẩu.
Khoảng cách chênh lệch về trình độ cơng nghệ giữa các DNTN so với khu vực doanh
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI còn xa. Điều này làm ảnh hưởng tới khả năng kết
nối cũng như tham gia ngành công nghiệp hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn của các DNTN.
- Thị trường còn hẹp: Các DNTN phần lớn vẫn hoạt động ở thị trường trong nước.

Số DNTN lớn vươn được ra thị trường nước ngồi cịn rất ít. Ngay cả ở thị trường trong
nước, do quy mô nhỏ và khả năng cạnh tranh yếu nên DNTN có xu hướng rút khỏi các
ngành sản xuất công nghiệp, lĩnh vực phân phối và bán lẻ... nhường lại sân chơi cho các
doanh nghiệp nước ngồi.
- Đầu tư lĩnh vực nơng nghiệp cịn yếu: Dù có tiềm năng lớn về nơng nghiệp, nhưng số
lượng DNTN hoạt động trong lĩnh vực nơng nghiệp cịn rất ít. Các doanh nghiệp gặp khó
khăn trong việc triển khai những mơ hình hiện đại như kinh tế trang trại quy mô lớn. Việc
giải quyết lao động trong ngành nông nghiệp chưa đạt hiệu quả mong muốn có nguyên nhân
chủ yếu là sự phát triển của lực lượng doanh nghiệp ở nông thôn không đủ mạnh nên chưa
thúc đẩy chuyển dịch nhanh lao động nông nghiệp sang lao động phi nông nghiệp.
- Ý thức chấp hành pháp luật chưa tốt: Bên cạnh những DNTN là ăn chân chính,
chấp hành nghiêm chỉnh chính sách, pháp luật thì vẫn cịn bộ phận khơng nhỏ chưa tn
thủ chính sách pháp luật, vi phạm các điều kiện về an tồn lao động, về mơi trường, về chế
độ lao động và việc làm…
Một bộ phận doanh nhân còn hạn chế về kiến thức, sự am hiểu pháp luật và năng lực
kinh doanh, kinh nghiệm quản lý, khả năng cạnh tranh và hội nhập. Một số doanh nhân
cịn thiếu trách nhiệm với xã hội, vì lợi ích cục bộ, lợi ích nhóm, làm tăng thêm các tiêu
cực xã hội, môi trường.
Thành phố đã xử lý nhiều doanh nghiệp vi phạm lĩnh vực mua bán hóa đơn, chứng từ
giả; sản xuất, buôn bán hàng lậu, hàng giả, hàng kém chất lượng; lập dự án một đằng hoạt
động một nẻo để chiếm dụng đất đai… Có số lượng lớn các doanh nghiệp được thành lập
nhưng không hoạt động, không phát sinh thuế.
2.2.3. Nguyên nhân
Thứ nhất, môi trường pháp lý đối với khu vực kinh tế tư nhân chưa hoàn thiện, nhiều
quy định chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, thiếu nhất quán, phức tạp và chồng chéo. Thủ tục


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

475


hành chính cịn rườm rà, chồng chéo. Hiện có tới hơn 4000 điều kiện kinh doanh (trong đó
nhiều quy định khơng theo thơng lệ quốc tế) gây cản trở không nhỏ cho sự phát triển của
doanh nghiệp. Đây cũng là cản trở chung đối với các DNTN trong cả nước chứ khơng
riêng gì Hải Phòng. Các thủ tục tiếp cận đất đai, thị trường tín dụng, cơ hội đầu tư rườm rà.
Chi phí kinh doanh, chi phí vận tải (logistics, tiền lương, bảo hiểm…) cao, lãi suất vay cao.
DNTN phải trả nhiều khoản chi phí phát sinh, khơng minh bạch…
Thứ hai, thiếu thị trường, thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh: Để doanh nghiệp có
thể phát triển thì vấn đề “thị trường”, vấn đề đầu ra, vấn đề hình thành nơi trao đổi bn bán,
hình thành trục liên kết,... sẽ giúp các doanh nghiệp phát triển đột phá. Tuy nhiên hiện nay,
đa số DNTN ở Hải Phịng có quy mơ sản xuất nhỏ nên khó chiếm lĩnh thị trường, cạnh tranh
với doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngồi. Thủ tục vay vốn,
xin thuê đất còn rườm rà cũng gây cản trở lớn tới sự phát triển mở rộng thị trường.
Để DNTN là động lực phát triển kinh tế cần thúc đẩy hoàn thiện thể chế thị trường
đầy đủ. Bởi thị trường là cơ hội tiếp cận kinh doanh, cơ hội tiếp cận đất đai, tiếp cận thơng
tin, chính sách, quy hoạch,...; là sự liên kết giữa các doanh nghiệp nhỏ với các tập đoàn lớn
để tiêu thụ sản phẩm, tạo ra chuỗi giá trị,...
Thứ ba, vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu quả quản lý của Nhà nước còn nhiều hạn
chế. Hiệu quả thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phát
triển kinh tế tư nhân chưa cao. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế tư nhân, đặc biệt là hạ tầng giao thông và nguồn nhân lực. Thiếu vốn luôn là
vấn đề thách thức lớn đối với các DNTN khi khơng có tài sản thế chấp để vay vốn hoặc tài
sản thế chấp không minh bạch, đang tranh chấp; thiếu dự án khả thi. Bởi vậy, Nhà nước
cần tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân tiếp cận vay vốn ngân hàng, huy động vốn
trên thị trường chứng khoán, phát hành trái phiếu doanh nghiệp và sử dụng các dịch vụ tài
chính với chi phí hợp lý.
2.3. Một số phương hướng, giải pháp huy vai trò của kinh tế tư nhân ở Hải Phịng
Trong chương trình hành động thực hiện Nghị quyết TW 10 khóa XII về phát triển
kinh tế tư nhân, thành phố Hải Phòng đặt ra mục tiêu tiếp tục phát triển kinh tế tư nhân
theo hướng lành mạnh, hiệu quả, bền vững, thực sự trở thành một động lực quan trọng của

nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp phần đưa kinh tế - xã hội thành
phố phát triển nhanh, bền vững, tạo sự phát triển đột phá, tạo thêm việc làm, cải thiện đời
sống nhân dân, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, bảo đảm quốc phịng, an ninh, góp
phần xây dựng Hải Phịng trở thành thành phố Cảng xanh, văn minh, hiện đại.
Đồng thời, nâng cao chất lượng hiệu quả kinh doanh trong khu vực kinh tế tư nhân,
xây dựng doanh nghiệp thành phố Hải Phịng có năng lực cạnh tranh, phát triển bền vững,
xây dựng và phát triển các tập đồn kinh tế tư nhân có tiềm lực mạnh, có khả năng cạnh
tranh trên thị trường trong và ngoài nước; nhiều doanh nhiệp tham gia mạng sản xuất chỗi
giá trị khu vực và toàn cầu.
Về số lượng doanh nghiệp, phấn đấu đến năm 2020, toàn thành phố có trên 33.000
doanh nghiệp hoạt động; đến năm 2025 có trên 42.000 doanh nghiệp hoạt động và đến năm


476

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

2030 có trên 53.000 doanh nghiệp hoạt động. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tư nhân phấn đấu đạt
cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế. Phấn đấu tăng tỷ trọng đóng góp của khu
vực kinh tế tư nhân vào tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) đến năm 2020 đạt khoảng 51% 53%, năm 2025 đạt khoảng 55% - 56%, đến năm 2030 đạt khoảng 60% - 65%.
Để đạt được mục tiêu đặt ra cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho khu vực kinh tế tư
nhân trở thành động lực quan trọng trong phát triển kinh tế, cần thực hiện đồng bộ các giải
pháp sau:
Thứ nhất, tiếp tục thay đổi nhận thức về kinh tế tư nhân. Cần có sự thống nhất nhận
thức trong tồn hệ thống chính trị và nhân dân về vai trị quan trọng của kinh tế tư nhân,
thậm chí cần nhận thấy kinh tế tư nhân không chỉ là quan trọng mà là đầu kéo quan trọng
để phát triển kinh tế. Từ đó khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi để kinh tế tư nhân phát
triển. Cần mạnh dạn giao cho các DNTN có đầy đủ điều kiện đảm nhiệm các lĩnh vực quan
trọng của Nhà nước. Chỉ nên giữ lại các doanh nghiệp nhà nước mang tính chủ đạo.
Thứ hai, tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy, UBND, nâng cao vai trị của các tổ

chức chính trị - xã hội. Phát triển kinh tế tư nhân cần có sự vào cuộc của cả hệ thống chính
trị và các tầng lớp nhân dân. Về phía tổ chức Đảng, nghiêm túc triển khai các Nghị quyết
của Trung ương về phát triển kinh tế tư nhân, ban hành nghị quyết phù hợp với điều kiện
của thành phố và đẩy mạnh việc thực hiện đưa nghị quyết vào cuộc sống. Cần thường
xuyên tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện các nghị quyết. Chính quyền thành phố cần tạo
lập mơi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân. Trên cơ sở thể
chế và chính sách của Nhà nước, thành phố cần tiếp tục có những chính sách mang tính
đặc thù đối với DNTN, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để DNTN phát triển. Cần
có chính sách đột phá như chính sách đầu tư, tín dụng, chính sách về mặt bằng sản xuất,
chính sách thuế, chính sách đào tạo, tiền lương, thu nhập và bảo hiểm xã hội... Phát huy
vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội trong phát triển kinh tế tư nhân. Các tổ chức xã
hội - nghề nghiệp cần nâng cao hiệu quả hoạt động, tích cực phối hợp với các cơ quan
quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh, đào tạo kỹ
thuật và tư vấn cho DNTN.
Được biết, thành phố đã tổ chức nhiều hội nghị xúc tiến về công nghiệp, thương mại,
dịch vụ, khoa học kỹ thuật, tìm cơ hội kết nối các nguồn lực. Thành phố khơng ngừng nỗ
lực cải cách hành chính, cải thiện mơi trường đầu tư kinh doanh. Chủ tịch UBND Thành
phố Hải Phịng đã có chỉ thị u cầu giám đốc các sở, thủ trưởng các ban, ngành, đơn vị có
chức năng thanh tra, kiểm tra, chủ tịch UBND các quận, huyện không tiến hành thanh tra,
kiểm tra quá một lần/năm đối với doanh nghiệp, trừ trường hợp thanh tra, kiểm tra đột
xuất. Đồng thời tổ chức đối thoại doanh nghiệp định kỳ một lần/tháng, lắng nghe ý kiến từ
doanh nghiệp để hoàn thiện cơ chế.
Thứ ba, tiếp tục cải cách các thủ tục hành chính, triển khai việc xây dựng và thực
hiện Nhà nước liêm chính, kiến tạo và phục vụ nhân dân
Hải Phòng là thành phố lớn thứ ba cả nước, trong bối cảnh hiện nay, việc tiến hành
cải cách cách thủ tục hành chính là tất yếu. Xây dựng chính quyền liêm chính, nói khơng


PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - VÇN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN


477

với tham nhũng; có các quy định thưởng phạt nghiêm minh và đề cao ý thức thượng tôn
pháp luật cho tất cả mọi người; từ đó thực sự tạo được niềm tin của người dân, của doanh
nghiệp vào vai trò của Nhà nước trong điều hành đất nước. Cần ngăn chặn lợi ích nhóm,
lợi ích cục bộ chính sách, xử lý nạn tham nhũng, quan liêu - rào cản và gánh nặng chi phí
đối với phát triển của khu vực KTTN; củng cố, xây dựng bộ máy, tuyển dụng người tài, rà
soát lại chức năng, nhiệm vụ của từng cơ quan để tránh chồng chéo, mâu thuẫn và gắn với
cải cách hành chính.
Cần áp dụng mạnh mẽ chính phủ điện tử và chính phủ số ở mọi lĩnh vực để giảm
thiểu và hiện đại hóa thủ tục hành chính, hạn chế tham nhũng, tăng cường tính minh bạch
trong q trình xây dựng và thực hiện chính sách. Đây cũng là những biện pháp góp phần
đẩy nhanh q trình chính thức hóa nền kinh tế và thị trường lao động.
Thứ tư, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, hiện đại hóa cơng nghệ và phát triển
nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động. Thành phố cần tiếp tục khuyến khích, hỗ
trợ kinh tế tư nhân đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu, chuyển giao cơng nghệ tiên tiến.
Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt
động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa cơng nghệ.
Thành phố cần đặc biệt quan tâm tới việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương theo hướng đào tạo – chuyển giao,
đáp ứng nhu cầu tại chỗ. Với sự phát triển mạnh về công nghiệp và các dịch vụ du lịch,
dịch vụ y tế của địa phương thời gian qua, nhu cầu tuyển dụng lao động đối với các lĩnh
vực này ngày càng lớn. Bởi vậy, thành phố cần tiếp tục đầu tư, phát triển các loại hình đào
tạo, chú trọng đào tạo nghề và kỹ sư công nghệ, đầu tư trọng điểm các ngành địa phương
có nhu cầu cao. Bên cạnh đó, cần đổi mới căn bản hệ thống giáo dục và đào tạo, trong đó
gắn giáo dục - đào tạo với hoạt động thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc đẩy văn hóa
khởi nghiệp, có định hướng rõ rệt ưu tiên về chính sách và các nguồn lực cho các ngành
kinh tế trọng điểm của thành phố. Trong đào tạo nhân lực chất lượng cao, cần tạo dựng
văn hóa sáng tạo và tinh thần khởi nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường, hình thành ý chí tự thân lập nghiệp để sẵn sàng cho tương lai.

Thứ năm, phát triển mạnh lực lượng doanh nghiệp trong nông nghiệp và ở nông thôn
Trong lịch sử, Hải Phịng đã có nhiều đột phá và đạt thành tựu lớn về kinh tế nói
chung và nơng nghiệp nói riêng. Hiện tại, Hải Phịng cần tiếp tục quan tâm tới việc phát
triển kinh tế nông nghiệp. Điều này vừa giúp phát huy tiềm năng, thế mạnh và truyền
thống của địa phương, đồng thời, góp phần vào duy trì sự ổn định, cân bằng về kinh tế bởi
nơng nghiệp luôn là lĩnh vực quan trọng đảm bảo an ninh lương thực và giúp giải quyết
việc làm cho một lực lượng lớn lao động nông thôn. Hướng đột phá trong thời gian tới là
phải thoát ra khỏi tư duy của nền kinh tế nông nghiệp truyền thống, chuyển mạnh từ chỗ
sản xuất lấy số lượng làm mục tiêu sang chú trọng chất lượng, giá trị và hiệu quả, chuyển
từ mơ hình sản xuất nơng nghiệp khép kín, nhỏ lẻ, thiếu liên kết, chủ yếu ở quy mơ hộ gia
đình sang mơ hình sản xuất nơng nghiệp quy mơ lớn, dựa vào doanh nghiệp và trang trại,
hoạt động theo cơ chế thị trường và đủ sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế. Đặc biệt,


478

KINH TẾ TƯ NHÅN Ở HÂI PHÒNG - THỰC TRÄNG VÀ GIÂI PHÁP

cần chú trọng vai trị của cơng nghệ, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ xanh và công
nghệ sạch trong việc nâng cao chất lượng và giá trị của các sản phẩm nông nghiệp. Cần
giải quyết một số “điểm nghẽn”, như các vấn đề về kết cấu hạ tầng, tích tụ, tập trung đất
đai, phát triển nguồn nhân lực, hợp đồng sản xuất... thông qua những thay đổi chính sách
để thu hút được nhiều đầu tư hơn từ khu vực KTTN vào khu vực nông nghiệp và nơng
thơn. Để làm được điều này, cần có sự tham gia tích cực của cấp uy Đảng các cấp, đặc biệt
là chính quyền địa phương, với vai trị điều phối, bảo lãnh trong mối quan hệ giữa doanh
nghiệp với người nơng dân để giúp tháo gỡ, xử lý những khó khăn mà cả hai bên khó vượt
qua được.
3. KẾT LUẬN

Hải Phịng là một thành phố trực thuộc Trung ương có nội lực rất lớn. Cùng với sự

phát triển của đất nước, thành phố đang thay đổi rất nhanh chóng trong những năm gần
đây. Việc phát triển kinh tế tư nhân là một nhân tố không chỉ bảo đảm cho việc duy trì tốc
độ tăng trưởng GDP cao, tạo nguồn thu cho ngân sách mà còn tham gia vào giải quyết
hàng loạt những vấn đề xã hội như: tạo việc làm, xóa đói, giảm nghèo, phát triển nguồn
nhân lực,… Trong bối cảnh ngân sách Trung ương cịn khó khăn, cùng với đó là xu hướng
suy giảm của dịng vốn ngoại... thì những chính sách khuyến khích khu vực tư nhân tham
gia đầu tư là rất cần thiết. Nếu biết phát huy đầy đủ sức mạnh và khả năng sáng tạo của
khu vực tư nhân, thì kinh tế Hải Phịng nói riêng và Việt Nam nói chung sẽ tiếp tục tăng
trưởng cao trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHÂO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương
Khóa XII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội
2. />3. />4. />


×