Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

TIỂU LUẬN Môn Tài chính quốc tế NGHIÊN CỨU CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở THÁI LAN DỰA TRÊN LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (815.73 KB, 35 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA SAU ĐẠI HỌC
---------***--------

TIỂU LUẬN
Môn: Tài chính quốc tế
NGHIÊN CỨU
CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở THÁI LAN
DỰA TRÊN LÝ THUYẾT BỘ BA BẤT KHẢ THI

Học viên

: Nguyễn Thị Kim Duyên – 820458
Đinh Thị Hà Giang – 820459
Trần Xuân Thắng – 820478
Nguyễn Thanh Thư – 820480

Lớp

: Tài chính Ngân hàng Khóa 27B

Giảng viên

: PGS, TS Mai Thu Hiền

Hà Nội, Tháng 12 năm 2021


MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT ........................................................................ 2


1.1. Lý thuyết về bộ ba bất khả thi ..........................................................................2
1.2. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính .................................................................9
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ PHÂN TÍCH CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH Ở THÁI LAN 1997-1998 .......................................................................... 15
2.1. Thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan 1997-1998 .........15
2.2. Phân tích nguyên nhân và tác động của cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái
Lan 1997 – 1998 ....................................................................................................21
CHƯƠNG 3: BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP . 25
3.1. Bài học kinh nghiệm.......................................................................................25
3.2. Khuyến nghị giải pháp ...................................................................................26
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................... 29


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
THB

Đồng Baht Thái

BIBF

Cơ sở Ngân hàng Quốc tế Bangkok


DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1: Hình minh họa đường IS (trái) và LM (phải) .............................................2
Hình 1.2: Tam giác bộ ba bất khả thi ..........................................................................7
Hình 1.3: Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất (Krugman, 1979) .........................11
Hình 1.4: Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ hai .......................................................13
Hình 1.5: Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ ba .........................................................14

Hình 2.1: Các tiền đề của cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan 1996 – 1997 .....21


DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: GDP của Thái Lan giai đoạn 1985 – 1995 ...............................................15
Bảng 2.3: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (sang đơ la Mỹ), trung bình kỳ .....................16
Bảng 2.4: Tỷ lệ lạm phát (%) ....................................................................................16
Bảng 2.5: Tỷ giá hối đối Baht/USD bình qn năm 1996 và 1997 ........................18
Bảng 2.6: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính ............18
Biểu đồ 2.1: Lịch sử tăng trưởng GDP của Thái Lan ...............................................20
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nợ xấu trong các định chế tài chính của Thái Lan 1998 - 2005 .20


1

LỜI MỞ ĐẦU
Trong một nền kinh tế, khủng hoảng có thể xảy ra bất cứ lúc nào và phá hủy
mọi thành quả của một thời kỳ. Đó là lý do tại sao có nhiều nhà kinh tế đã dày cơng
nghiên cứu về vấn đề này để giúp các nước đưa ra các giải pháp nhằm tránh hoặc
làm suy yếu hậu quả của hiện tượng này.
Có rất nhiều lý thuyết được đưa ra để giải quyết các vấn đề kinh tế. Trong
hồn cảnh đó, bộ ba bất khả thi đã ra đời. Mơ hình chính thức cho giả thuyết này là
mơ hình Mundell-Fleming được phát triển vào những năm 1960 bởi Robert
Mundell và Marcus Fleming. Ý tưởng về bộ ba bất khả thi đã xuất phát từ sự tò mò
về lý thuyết để trở thành nền tảng của kinh tế vĩ mô nền kinh tế mở vào những năm
1980, vào thời điểm đó việc kiểm sốt vốn đã bị phá vỡ ở nhiều quốc gia, và xung
đột rõ ràng giữa tỷ giá hối đoái được chốt và quyền tự chủ của chính sách tiền tệ.
Ở châu Á, cuộc khủng hoảng ở Thái Lan năm 1997 - 1998 rất nổi tiếng và có
ảnh hưởng trên diện rộng đến các nước trong khu vực cũng như trên thế giới. Cuộc
khủng hoảng này có thể được giải thích rõ ràng bởi lý thuyết bộ ba bất khả thi và

chúng ta có thể rút ra một số bài học từ trường hợp này.
Xuất phát từ tình hình thực tế trên đây, chúng em chọn đề tài “Nghiên cứu
cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan dựa trên lý thuyết bộ ba bất khả thi”
nhằm mục tiêu tìm hiểu kỹ hơn về trường hợp cụ thể này và bài học rút ra cho các
quốc gia.
Nội dung bài viết được kết cấu thành 3 chương sau:
- Chương 1: Cơ sở lý thuyết
- Chương 2: Thực trạng và phân tích cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan
- Chương 3: Bài học kinh nghiệm và khuyến nghị giải pháp
Qua bài viết này, chúng em xin gửi lời cảm ơn đến cô Mai Thu Hiền, giảng
viên hướng dẫn chúng em hoàn thành bài tiểu luận này!
Chúng em xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng 12 năm 2021


2

CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
1.1. Lý thuyết về bộ ba bất khả thi
Lý thuyết bộ ba bất khả thi (cịn gọi là “Bộ ba chính sách khơng thể đồng
thời” hoặc “Tam nan kinh tế”, tiếng anh “The Impossible Trinity” hoặc “The
Trilemma”) là một chính sách kinh tế quốc tế. Lý thuyết đưa ra rằng một quốc gia
không thể đồng thời cùng thực hiện một lúc 2 mục tiêu chính sách vĩ mô: (1) Cố
định tỷ giá, (2) Tự do lưu chuyển vốn (khơng có kiểm sốt vốn) và (3) Chính sách
tiền tệ độc lập (Robert Mundell – Paul Krugman, 1999). Lý thuyết này cịn dùng để
chỉ tình thế kinh tế dễ đổ vỡ khi mà một quốc gia cố tình thi hành ba chính sách trên
cùng lúc (Wikipedia, 2021).
Mơ hình chính thức cho giả thuyết này là mơ hình Mundell-Fleming được phát triển
vào những năm 1960 bởi Robert Mundell và Marcus Fleming xây dựng một cách
độc lập. Sau đó, Krugman (1979) và Frankel (1999) đã mở rộng mơ hình MundellFleming thành “mơ hình bất khả thi”. Mơ hình Mundell-Fleming sử dụng 2 đường

IS (Investment/Saving - Đầu tư/Tiết kiệm) và LM (Liquidity preference/Money
supply - Nhu cầu thanh khoản/Cung tiền) để phân tích tác động của các chính sách
kinh tế vĩ mô được thực hiện trong một nền kinh tế mở cửa.
Hình 1.1: Hình minh họa đường IS (trái) và LM (phải)

Nguồn: Wikipedia (2021)


3
Ghi chú: Y: thu nhập, sản lượng, e: tỷ giá hối đối, NX: xuất khẩu rịng, r: lãi suất
trong nước, r*: lãi suất quốc tế
Mơ hình cho thấy mối quan hệ giữa sản lượng với tỷ giá hối đoái danh nghĩa trong
ngắn hạn. Đường IS* dốc xuống vì tỷ giá hối đối cao hơn làm giảm xuất khẩu rịng
(NX), qua đó làm giảm tổng thu nhập. Đường LM* là một đường thẳng đứng, vì tỷ
giá hối đối khơng được đưa vào trong phương trình của LM*.
Ý tưởng về bộ ba bất khả thi đã xuất phát từ sự tò mò đơn thuần ban đầu và rồi sau
đó trở thành nền tảng của kinh tế vĩ mô nền kinh tế mở vào những năm 1980, vào
thời điểm đó việc kiểm sốt vốn đã bị phá vỡ ở nhiều quốc gia, và xung đột rõ ràng
giữa tỷ giá hối đoái cố định và tự chủ của chính sách tiền tệ. Giả sử một nước cố
gắng thực hiện cả ba chính sách trên đồng thời. Khi kinh tế tăng trưởng nhanh, vốn
nước ngoài sẽ chảy vào trong nước gây ra áp lực tăng giá nội tệ. Khi đó, ngân hàng
trung ương muốn bảo vệ chế độ tỷ giá cố định thì phải thực hiện chính sách tiền tệ
nới lỏng. Song điều này có thể làm tăng lượng cung tiền trong lưu thông dẫn đến
tăng tốc lạm phát. Muốn lạm phát không tăng tốc, thì phải thực hiện chính sách
thanh khoản đối ứng. Song như thế thì vốn nước ngồi càng chảy vào nhiều. Đầu
thập niên 1990, một số nước châu Á đã cố gắng thực hiện đồng thời ba chính sách
và hậu quả là rơi vào khủng hoảng.
1.1.1. Cố định tỷ giá
Định nghĩa
Tỷ giá hối đoái cố định là một loại chế độ tỷ giá hối đối trong đó giá trị của một

loại tiền tệ được so khớp với giá trị của một loại tiền tệ đơn lẻ khác hoặc với một rổ
tiền tệ khác hoặc với một thước đo giá trị khác, chẳng hạn như vàng. Trong chế độ
tỉ giá cố định, tỉ giá sẽ do Ngân hàng Trung ương ấn định tại một mức cụ thể. Tất cả
các tác nhân trong nền kinh tế được yêu cầu phải giao dịch tại mức tỉ giá đã qui định
này. (Nhi, 2019).
Ưu điểm của tỷ giá hối đối cố định


Tính ổn định: Với mục tiêu tạo bầu khơng khí ổn định cho đầu tư nước ngồi,
nhiều nước áp dụng chính sách tỷ giá hối đoái cố định để thu hút các nhà đầu tư.


4
Ngồi ra, tỷ giá hối đối cố định có thể giúp giảm thiểu rủi ro trong thương mại
quốc tế.


Dễ dàng dự đoán: Do giá trị của một loại tiền tệ được so khớp với giá trị của
một loại tiền tệ đơn lẻ khác hoặc với một rổ tiền tệ khác hoặc với một thước đo
giá trị khác, chẳng hạn như vàng, do đó, nó dễ dàng hơn cho các nhà đầu tư
cũng như các các đối tác trong nền kinh tế để có dự báo về các sự kiện sắp tới.



Thuận tiện để đạt được các mục tiêu khác trong nền kinh tế: tỷ giá hối đối cố
định có thể hỗ trợ cho các mục tiêu khác cần đạt được trong nền kinh tế.

Nhược điểm của tỷ giá hối đoái cố định
Bên cạnh những điểm mạnh nêu trên, tỷ giá hối đối cố định cịn bộc lộ một số
nhược điểm như:



Quá cứng nhắc, làm cho thị trường hoạt động sai hướng



Gây áp lực lên quỹ quốc gia

1.1.2. Tự do lưu chuyển vốn
Định nghĩa
Tự do lưu chuyển vốn, theo nghĩa rộng, đề cập đến việc nới lỏng các hạn chế đối
với dòng vốn qua biên giới của một quốc gia.
Ưu điểm của tự do lưu chuyển vốn


Mức độ hội nhập tài chính cao hơn với nền kinh tế tồn cầu thơng qua khối
lượng dịng vốn vào và ra cao hơn.



Khi các nước áp dụng cơ chế tự do hóa tài khoản vốn, việc di chuyển vốn ra
khỏi biên giới để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn cũng như đa dạng hóa rủi ro sẽ trở
nên dễ dàng hơn. Bên cạnh đó, do mở cửa quy định về luân chuyển vốn, các
quốc gia có thể thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư từ bên ngồi do chi phí sử
dụng vốn giảm do bỏ các loại thuế liên quan đến đầu tư hoặc cho vay ra nước
ngoài. Cả hai điểm trên đều dẫn đến một thực tế là với khối lượng lớn hơn và
tốc độ luân chuyển của vốn được nới lỏng thì chu kỳ và lượng vốn sẽ tăng lên.


5

Điều này hỗ trợ nền kinh tế trong nước đầu tư thêm nguồn lực để phát triển và
đủ khả năng chi trả cho các hoạt động tài chính của Chính phủ.


Tự do hóa tài khoản vốn sẽ cho phép phân bổ vốn hiệu quả hơn trên toàn cầu, từ
các nước công nghiệp giàu vốn đến các nền kinh tế đang phát triển nghèo vốn.
Điều này sẽ mang lại lợi ích rộng rãi bằng cách cung cấp tỷ suất lợi nhuận cao
hơn từ khoản tiết kiệm của người dân ở các nước công nghiệp và bằng cách tăng
tốc độ tăng trưởng, cơ hội việc làm và mức sống ở các nước đang phát triển.



Với sự ln chuyển vốn, nó có thể tạo ra nhiều cơ hội hơn cho các nước đang
phát triển và các nước nghèo tiếp cận nguồn vốn từ nước ngoài. Số vốn này sẽ
được sử dụng để xây dựng cơ sở hạ tầng và đầu tư vào các dự án kinh tế ở các
nước kém phát triển. Nhờ đó, nó sẽ giúp các nước này cải thiện tình hình của
mình, phát triển kinh tế và khoảng cách giữa các nước phát triển và kém phát
triển sẽ được giảm đáng kể.

Nhược điểm của tự do hóa tài khoản vốn


Khó kiểm soát thu nhập và khối lượng kết quả của một quốc gia: Vốn có thể
đến hoặc ra khỏi một quốc gia một cách dễ dàng. Nó đặt ra một vấn đề cho các
nhà làm luật và các nhà điều hành. Về phía các nhà làm luật, việc di chuyển dễ
dàng có thể dẫn đến một thực tế là ngày càng có nhiều vốn bất hợp pháp di
chuyển ra nước ngồi. Nó có thể gây thiệt hại cho hoạt động kinh doanh trên thị
trường trong nước cũng như thị trường quốc tế vì người dân có thể sử dụng tiền
bất hợp pháp để sản xuất các sản phẩm bị cấm như ma túy, chất độc, v.v. Đối
với các nhà điều hành, họ rất khó kiểm sốt khối lượng thu nhập hoặc kết quả

đất nước vì tính linh hoạt của vốn - nó có thể đến và đi bất cứ khi nào và bất cứ
nơi đâu. Các chính phủ trở nên khó khăn khi đưa ra bất kỳ chính sách nào trong
mơi trường tự do hóa vốn và theo đuổi các chiến lược kinh tế của riêng họ.



Dễ dẫn đến khủng hoảng: Do đó vốn có thể đến cùng lúc và tăng đột biến lượng
vốn đầu tư vào trong nước và sau khoảng thời gian đó nếu có vấn đề gì thì vốn
rút ra khơng thể đốn trước được. Điều này thực sự có thể gây tổn hại cho nền
kinh tế, đặc biệt là các nước đang phát triển và nghèo vì hệ thống kinh tế ở đây


6
rất yếu và không thể phản ứng trơn tru với loại hiện tượng này. Sau đó, rất dễ
dẫn đến khủng hoảng tài chính như trường hợp của Thái Lan năm 1997 - 1998.
1.1.3. Độc lập tiền tệ
Định nghĩa
Chính sách tiền tệ là quá trình cơ quan quản lý tiền tệ của một quốc gia kiểm soát
việc cung ứng tiền, thường nhằm vào một tỷ lệ lãi suất. Chính sách tiền tệ độc lập
có nghĩa là các nhà hoạch định chính sách có thể đưa ra quyết định về cung tiền của
một quốc gia mà khơng có sự can thiệp của các thành phần khác của chính phủ,
chẳng hạn như cơ quan lập pháp hoặc nguyên thủ quốc gia. Tính độc lập này cho
phép chính sách tiền tệ dựa trên các cân nhắc về kinh tế, thay vì chính trị.
Ưu điểm của chính sách tiền tệ độc lập


Ưu điểm nhất của chính sách tiền tệ độc lập là khả năng của ngân hàng trung
ương trong việc kiểm soát cung tiền để tăng hoặc giảm lãi suất. Để tăng lãi suất
ở một quốc gia có tỷ giá hối đối cố định, nó có thể giảm lượng tiền trên thị
trường bằng cách mua nội tệ. Ngược lại, lãi suất giảm dễ dàng xảy ra nếu một

quốc gia bán đồng tiền của mình.



Ngồi ra, chính sách tiền tệ độc lập mang lại cho ngân hàng trung ương khả
năng đạt được các mục tiêu kinh tế. Khi các ngân hàng trung ương đầu tiên
được thành lập, mục tiêu chính của họ là in tiền và đảm bảo rằng số tiền này
được chuyển đến các điểm đến thích hợp của họ. Tuy nhiên, giờ đây, nhiệm vụ
của ngân hàng trung ương đã thay đổi. Các ngân hàng trung ương hiện đang
chịu sự chi phối của nền kinh tế, mục tiêu của họ giờ là để giảm lạm phát và thất
nghiệp, cũng như ổn định hệ thống kinh tế. Ví dụ, ngân hàng trung ương giảm
lạm phát, nguyên nhân gây ra cung tiền dư thừa bằng cách cung cấp tỷ lệ dự trữ
bắt buộc cao hơn cho ngân hàng thương mại. Hơn nữa, ngân hàng trung ương
duy trì lãi suất thấp để thu hút đầu tư nước ngồi và giảm tỷ lệ thất nghiệp.



Ưu điểm cuối cùng của chính sách tiền tệ độc lập là lãi suất linh hoạt tạo thuận
lợi cho hoạt động đầu tư. Xu hướng tồn cầu hóa trên thế giới dẫn đến sự dịch
chuyển đầu tư từ quốc gia này sang quốc gia khác. Nhà đầu tư quyết định đầu tư


7
sau khi so sánh lợi thế của nước sở tại bao gồm cả lãi suất. Lãi suất thấp đối với
một quốc gia có nghĩa là hoạt động kinh doanh ở đây có chi phí cơ hội thấp hơn
so với phần cịn lại của thế giới. Chính sách tiền tệ độc lập có thể kiểm sốt lãi
suất như một yếu tố chính sách quan trọng để tạo lợi thế cho các hoạt động đầu
tư.
Nhược điểm của chính sách tiền tệ độc lập



Chính sách tiền tệ khơng hiệu quả theo tỷ giá hối đoái cố định. Với tỷ giá hối
đoái cố định, cần từ bỏ một chính sách tiền tệ độc lập. Khơng thể sử dụng chính
sách tiền tệ để đạt được mục tiêu lạm phát trong nước hoặc cố gắng điều hòa
chu kỳ kinh doanh trong nước. Hy vọng duy nhất cho chính sách tiền tệ độc lập
là các biện pháp kiểm soát vốn để ngăn chặn các thương nhân mua hoặc bán nội
tệ. Nhưng các biện pháp kiểm soát vốn làm giảm thương mại và đầu tư trực tiếp
nước ngoài, đồng thời tạo cơ hội cho tham nhũng.

1.1.4. Nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi
Hình dưới minh họa nguyên tắc hoạt động của bộ ba bất khả thi.
Hình 1.2: Tam giác bộ ba bất khả thi

Nguồn: Bài giảng trường Đại học Fullbright Việt Nam (Tuấn, 2019)
Mỗi đỉnh thể hiện cho các mục tiêu, lần lượt là: chính sách tiền tệ độc lập, ổn định
tỷ giá và hội nhập tài chính hồn tồn. Đối nghịch với mỗi đỉnh (hay mỗi mục tiêu)
là các cơng cụ chính sách tại các cạnh. Mục tiêu hội nhập tài chính đối ngược với
kiểm soát vốn, mục tiêu ổn định tỷ giá đối ngược với thả nổi tỷ giá, mục tiêu chính


8
sách tiền tệ độc lập đối ngược với phụ thuộc tiền tệ. Bất kỳ cặp mục tiêu nào cũng
có thể đạt được bởi một cạnh nằm giữa và một quốc gia hồn tồn khơng khả thi để
đạt được đồng thời cả 3 mục tiêu. Cụ thể:
- Ổn định tỷ giá và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ
giá cố định nhưng phải từ bỏ độc lập tiền tệ. Điều này có nghĩa chính phủ đã mất đi
một công cụ để điều chỉnh lãi suất trong nước độc lập với lãi suất nước ngoài.
- Độc lập tiền tệ và hội nhập tài chính được kết hợp bằng cách lựa chọn chế độ tỷ
giá thả nổi. Với lựa chọn này, chính phủ (Ngân hàng Trung ương) được quyền tự do
ấn định lãi suất nhưng đổi lại tỷ giá phải vận hành theo những nguyên tắc của thị

trường.
- Ổn định tỷ giá và độc lập tiền tệ được kết hợp bằng cách lựa chọn thị trường vốn
đóng hay chính phủ phải thiết lập kiểm sốt vốn hồn tồn. Khi có kiểm sốt vốn,
mối liên hệ giữa lãi suất và tỷ giá sẽ bị phá vỡ.
Theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, nếu hai trong ba chỉ số đã gia tăng thì chỉ số cịn
lại chắc chắn sẽ đi theo xu hướng ngược lại như một sự đánh đổi bắt buộc (Hồng,
2012).


9
1.2. Lý thuyết về khủng hoảng tài chính
Khủng hoảng tài chính có thể hiểu trạng thái sụt giảm mạnh trong ngắn hạn về giá
trị của các tài sản tài chính, các tổ chức tài chính, và sự đổ vỡ của hệ thống tài
chính. (Tuấn, 2016).
Một số dấu hiệu trước một cuộc khủng hoảng bao gồm:
-

Tự do hóa tài chính

-

Tự do hóa tài khoản vốn

-

Tỷ giá được cố định hay gần như cố định

-

Sự yếu kém của hệ thống tài chính, nhất là các ngân hàng trong nước


-

Tăng trưởng quá nóng của thị trường chứng khoán, bất động sản

-

Hệ thống thể chế, giám sát không theo kịp sự cách tân của thị trường tài chính

1.2.1. Các dạng chính của khủng hoảng tài chính
Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù: Khủng hoảng tiền tệ (cán cân thanh
toán); Khủng hoảng ngân hàng; Khủng hoảng nợ quốc gia; Khủng hoảng thị trường
chứng khốn; Khủng hoảng kép; Khủng hoảng “bong bóng” tài sản; Khủng hoảng
nợ dưới chuẩn; Khủng hoảng nợ công. Đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ
bản và trong tương lai có thể xuất hiện thêm nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển
của thị trường tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế.
1.2.1.1. Khủng hoảng ngân hàng
Các nhà kinh tế học theo trường phái trọng tiền, dẫn đầu là Friedman và Schwartz
(1963) cho rằng khủng hoảng tài chính là do sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng
(banking panics) gây nên sự co hẹp cung tiền tệ, dẫn đến sự suy thoái trong tổng cầu
tiêu dùng và đầu tư. Trên thực tế sự hoảng loạn của hệ thống ngân hàng có thể được
hiểu là sự khủng hoảng ngân hàng. Theo quan điểm của Luc Laeven và Fabian
(2008), khủng hoảng ngân hàng mang tính hệ thống (systemic banking crisis), các
tổ chức tài chính và tập đồn xảy ra đổ vỡ, gặp khó khăn lớn trong việc hoàn trả các
hợp đồng kịp thời. Dẫn đến, các khoản nợ xấu tăng đột biến và toàn bộ hoặc phần
lớn vốn của hệ thống ngân hàng bị cạn kiệt. Tình trạng này có thể đi kèm với giá tài
sản (như giá cổ phiếu và bất động sản) bị đẩy lên đỉnh điểm trước khi xuất hiện


10

khủng hoảng, tăng đột ngột về lãi suất thực và giảm tốc độ lưu chuyển hoặc đảo
chiều dòng vốn. Trong một số trường hợp hiện tượng đột biến rút tiền gửi lan truyền
có thể dẫn tới khủng hoảng ngân hàng hệ thống. Đột biến rút tiền gửi (bank run) xẩy
ra khi người gửi tiền mất lòng tin vào khả năng thanh toán của ngân hàng và nhận
thấy rủi ro cao với số tài sản của mình, dẫn đến hành động đồng loạt rút tiền. Về
phía ngân hàng, tại một thời điểm nhất định ngân hàng không dự trữ nhiều tiền mặt,
đồng thời không thể lập tức thu hồi các khoản tiền ngân hàng cho vay, nên khi
người gửi tiền theo tâm lý bầy đàn (herding mentality) đổ xô đến rút tiền, gây ra rối
loạn tài chính cho ngân hàng và đôi khi cho cả hệ thống ngân hàng.
1.2.1.2. Khủng hoảng tiền tệ
Theo Paul Krugman (1979) định nghĩa khủng hoảng tiền tệ là khủng hoảng trong
cán cân thanh tốn khi chính phủ khơng cịn khả năng giữ cho tỷ giá hối đoái nằm ở
một mức cố định hoặc giữ cho đồng nội tệ ít trượt giá do sự tấn cơng của các nhà
đầu cơ tiền tệ.
Nghiên cứu của Kaminsky, Lizondo, Reinhart (1997) định nghĩa khủng hoảng tiền
tệ là tình huống có một sự tấn công vào tiền tệ dẫn đến sự phá giá tiền tệ, sụt giảm
mạnh dự trữ ngoại hối hoặc kết hợp cả hai.
Khủng hoảng tiền tệ liên quan đến việc chính phủ duy trì tỷ giá hối đối cố định, khi
sức ép giảm giá trị đồng nội tệ, chính phủ phải bán ngoại tệ bảo vệ tỷ giá, lượng dự
trữ ngoại hối cạn kiệt, chính phủ buộc phải chấm dứt tỷ giá cố định chuyển sang thả
nổi tỷ giá, dẫn tín hiệu cho các cuộc tấn cơng mang tính đầu cơ vào đồng nội tệ và
là khởi phát một cuộc khủng hoảng kinh tế.
Thực tiễn cho thấy, khi chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt có thể gây ra
suy thối nghiêm trọng, làm giảm sản lượng và thất nghiệp tăng. Chiều ngược lại,
chính sách tiền tệ mở rộng quá mức dẫn đến lạm phát cao, làm giảm hiệu quả của
nền kinh tế và cản trở tăng trưởng kinh tế. Một quốc gia phát triển kinh tế bền vững
khi chính phủ điều hành chính sách tiền tệ linh hoạt, đúng đắn. Nhằm ổn định thị
trường tài chính, tiền tệ phịng tránh nguy cơ xẩy ra khủng hoảng



11
1.2.1.3. Khủng hoảng kép
Sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á 1997- 1998 các mơ hình cảnh báo
thế hệ thứ ba được xây dựng. Theo Kaminsky và Reinhart (1999), mơ hình cảnh báo
thế hệ thứ ba là mơ hình cảnh báo về khủng hoảng kép, gắn kết giữa khủng hoảng
ngân hàng và khủng hoảng tiền tệ thông qua một khu vực tài chính mong manh dễ
đổ vỡ. Theo họ, nợ xấu trong hệ thống ngân hàng thường là một trong những
nguyên nhân gây khủng hoảng ngân hàng nhưng thường đi trước khủng hoảng tiền
tệ. Khi khủng hoảng tiền tệ xảy ra thì sẽ nhanh chóng tác động làm trầm trọng
khủng hoảng ngân hàng, kết quả là nền kinh tế rơi vào khủng hoảng kép.
1.2.2. Các mơ hình khủng hoảng tiền tệ cơ bản
1.2.2.1. Mơ hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ nhất
Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được Paul Krugman xây dựng vào năm 1979
và đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng thâm hụt tài khoản vãng lai trong điều kiện
tỷ giá cố định bị các hoạt động đầu cơ tấn cơng. Mơ hình này xảy ra ở một số quốc
gia đang phát triển có nền tảng kinh tế yếu kém và bắt nguồn từ chính sách duy trì
chế độ tỷ giá hối đối cố định từ chính phủ.
Hình 1.3: Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất (Krugman, 1979)
Quốc gia
• Nền tảng kinh tế yếu kém
• Tỷ giá hối đối cố định
Thâm hụt ngân sách

Tấn công đầu cơ

Thả nổi tỷ giá

Nguồn: tự tổng hợp

Phát hành tiền


Sức ép lên tỷ giá cố định

Dự trữ ngoại hối suy giảm

Bán ngoại tệ

Khủng hoảng tiền tệ


12
Do thị trường tài chính kém phát triển nên chính phủ tại các quốc gia này không thể
thực hiện các hoạt động thị trường mở hay can thiệp vào thị trường ngoại hối kỳ hạn
mà chỉ có thể bảo vệ tỷ giá cố định bằng cách trực tiếp mua hoặc bán ngoại tệ trong
thị trường ngoại hối. Tuy nhiên, việc bảo vệ tỷ giá thường không kéo dài được lâu.
Đồng nội tệ luôn đứng trước sức ép phải giảm giá (thường thì do chính phủ in tiền
để bù đắp thâm hụt ngân sách), chính phủ liên tục phải bán ngoại tệ để bảo vệ tỷ giá
cố định khiến cho dự trữ ngoại hối ngày càng giảm. Vào thời điểm ngay trước khi
nguồn dự trữ ngoại hối cạn kiệt, sự suy yếu của các yếu tố kinh tế vĩ mô căn bản trở
thành tín hiệu cho các cuộc tấn cơng mang tính đầu cơ vào đồng tiền nội tệ. Hành
động đầu cơ kết hợp với các điều kiện nền tảng kinh tế vĩ mơ yếu kém đã khiến
chính phủ buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá,
kéo theo sự sụt giảm liên tục của đồng nội tệ dẫn đến hệ quả là cuộc khủng hoảng
tiền tệ.
Mơ hình này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số quốc gia
Mỹ La Tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong những năm
1990.
1.2.2.2. Mơ hình khủng hoảng tiền tệ thế hệ thứ hai
Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obsfeld xây dựng vào năm 1994 và
1995. Obstfeld cho rằng không chỉ những quốc gia kém phát triển với nguồn dự trữ

ngoại hối hạn hẹp mới khơng thể duy trì chế độ tỷ giá cố định dẫn đến khủng hoảng
tiền tệ mà thậm chí ngay cả những nền kinh tế phát triển với nguồn dự trữ dồi dào
cũng có thể khơng duy trì được tỷ giá cố định.
Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ hai có thể được tìm thấy trong cuộc khủng hoảng
hệ thống tiền tệ Châu Âu (1992 – 1993) và khủng hoảng đồng peso Mexico (1994).


13
Hình 1.4: Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ hai
Chính phủ
Có 2 lựa chọn
Thả nổi tỷ giá

Tiếp tục duy trì tỷ
giá cố định

Uy tín của chính phủ
gia tăng

Lãi suất gia
tăng
Xảy ra cùng lúc

Tác động xấu đến nền kinh tế
• Tỷ lệ thất nghiệp gia tăng
• Tỷ lệ nợ xấu gia tăng

Tấn công đầu
cơ đồng nội tệ


Khủng hoảng tiền tệ

Nguồn: tự tổng hợp
Đứng trước sức ép phải thả nổi tỷ giá, việc chính phủ có thể duy trì được tỷ giá cố
định sẽ khiến cho uy tín của chính phủ được gia tăng trong dài hạn, tuy nhiên việc
bảo vệ tỷ giá cũng sẽ gây ra những tác động tiêu cực tới nền kinh tế trong nước khi
mà lãi suất bị đẩy lên cao gây tác động xấu tới nền kinh tế và làm gia tăng tỷ lệ thất
nghiệp. Ngoài ra, lãi suất tăng cũng khiến cho các ngân hàng phải trả lãi cao hơn
đối với tiền gửi. Các doanh nghiệp cũng sẽ gặp khó khăn đối với các khoản nợ, dẫn
đến tỷ lệ nợ khó địi và tình trạng vỡ nợ tăng cao. Đứng trước sự cân đối giữa lợi ích
và chi phí, chính phủ có thể lựa chọn giữa việc duy trì tỷ giá cố định hay quyết định
thả nổi tỷ giá. Giới đầu cơ và các nhà đầu tư lúc này sẽ tìm cách kiếm lời bằng cách
bán đồng nội tệ để mua vào ngoại tệ. Vào thời điểm mà giới đầu cơ phỏng đốn
chính xác quyết định thả nổi tỷ giá của chính phủ, khủng hoảng tiền tệ sẽ diễn ra.


14
1.2.2.3. Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ ba
Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999) xây dựng,
đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế
(Balance of Payment). Khủng hoảng tài khoản vốn thường dẫn đến khủng hoảng
“kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng. Mơ hình khủng hoảng này
thường xảy ra tại các quốc gia hướng tới sự tự do hoá tài khoản vốn nhưng hệ thống
tài chính nội địa kém ổn định, quá tập trung vào các ngân hàng, quá tự tin vào sự
phát triển của các định chế tài chính mà khơng tập trung xây dựng hệ thống giám sát
hiệu quả.
Hình 1.5: Mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ ba

Nguồn: Bài giảng trường Đại học Fullbright Việt Nam (Tuấn, 2019)
Cuộc khủng hoảng tài chính – tiền tệ châu Á 1997 – 1998 được coi là ví dụ điển

hình của mơ hình khủng hoảng thế hệ thứ ba, trong đó Thái Lan sẽ được đi sâu phân
tích ở Chương 2.


15

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VÀ PHÂN TÍCH CUỘC
KHỦNG HOẢNG TÀI CHÍNH Ở THÁI LAN 1997-1998
2.1. Thực trạng cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở Thái Lan 1997-1998
2.1.1. Giai đoạn trước khủng hoảng
Từ 1986-1990, tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân của Thái Lan là
28%/năm; giá trị xuất khẩu tính theo đầu người đạt 630 USD/người năm
1991 lên 1177 USD/người năm 1996. Trong suốt giai đoạn 1985 – 1995,
GDP của Thái Lan không ngừng tăng qua các năm. Đến năm 1995, GDP đạt
mức cao nhất, gần 168,2 tỷ USD. Tốc độ tăng trưởng GDP trong giai đoạn
này cũng tăng lên mạnh mẽ. Từ năm 1987 – 1990, tốc độ này luôn đạt mức
trên 10%, nâng tốc độ tăng trưởng trung bình của cả giai đoạn 1985 – 1995
lên đến gần 9%. Trong khu vực châu Á lúc bấy giờ, ngoài Nhật Bản đang
chững lại sau nhiều năm tăng trưởng thần tốc, Thái Lan và Hàn Quốc là hai
quốc gia có tốc độ phát triển mạnh mẽ nhất.
Bảng 2.1: GDP của Thái Lan giai đoạn 1985 – 1995

Năm 1985

GDP
(tỷ USD)
38.9

Tốc độ tăng trưởng
GDP (%)

4.6

Tỷ trọng kim ngạch
xuất khẩu (%GDP)
23.2

Năm 1986

43.1

5.5

25.6

Năm 1987

50.5

10

29

Năm 1988

61.7

13.3

33


Năm 1989

72.3

12.2

34.9

Năm 1990

85.3

11.2

34.1

Năm 1991

98.2

8.6

36

Năm 1992

111.4

8.1


37

Năm 1993

125.0

8.3

38

Năm 1994

144.3

9

38.9

Năm 1995

168.2

9.2

41.8

Năm

Nguồn: data.worldbank.com



16
Sau một thời gian dài có những quy định nghiêm ngặt về tài chính làm hạn
chế việc mở rộng tín dụng của các ngân hàng thương mại, bắt đầu từ đầu
những năm 1990, Chính phủ Thái Lan đã quyết định áp dụng chính sách bãi
bỏ quy định thị trường tài chính và tự do hóa tài khoản vốn. Hơn nữa, với tỷ
giá hối đoái cố định cho một rổ tiền tệ thống trị thế giới, đặc biệt là đô la
Mỹ, người Thái đã có một thời gian dài ổn định tỷ giá hối đối danh nghĩa vì
đồng Baht (hoặc THB) dao động rất hẹp trong khoảng 24,91-25,59
Baht/USD (Bảng 2.2), ổn định mặt bằng giá 3,3-5,9%, và lãi suất cao khoảng
13,25% trước khủng hoảng.
Bảng 2.2: Tỷ giá hối đoái danh nghĩa (sang đơ la Mỹ), trung bình kỳ
Năm 1990 Năm 1991 Năm 1992 Năm 1993 Năm 1994 Năm 1995
Thái Lan

25.59

25.52

25.4

25.32

25.15

24.91

Nguồn: International Financial Statistics of IMF
Chính phủ Thái Lan cũng đã làm rất tốt trong việc giữ tỷ lệ lạm phát thấp trong
khoảng 3,36% đến 5,7%.

Bảng 2.3: Tỷ lệ lạm phát (%)
Năm 1991 Năm 1992 Năm 1993 Năm 1994 Năm 1995
Thái Lan

5.7

4.07

3.36

5.19

5.69

Nguồn: International Financial Statistics of IMF
2.1.2. Giai đoạn khủng hoảng 1997 – 1998
Bắt đầu từ năm 1995, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Thái Lan trở nên chậm lại do
một số yếu tố như sự thu hẹp trong lĩnh vực bất động sản, sự nổi lên của Trung
Quốc như một đối thủ đáng sợ trong thương mại quốc tế, sự sụt giảm nhu cầu về
chất bán dẫn của thế giới. Hoạt động kinh doanh bất động sản trở nên thua lỗ và các
chủ sở hữu doanh nghiệp khơng có khả năng thanh toán các khoản nợ cho các tổ
chức tài chính khi đến hạn. Sự gia tăng này của các khoản nợ xấu đã bắt đầu thời kỳ
khủng hoảng ngân hàng khi bảng cân đối kế toán của các ngân hàng bị xấu đi. Bên
cạnh đó, trong thương mại quốc tế, Thái Lan đã trở nên kém cạnh tranh hơn khi có


17
sự tồn tại của một thương nhân mới nổi như Trung Quốc cùng với xu hướng đồng
đô la không ngừng tăng giá đã làm xấu đi các điều khoản thương mại của Thái Lan
kể từ mùa xuân năm 1995. Các điều khoản thương mại của Thái Lan đã trở nên tồi

tệ vì đồng Baht của Thái Lan cần tăng giá cùng với đồng đơ la là đồng tiền chính
trong rổ tiền tệ mà Thái Lan đã cố định tỷ giá hối đối của mình. Và khi nhu cầu về
chất bán dẫn trên thế giới giảm vào năm 1996, khối lượng xuất khẩu của Thái Lan
giảm, góp phần vào cán cân thâm hụt thương mại.
Đã có những nhà đầu cơ coi tốc độ tăng trưởng chậm của Thái Lan, hoạt động của
ngân hàng và cán cân thanh toán xấu đi là những dấu hiệu cho thấy khoản đầu tư
của họ không có lợi. Họ bắt đầu bán tài sản trong nước và địi lại tài sản ở nước
ngồi. Kết quả là, bảng cân đối kế toán của ngân hàng ngày càng trở nên tệ hơn, và
nền kinh tế phải đối mặt với vấn đề thắt chặt tín dụng nghiêm trọng. Ngay cả những
nhà đầu tư có cơ hội đầu tư hiệu quả cũng không thể vay vốn để tiến hành hoạt động
kinh doanh của họ.
Ngày 4 và 5-3-1997, hơn 21,4 tỷ Baht (tương đương 820 triệu USD) đã được rút ra
khỏi các ngân hàng và cơng ty tài chính (Nhân, 2003). Sau đó một tháng, ngày 9-41997, tỉ giá hối đối giảm xuống 26,08 Baht/USD, mức cao nhất từ năm 1991.
Vào tháng 5/1997, chính phủ đã nỗ lực cứu “Finance One”, cơng ty tài chính lớn
nhất Thái Lan, thơng qua việc sáp nhập với một tổ chức tài chính khác nhưng đã
thất bại khiến công ty này bắt buộc phải phá sản. (King, 2001)
Chỉ một tháng sau, bộ trưởng tài chính mới 'phát hiện ra' rằng Ngân hàng Trung
ương Thái Lan đã sử dụng 28 tỷ USD trong tổng số 30 tỷ USD dự trữ quốc tế của
mình trong quá trình can thiệp thị trường kỳ hạn để bảo vệ giá trị của đồng Baht và
đất nước đã cuối cùng buộc phải chuyển đổi chế độ tỷ giá hối đoái. Vào ngày 2
tháng 7 năm 1997, Thái Lan đã trở thành một hệ thống tỷ giá hối đoái linh hoạt;
đồng Baht Thái Lan đã mất giá khoảng 15-20% (28,80 Baht một đô la) sau thông
báo. Giá trị của đồng Baht liên tục đi xuống kể từ đó và chạm đáy ở mức 48,80
Baht/USD vào tháng 12 cùng năm, tỷ giá cao nhất (giá trị thấp nhất của đồng Baht
Thái Lan) kể từ khi Thái Lan bắt đầu giữ kỷ lục vào năm 1969 và thậm chí cịn
xuống 53 Baht /USD vào tháng 1-1998.


18
Bảng 2.4: Tỷ giá hối đối Baht/USD bình qn năm 1996 và 1997

Năm 1996 Năm 1997
Thái Lan

25.61

47.25

Nguồn: International Financial Statistics of IMF
Bộ trưởng tài chính Thái Lan thời bấy giờ là Amnuay Viravan phải từ chức vào 186-1997, chỉ số thị trường chứng khoán Thái Lan đã giảm tới mức thấp nhất trong
quá trình phát triển dài của Thái Lan là 482,97 điểm, giảm 14,75 điểm hay 3% so
với ngày 17-6-1997, nghiêm trọng hơn là xu hướng sụt giảm ngày càng gia tăng.
(Wong-Anan, Sherer, & HookwayStaff, 1997)
Thị trường chứng khoán suy sụp đã làm cho giá trị tài sản của các ngân hàng và
cơng ty tài chính giảm sút; thiếu tiền mặt và cạn vốn vì các nhà đầu tư rút tiền; nợ
khó địi ở mức cao vì thị trường bất động sản bị sụp đổ; đồng Baht giảm giá làm cho
nợ nước ngoài ngày một gia tăng. Tất cả những điều đó đã đẩy các ngân hàng và
cơng ty tài chính Thái Lan – vốn đã bị rơi vào tình trạng khó khăn trầm trọng – đến
bên bờ vực thẳm.
Bảng 2.5: Tình trạng thua lỗ và phá sản của hệ thống ngân hàng, tài chính
Thái Lan

Giai đoạn
từ 1.4.1997 đến 31.3.1998

Tổng số ngân hàng

108

Số ngân hàng bị đình chỉ hoạt động


56

Số ngân hàng bị bán cho Cơng ty nước ngồi
Tổng số ngân hàng “có vấn đề”

4
64 (59%)

Nguồn: International Financial Statistics of IMF
Trong khoảng thời gian từ tháng 1 năm 1998 tới tháng 5 năm 1998, Thái Lan có
3.961 doanh nghiệp ngừng hoạt động trong đó có 582 doanh nghiệp phá sản.


19
Ngày 11 tháng 8 năm 1997, IMF cơng bố gói giải cứu cho Thái Lan với hơn 16 tỷ
đô la, với các điều kiện như thông qua luật liên quan đến thủ tục phá sản (tổ chức lại
và tái cơ cấu) và thiết lập khuôn khổ quy định mạnh mẽ cho các ngân hàng và các tổ
chức tài chính khác. IMF đã phê duyệt vào ngày 20 tháng 8 năm 1997, một gói cứu
trợ khác trị giá 3,9 tỷ đơ la.
2.1.3. Giai đoạn sau khủng hoảng
Do đồng Baht mất giá lớn và nền kinh tế suy thoái, tài khoản vãng lai chuyển từ
thâm hụt trước khủng hoảng khoảng 1 tỷ USD/ tháng thành thặng dư khoảng 1 tỷ
USD/ tháng vào cuối năm 1997. Vị thế dự trữ ngoại hối của Thái Lan hồi phục khá
nhanh. Đến giữa năm 1999, dự trữ ngoại hối có thể sử dụng đã tăng lên hơn 16 tỷ
USD, từ mức xấp xỉ 2,8 tỷ USD vào giữa năm 1997, và Thái Lan không cần rút
thêm từ gói vay của IMF.
Mặc dù vị thế dự trữ ngoại hối phục hồi khá nhanh, nhưng phải rất mất nhiều thời
gian để đạt được sự phục hồi kinh tế tổng thể. Biểu đồ 2.1 có thể thấy rằng nền kinh
tế đã chạm đáy vào năm 1998. Tuy nhiên, phải mất gần 5 năm sản lượng mới phục
hồi về mức trước khủng hoảng. Sau khủng hoảng, tỷ lệ các khoản cho vay kém hiệu

quả trong hệ thống tài chính đã tăng lên gần 50% vào cuối năm 1998 (Biểu đồ 2.2).
Phải mất khoảng 8 năm sau khi khủng hoảng bắt đầu, tỷ lệ nợ xấu mới giảm xuống
dưới 10%.


20
Biểu đồ 2.1: Lịch sử tăng trưởng GDP của Thái Lan

Nguồn: Ceicdata.com
Biểu đồ 2.2: Tỷ lệ nợ xấu trong các định chế tài chính của Thái Lan
1998 - 2005

Nguồn: Ceicdata.com | Bank of Thailand


×