Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh tại BIDV Ninh Bình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (404.78 KB, 84 trang )

Lời mở đầu
Ngân hàng là sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá, ngay từ khi ra đời đã có
vai trò hết sức to lớn là thúc đẩy kinh tế phát triển. Ngân hàng chính là nơi tích
tụ, tập trung và thu hút mọi tiềm năng phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế, có
tác dụng khuyến khích, hỗ trợ sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp. Nhờ có
hoạt động của hệ thống ngân hàng và đặc biệt là hoạt động tín dụng, các doanh
nghiệp có điều kiện mở rộng sản xuất, cải tiến máy móc công nghệ, tăng năng
suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên thực tế trong những năm gần
đây cho thấy ngân hàng cha hoàn thành tốt vai trò của mình đối với nền kinh tế,
đặc biệt là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Quy mô tín dụng ngoài quốc doanh
mới chiếm một phần rất nhỏ bé trong tổng d nợ, cha tơng xứng với tiềm năng của
khu vực này. Trong khi đây là khu vực năng động nhất, đóng góp vào GDP ngày
càng lớn, có số lợng cơ sở sản xuất kinh doanh ngày càng tăng, nhất kể từ khi
luật doanh nghiệp ra đời.
Sự tăng lên về số lợng cũng nh tỷ trọng đóng góp trong GDP là kết quả của
những đổi mới kinh tế của Đảng và Nhà nớc đối với khu vực kinh tế này, đợc bắt
đầu từ năm 1986, lần đầu tiên đợc nêu lên trong Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
VI. Không những thừa nhận sự tồn tại của kinh tế ngoài quốc doanh mà đã có
những biện pháp tích cực để hỗ trợ, khuyến khích tạo điều kiện để khu vực này
phát triển. Tuy nhiên ra đời càng nhiều, càng phát triển thì doanh nghiệp ngoài
quốc doanh lại càng đối mặt với tình trạng thiếu vốn trầm trọng, nhiều doanh
nghiệp đã phá sản vì thiếu vốn, số còn lại phần nhiều hoạt động cầm chừng quy
mô nhỏ bé...Trong khi tại các ngân hàng vốn huy động về bị ứ đọng không cho
vay ra đợc, để tránh lỗ lãi suất huy động các ngân hàng phải đầu t vào trái phiếu
Chính phủ hoặc điều chuyển về ngân hàng nhà nớc. Vấn đề đặt ra là cần có giải
pháp nào kéo doanh nghiệp ngoài quốc doanh - một đối tác rất cần vốn và ngân
hàng - một trung gian tài chính đang xảy ra tình trạng ứ đọng vốn, xích lại gần
nhau cùng đem lại lợi ích thiết thực cho nhau.
1
Trớc thực tế đó, trong quá trình thực tập tại Ngân hàng Đầu t và Phát triển
Ninh Bình, em đã hớng sự quan tâm tìm hiểu của mình vào hoạt động tín dụng


(cho vay) của ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh. Đây là hớng đi mới
trong hoạt động tín dụng đối với Chi nhánh, nhng cũng chính vì vậy hoạt động tín
dụng còn nhiều vớng mắc, bất cập cần tìm hớng giải quyết. Với lý do đó em chọn
đề tài: Một số giải pháp mở rộng hoạt động tín dụng đối với kinh tế ngoài
quốc doanh tại Ngân hàng Đầu t và Phát triển Ninh Bình. Đề tài này nhằm đa
những giải pháp tổng quát để mở rộng tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh,
giải quyết tốt khâu sử dụng vốn của ngân hàng một cách an toàn và hiều quả.
Chuyên đề tốt nghiệp gồm 3 chơng:
Chơng 1: Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển của khu vực kinh
tế ngoài quốc doanh.
Chơng 2: Thực trạng tín dụng ngoài quốc doanh tại Ngân hàng
Đầu t và Phát triển Ninh Bình.
Chơng 3: Một số giải pháp nhằm mở rộng tín dụng đối với khu
vực kinh tế ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Đầu t và
Phát triển Ninh Bình.
Trong thời gian hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp em đã nhận đợc sự giúp
đỡ tận tình của thầy giáo hớng dẫn Tiến sĩ. Đặng Ngọc Đức cùng các cô chú, anh
chị phòng tín dụng I. Em xin chân thành cảm ơn!
Do trình độ còn nhiều hạn chế lại nặng về lý thuyết, thời gian thực tập
không dài mới chỉ dừng lại ở mức độ quan sát, xem xét thực tế hoạt động ngân
hàng và so sánh với lý thuyết đã học. Cho nên bài viết chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót, cần sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo trong khoa Ngân
hàng Tài chính và những ai quan tâm đến đề tài này.
2
Chơng 1 Tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển
của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
1.1. Khái quát chung về kinh tế ngoài quốc doanh
1.1.1. Kinh tế ngoài quốc doanh
Ngay sau khi đất nớc hoàn toàn độc lập thì KT-NQD đã tồn tại. Song còn
nhỏ bé và ẩn dới hình thức tổ hợp, hợp tác xã không chuyên và thành phần kinh

tế tập thể. Các thành phần này thành lập theo phong trào ồ ạt, hoạt động theo cơ
chế kế hoạch hoá không vì mục đích lợi nhuận. Với môi trờng kinh tế không phù
hợp nh vậy, KT-NQD đã không phát huy đợc vai trò của mình. Nguyên nhân làm
cho KT-NQD thời kỳ này không phát triển đợc do quan niệm: Sở hữu Nhà nớc
với chủ trơng tập thể hoá nông nghiệp, cải tạo công thơng t nhân thành thành
phần quốc doanh, công ty hợp doanh, hợp tác xã...dần dần quốc hữu hoá toàn bộ
t liệu sản xuất trong mọi TPKT quốc dân. Kết quả là nền kinh tế kém phát triển,
mất cân đối nghiêm trọng, các nguồn lực trong nhân dân không đợc thu hút phục
vụ phát triển kinh tế đất nớc.
Từ Đại hội Đảng VI và VII, Đảng và Nhà nớc ta đã thay đổi cách nhìn và
khẳng định Thành phần kinh tế ngoài quốc doanh là thành phần kinh tế quan
trọng, góp phần quyết định trong nền kinh tế quốc dân cần đợc đối xử công
bằng. Không những thế mà còn u tiên khuyến khích, tạo tiền đề cho TPKT này
phát triển. Đảng đã xuất phát từ thực tế của nớc ta và vận dụng quan điểm của
Lênin: Coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trng của thời kỳ
quá độ- Văn kiện đại hội Đảng lần thứ VI.
Kể từ đây nền kinh tế bao cấp đã chuyển sang nền kinh tế thị trờng có sự
quản lý của Nhà nớc theo định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa mà giai đoạn đầu của nó
là nền kinh tế nhiều thành phần. Đảng và Nhà nớc ta đã thừa nhận, đã thực sự
quan tâm và đánh giá đúng mức khu vực KT-NQD. Do đó KT-NQD là một trong
3
những lĩnh vực đầu tiên khởi sắc trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị tr-
ờng. Nó phát triển nhanh chóng cả về quy mô lẫn chất lợng và có sức vơn lên
mạnh mẽ làm sống động không khí đang đổi mới, nhất là vùng đô thị và trung
tâm thơng mại lớn.
Chính phủ đã tạo điều kiện hoạt động cho khu vực kinh tế này, thể hiện rõ
nét ở Nghị quyết 16 của Bộ Chính trị. Các TPKT-NQD sẽ không bị phân biệt đối
xử về mặt cung cấp nguyên vật liệu và phụ tùng thay thế...nó đợc đối xử bình
đẳng với các đơn vị KT-QD. Đại hội Đảng lần thứ VII khẳng định: Mọi công
dân có quyền tự do kinh doanh theo pháp luật, quyền sỡ hữu và thu nhập hợp

pháp của họ đợc bảo vệ, nền kinh tế nhiều thành phần với các loại hình kinh
doanh phù hợp với đặc điểm và trình độ của lực lợng sản xuất nhằm tăng nhanh
sự phát triển có hiệu quả của nền sản xuất xã hội. Mọi đơn vị kinh tế, hệ thống sở
hữu nh thế nào đều hoạt động trong một hệ thống kinh doanh tự chủ, hợp tác và
cạnh tranh bình đẳng trớc pháp luật. Kinh tế t bản t nhân đợc phát triển không
hạn chế về quy mô mà pháp luật không ngăn cấm...
Nhà nớc đã xây dựng chính sách phát triển một nền kinh tế hỗn hợp,
không phân biệt đối xử, không ép buộc tập thể hoá t liệu sản xuất, không tớc đoạt
tài sản hoặc áp đặt cơ cấu kinh doanh, khuyến khích hoạt động có lợi. Để hoàn
thiện và tạo môi trờng hoạt động cho khu vực này Chính phủ đã ban hành luật
công ty, luật doanh nghiệp t nhân, luật phá sản...và các luật này thờng xuyên đợc
bổ sung sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tiễn. Nh vậy Nhà nớc đã tạo đợc
môi trờng pháp lý cho doanh nghiệp NQD phát triển theo cơ chế thị trờng. Nếu
doanh nghiệp nào hoạt động tốt thì tồn tại phát triển, còn doanh nghiệp nào hoạt
động không có hiệu quả thì tự đào thải và rút khỏi thơng trờng đầy khắc nghiệt.
Vì vậy doanh nghiệp trong khu vực KT-NQD không ngừng lớn mạnh về quy mô
và chất lợng, đồng thời đang ngày càng hoàn thiện.
4
Theo Nghị Quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII nền kinh tế nớc ta
đợc chia làm 5 thành phần:
1. Kinh tế nhà nớc (KTNN): Thành phần kinh tế này lấy sở hữu nhà nớc về
t liệu sản xuất làm cơ sở kinh tế. Khi bàn KTNN với t cách là một tpkt, chúng
ta phải hiểu đó là hệ thống các doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nớc.
2. Kinh tế t bản nhà nớc (kttbnn): Đây là tpkt dựa trên hình thức sở
hữu hỗn hợp về vốn giữa KTNN với kinh tế t bản t nhân trong và ngoài nớc bằng
nhiều phơng thức góp vốn hợp tác liên doanh nhằm phát huy thế mạnh của các
bên tham gia, đặt dới sự giúp đỡ của nhà nớc.
Về mặt tổ chức, kttbnn ở nớc ta đợc cấu thành từ hai bộ phận ktnn
phối hợp với kinh tế t bản t nhân trong và ngoài nớc. Song bộ phận thứ nhất rất
nhỏ bé. Vì vậy, có thể coi sự phát triển kttb nớc ngoài ở nớc ta trong những

năm qua là sự phát triển của khu vực có vốn đầu t nớc ngoài.
3. Thành phần kinh tế hợp tác (tpktht): Kinh tế hợp tác là một xu hớng
tất yếu, một hình thức tổ chức kinh tế có vị trí vai trò rất quan trọng trong công
cuộc phát triển kinh tế xã hội và trong cơ cấu các TPKT trong thời kỳ qúa độ đi
lên Chủ Nghĩa Xã Hội ở nớc ta.
Về bản chất, ktht là sự liên kết kinh tế tự nguyện đa dạng, đa mức độ
của những ngời lao động, những ngời sản xuất để hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau giải
quyết có hiệu quả những vấn đề của sản xuất kinh tế và bảo vệ lợi ích kinh tế của
mỗi thành viên.
Ktht gồm các loại hình chủ yếu sau:
- ktht giản đơn dựa trên cơ sở liên kết kinh tế giản đơn giữa những ngời
lao động, những ngời sản xuất nhỏ dới hình thức tổ hợp tác, tổ liên kết sản xuất,
tiêu thụ sản phẩm.
5
- ktht dựa trên cơ sở liên kết kinh tế giữa các chủ thể, các pháp nhân
kinh tế nhng không làm phát sinh pháp nhân mới, đó là các hợp đồng, hợp tác
kinh doanh, các hội nghề nghiệp, các hiệp hội.
- ktht dựa trên cơ sở liên kết kinh tế chặt chẽ giữa những ngời lao động,
những ngời sản xuất nhỏ dới hình thức hợp tác xã, đợc gọi là kinh tế hợp tác xã
và chỉ có hình thức này mới có thể coi là một TPKT.
4. Thành phần kinh tế t bản t nhân (tpkt-tbtn): Đây là TPKT dựa trên
hình thức sở hữu t nhân T Bản Chủ Nghĩa về t liệu sản xuất. Thành phần này đợc
thành lập do sự góp vốn của các nhà kinh doanh trong và ngoài nớc, với quy mô
và trình độ tơng đối lớn. Hình thành nên các Doanh nghiệp t nhân, Công ty Cổ
phần, Công ty Trách nhiệm Hữu hạn, Công ty hợp danh.
5. Thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ: Là TPKT dựa trên hình thức sở hũu
cá thể về t liệu sản xuất và lao động của bản thân họ, tồn tại ở phạm vi tơng đối
lớn, bao hàm nhiều trình độ phát triển sản xuất khác nhau đợc phát triển trong
các ngành nghề cả ở thành thị và nông thôn không hạn chế kinh doanh.
Về thực chất, các tpkt là chủ thể của quá trình kinh tế mà t cách pháp lý

của họ đợc quy định bởi quyền sở hữu t liệu sản xuất. Là ngời chủ t liệu sản xuất,
họ có quyền chiếm hữu, định đoạt và sử dụng t liệu sản xuất. Do đó có quyền
quyết định tham gia hay không tham gia hoặc quyết định phạm vi mức độ của
những hành vi kinh tế của họ trong nền kinh tế quốc dân. Xuất phát từ những tiêu
thức đó các tpkt nớc ta có thể chia thành.
-Khu vực kt-QD. Thuộc sở hữu nhà nớc về t liệu sản xuất.
-Khu vực kt-NQD. Là tất cả các loại hình mà quan hệ sở hữu về t liệu sản
xuất trong đó hoàn toàn không có sở hữu nhà nớc. Theo khái niệm này thì kt-
NQD gồm: Kinh tế t nhân, tổ hợp, hợp tác xã, các công ty, các xí nghiệp liên
doanh và cổ phần không có vốn nhà nớc.
6
Sau một thời gian khôi phục và phát triển, đến nay KT-NQD đã đạt đợc
những thành tựu quan trọng, ngày càng khẳng định vai trò to lớn của mình trong
nền kinh tế. Nó góp phần cân đối nền kinh tế, tạo nên sự sống động mới trong sản
xuất kinh doanh, chiếm một tỷ trọng đáng kể trong tổng sản phẩm quốc nội
(GDP), tạo khả năng huy động phát triển từ nhân dân, mở ra khả năng to lớn
trong việc giải quyết việc làm và tăng thu nhập cho ngời lao động. Phát triển KT-
NQD góp phần làm sống lại các ngành nghề truyền thống ở nông thôn, tạo ra môi
trờng cạnh tranh sôi động trong nền kinh tế, tạo điều kiện nâng cao trình độ lực l-
ợng sản xuất, tăng chất lợng sản phẩm, tao ra nhiều hàng hoá cho thị trờng, thoả
mãn tốt hơn nhu cầu của nhân dân.
Vì vậy nghiên cứu và tìm hiểu về KT-NQD sẽ giúp chúng ta nhân thức sâu
sắc hơn về TPKT này, phát hiện những mặt mạnh, những hạn chế nhợc điểm.
Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp, chính sách cho phép phát huy tốt hơn nữa
những mặt mạnh, hạn chế khắc phục những hạn chế để KT-NQD thực sự trở
thành một khu vực phát triển lớn mạnh, thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
1.1.2. Vai trò và định hớng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh
1.1.2.1. Vai trò kinh tế ngoài quốc doanh
Kinh tế ngoài quốc doanh là một lĩnh vực kinh tế rộng lớn và quan trọng
trong cơ thể thống nhất của nền kinh tế nớc ta. Hiện nay, khu vực này đã có mặt

trong tất cả các lĩnh vực hoạt động của nền kinh tế quốc dân, bao gồm nhiều
TPKT tồn tại với quy mô đa dạng tạo nên lực lợng sản xuất to lớn, đóng góp quan
trọng trong việc sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội. Nhờ đó hàng hoá sản
xuất ngày càng nhiều, chủng loại đa dạng, chất lợng không ngừng đợc nâng cao
để thoả mãn nhu cầu xã hội, tạo ra khả năng lựa chọn nhiều hơn cho ngời tiêu
dùng. Khi nền kinh tế nớc ta chuyển sang kinh tế thị trờng, KT-NQD là khu vực
sản xuất kinh doanh năng động, nhạy bén có khả năng thích nghi và đáp ứng kịp
thời mọi biến động của thị trờng, nó cho phép huy động tối đa nguồn vốn trong
dân c để phát triển đất nớc. Với tính tự chủ và khả năng thích nghi cao KT-NQD
7
đóng một vai trò không thể thiếu trong nền kinh tế, thể hiện thông qua các mặt
sau.
Thứ nhất: Thu hút và sử dụng hiệu quả các tiềm năng trong dân c để
phát triển kinh tế đất nớc, giải quyết nạn thất nghiệp, tạo sự phát triển cân đối
kinh tế.
Đổi mới kinh tế và dân chủ hoá đời sống kinh tế theo tinh thần Nghị quyết
Đại hội Đảng lần thứ VI đã tạo cơ hội cho các TPKT-NQD phát triển tiềm lực
của mình hoà với tổng thể nền kinh tế. Các doanh nghiệp NQD thờng đợc thành
lập với lợng vốn đầu t ban đầu không lớn và chủ yếu là của dân. Bản thân khu vực
KT-NQD bao gồm nhiều loại hình tổ chức kinh doanh khác nhau phù hợp với
nhu cầu đa dạng của nhà đầu t. Đặc tính này cho phép KT-NQD tham gia vào
hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế, từ nông nghiệp đến công nghiệp và dịch vụ.
Sự tồn tại trên một phạm vi lớn trong nền kinh tế cho phép KT-NQD thu hút và
sử dụng hiệu quả nguồn lực trong dân c vào công cuộc phát triển kinh tế đất nớc.
Đặc biệt trong tiến trình cải cách và sắp xếp lại hệ thống doanh nghiệp nhà nớc
bằng các biện pháp giao bán, khoán, cho thuê, chuyển đổi hình thức sở hữu...Làm
phát sinh một số vấn đề nh thất nghiệp, sự bỏ ngỏ của một số ngành, khu vực
kinh tế không có tầm quan trọng sống còn hoăc do nhà nớc không đủ sức nắm
giữ. Điều này lại tạo cơ hội cho KT-NQD mở rộng phạm vi hoạt động, tham gia
ngày càng nhiều hơn vào các lĩnh vực kinh tế quan trọng, càng khẳng định vị trí

của mình trong nền kinh tế.
Thất nghiệp là vấn nạn mà mọi quốc gia phải đối mặt. ở nớc ta, giải quyết
công ăn việc làm cho ngời lao động đang là nhiệm vụ vừa cấp bách vừa cơ bản
mà Đảng và Nhà nớc đang hết sức quan tâm giải quyết. Dân số trẻ, số ngời trong
độ tuổi lao động cao, chiếm hơn 57% dân số, tỷ lệ gia tăng dân số cao. Số ngời
hàng năm đến độ tuổi lao động nh học sinh, sinh viên ra trờng, bộ đội hết nghĩa
vụ...ngày càng tăng, là áp lực gánh nặng đối với hoạt động quản lý xã hội. Chính
các doanh nghiệp NQD với đặc tính của mình sẽ điều tiết phân giải lực lợng lao
8
động trong các khu vực còn nhiều khoảng trống, góp phần giãn cách, điều hoà
nhu cầu lao động.
Mặt khác, sự hoạt động đa dạng trên nhiều ngành nghề, lĩnh vực của nền
kinh tế tạo nên sự đan xen cùng tồn tại thống nhất giữa KT-QD và KT-NQD, góp
phần làm cân đối cơ cấu kinh tế. Phát triển kt-NQD là một chủ trơng sáng suốt
và đúng đắn của Đảng, phù hợp với đòi hỏi thực tế khách quan của thời đại,
khẳng định tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần, phù hợp với trình độ
thực tế của lực lợng sản xuất ở nớc ta - vốn kém phát triển lại không đồng đều
giữa các vùng miền, tỉnh thành tạo nên nhiều trình độ khác nhau. Chỉ có phát
triển kt-NQD mới cho phép sử dụng và phát huy mọi tiềm năng của đất nớc vào
công cuộc phát triển kinh tế.
Thứ hai: Tạo ra quỹ hàng hoá tiêu dùng và xuất khẩu.
Phơng hớng sản xuất kinh doanh tại mỗi thời điểm, giai đoạn của nền kinh
tế có những sự khác nhau. Trong thời kỳ 1986-1989 nớc ta vẫn còn thiếu đói,
hàng tiêu dùng khan hiếm trầm trọng. Mục tiêu của nền sản xuất lúc này là sản
xuất đủ ăn, đủ tiêu dùng, đáp ứng những nhu cầu cơ bản và tối thiểu của ngời
dân. Vợt qua thời kỳ đó, nền kinh tế lại đặt ra những mục tiêu mới, phù hợp với
tình hình thực tiễn nh: Tăng năng lực sản xuất của xã hội, thay thế từng phần
hàng hoá nhập khẩu đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nớc, tiến tới thay thế nhập
khẩu bằng chính sách xuât khẩu.
Để thực hiện đợc sách lợc này, trong quá khứ và hiện tại, KT-NQD đóng

một vai trò rất quan trọng, nó chứa đựng trong mình những đặc điểm cho phép
thực hiện tốt đợc vai trò đó. Có thể kể ra nh quy mô gọn nhẹ, nhậy bén, nhanh
chóng chuyển đổi đối tợng sản xuất để hớng tới những mặt hàng mà thị trờng
đang có nhu cầu, những lĩnh vực đang đợc nhà nớc u tiên u đãi, bảo hộ, có khả
năng đem lại lợi nhuận cao. Sự phát triển KT-NQD đã khơi gợi tiềm năng to lớn
trong dân để phát triển sản xuất, thu hút vốn trong dân, tiếp thu chuyển giao công
9
nghệ của nớc ngoài để tạo ra nhiều sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng trong n-
ớc và xuất khẩu. Đặc biệt là sự sống lại của các ngành nghề thủ công, mỹ nghệ
truyền thống ở nông thôn đã làm ra các sản phẩm có giá trị xuất khẩu, góp phần
đổi mới kinh tế nông thôn, tăng thu ngoại tệ cho đất nớc.
Bảng về giá trị sản xuất
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Chỉ tiêu
1999 2000 2001
Quy mô (%) Quy mô (%) Quy mô (%)
Tổng Số 335.441 100 375.800 100 434.365 100
KTNN 154.927 46,19 170.141 44,9 186.958 43,04
KT-NQD 180.514 53,81 205.659 55,1 247.407 56,96
(Nguồn: Niên giám thống kê năm 2002)
Bảng trên cho thấy, giá trị sản xuất khu vực NQD liên tục gia tăng qua các
năm cả về quy mô và tỷ trọng. Sự gia tăng này không phải do KTNN ngày càng
giảm đi mà do giá trị sản xuất trong khu vực NQD tăng với tốc độ lớn hơn tốc độ
tăng trong KTNN. Kinh tế NQD đã đóng góp hơn 50% tổng giá trị sản xuất, ngày
càng khẳng định vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Tỷ trọng này cần
phải tiếp tục nâng cao. So với Trung Quốc, một nớc có hoàn cảnh lịch sử và kinh
tế tơng đồng với nớc ta, thì tỷ lệ giữa hai khu vực KTNN và KT-NQD này là 3:7
mà không sợ chệch hớng Xã Hội Chủ Nghĩa. Vì vậy trong thời gian tới chúng ta
cần phải tiếp tục đẩy mạnh phát triển khu vực này bằng các chính sách cụ thể

hơn, thiết thực hơn theo định hớng Xã Hội Chủ Nghĩa.
Thứ ba: Tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nớc, mang lại thu nhập cho
ngời lao động, góp phần cải thiện đời sống dân c
Kinh tế ngoài quốc doanh tồn tại và phát triển đóng góp rất lớn vào ngân
sách nhà nớc. Sự ra đời ngày càng nhiều và hoạt động có hiểu quả của các loại
10
hình doanh nghiệp thuộc khu vực này sẽ tạo thêm nguồn thu cho ngân sách nhà
nớc thông qua hoạt động đóng thuế. Đóng thuế là quyền lợi và nghĩa vụ của mọi
ngời dân và các tổ chức kinh tế, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà n-
ớc, chiếm tới 86%. Trên thực tế, KT-NQD đóng góp khoảng 40 - 47% ngân sách
nhà nớc hàng năm. Sản xuất kinh doanh phát triển là tiền đề tạo nguồn thu ngân
sách nhà nớc. Do vậy để tăng nguồn thu ngân sách lành mạnh, biện pháp quan
trọng nhất là không ngừng phát triển sản xuất, mở rộng kinh doanh trên tất cả các
TPKT.
Bản thân KT-NQD phát triển không chỉ đem lại nguồn thu cho ngân sách
nhà nớc mà còn đem lại nhiều lợi ích khác nh tạo thêm công ăn việc làm mang lại
thu nhập cho ngời lao động, cải thiện đời sống của dân c. Vì vậy, KT-NQD đang
là khu vực đợc Đảng và Nhà nớc quan tâm, chú ý và dành những u tiên nhất định
để hỗ trợ khuyến khích phát triển.
Thứ bốn: Đóng vai trò quan trọng trong quá trình cnh-hđh và
chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nớc ta.
Trong nền kinh tế trờng lợi ích và lợi nhuận là nhân tố quyết định những
vấn đề từ tổng thể đến cục bộ của một doanh nghiệp. Lớn thì ảnh hởng đến ngành
nghề kinh doanh, phơng hớng sản xuất, nhỏ thì ảnh hởng đến chiến lợc sản
phẩm...Các doanh nghiệp thuộc khu vực NQD cũng hoạt động nh bao doanh
nghiệp khác, tức là lấy mục tiêu lợi nhuận và không ngừng tăng cờng lợi nhuận
làm tôn chỉ và mục đích. Do đó, bằng việc ban hành các văn bản chế độ, chính
sách phát triển kinh tế nhà nớc sẽ dẫn dắt và định hớng sự phát triển KT-NQD. Sự
phát triển của KT-NQD sẽ tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế, từng bớc tạo ra
cơ cấu kinh tế hợp lý. Hiện nay trong cơ cấu kinh tế nớc ta, nông nghiệp vẫn

chiếm một tỷ trọng khá cao, tới hai con số (chiếm 23,3%) trong khi ở các nớc
phát triển tỷ trọng này dới 10%, nó phản ánh một cơ cấu kinh tế cha hợp lý, một
nớc còn nặng nông ngiệp. Vì vậy phơng hớng phát triển trong tơng lai là tăng tỷ
trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ, làm cho chúng chiếm chủ yếu trong nền
11
kinh tế, đặc biệt là các ngành sản xuất, chế tạo máy, xây dựng...làm tiền đề cho
một nền sản xuất lớn ra đời. Tuy nhiên không thể một sớm một chiều đã có thể
tạo ra một cơ cấu kinh tế hợp lý ngay đợc mà phải có thời gian. Giai đoạn đầu
nên tập trung vào những ngành gia công, chế biến công nghiệp những sản phẩm
nông nghiệp nhằm làm tăng chất lợng sản phẩm, hàm lợng giá trị, tăng tính thơng
mại của sản phẩm.
Đồng thời quá trình phát triển các doanh nghiệp NQD cũng là quá trình cải
tiến máy móc thiết bị kỹ thuật, nâng cao năng lực sản xuất và chất lợng sản phẩm
để đáp ứng nhu cầu thị trờng, đến mức độ nhất định sẽ dẫn đến đổi mới công
nghệ, làm cho quá trình CNH-HĐH không chỉ diễn ra trên chiều rộng mà cả
chiều sâu.
Thứ năm: Kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tạo môi trờng cạnh
tranh thúc đẩy kinh tế phát triển.
Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, các TPKT không tồn tại biệt
lập, phát triển trong những khu vực riêng mà chúng đan xen tồn tại và thống nhất.
KT-NQD hoạt động trên nhiều lĩnh vực, tồn tại trên một phạm vi rộng lớn cả về
mặt địa lý cũng nh ngành nghề kinh tế. Tất cả những điều này làm cho KT-NQD
và KT-QD sản xuất kinh doanh những sản phẩm có những đặc tính tơng tự nhau.
Kết quả chúng phải cạnh tranh với nhau trong quá trình sản xuất cũng nh tiêu thụ
sản phẩm.
Cạnh tranh là điểm khởi đầu của sự phát triển, nó phá bỏ thế độc quyền
đang tác động nh những nhân tố làm trì trệ và cản trở nền kinh tế phát triển. Đối
với KT-QD, KT-NQD tạo ra sức ép, buộc phải tham gia cạnh tranh, đồng thời có
tác dụng hỗ trợ phát triển. Môi trờng cạnh tranh sẽ buộc KT-QD quan tâm nhiều
hơn đến việc xây dựng chiến lợc, đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, nâng cao

chất lợng sản phẩm, đổi mới công nghệ phù hợp với đòi hỏi của thị trờng. Đối với
nền kinh tế, KT-NQD bù đắp những chỗ hổng hụt mà KT-QD cha cáng đáng hết.
12
Trên cơ sở đó tạo ra nhiều hàng hoá, dịch vụ ngày càng đa dạng, chất lợng sản
phẩm không ngừng đợc nâng lên trong khi giá thành ngày một hạ, làm tiền đề
cho những sự la chọn sản phẩm hàng hoá mà ngời tiêu dùng a thích. Xoá bỏ cục
diện ngời tìm hàng, ngời sản xuất bán cái mình có thay vào đó là hàng tìm
ngừơi và ngời sản xuất chỉ sản xuất cái mà thị trờng cần.
Thứ sáu: Về phía ngân hàng kinh tế ngoài quốc doanh góp phần tạo ra
thị trờng vốn, tín dụng, làm nên sự phát triển ổn định của ngân hàng.
Sự xuất hiện và phát triển của KT-NQD đã tạo ra một phân đoạn thị trờng
thờng xuyên đối với ngân hàng. Với tốc độ phát triển nhanh chóng cả về quy mô
và chất lợng các doanh nghiệp NQD đã tạo ra một nhu cầu to về vốn và nhu cầu
tín dụng cũng nh các dịch vụ tiện ích khác mà ngân hàng cung cấp. Điều này sẽ
tạo điều kiện cho ngành ngân hàng ngày càng phát triển. Nh chúng ta biết, hoạt
động ngân hàng phụ thuộc rất lớn vào nền kinh tế quốc dân mà trong đó KT-
NQD chiếm một tỷ lệ đáng kể, do vậy trong tơng lai khu vực KT-NQD sẽ là thị
trờng đầy triển vọng của ngành ngân hàng.
1.1.2.2. Định hớng phát triển khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và nhu cầu vốn
Về mặt đờng lối, Đảng và Nhà nớc đã khẳng định quan điểm về phát triển
KT-NQD là: Thực hiện nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành
phần. Các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là những bộ phận
quan trọng của nền kinh tế thị trờng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh. Kinh tế cá thể tiểu chủ đợc nhà nớc tạo điều kiện và
giúp đỡ phát triển. Kinh tế t bản t nhân đợc khuyến khích và phát triển rộng rãi
trong các ngành nghề sản xuất kinh doanh pháp luật không cấm. Nh vậy Đảng
và Nhà nớc đã coi KT-NQD là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế
quốc dân, tôn trọng và phát huy quyền tự do kinh doanh theo pháp luật của công
dân, giải phóng triệt để lực lợng sản xuất để mọi ngời dân đều có thể làm giầu
cho mình và xã hội.

13
Nhận thức rõ vai trò, vị trí quan trọng của khu vực KT-NQD trong sự
nghiệp CNH-HĐH đất nớc, hội nghị ban chấp hành Trung ơng Đảng cộng sản
Việt nam lần thứ năm khoá IX đã ra Nghị quyết về phát triển kinh tế t nhân. Nghị
quyết đã khẳng định: Phát triển kinh tế t nhân là vấn đề chiến lợc lâu dài trong
phát triển kinh tế nhiều thành phần định hớng xã hội chủ nghĩa.... Nhờ có những
chủ trơng đúng đắn mà tính đến thời điểm cuối năm 2002, sau 3 năm thực hiện
luật doanh nghiệp, số doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tăng lên đến 93.000
doanh nghiệp t nhân. Riêng 3 năm (từ 2000-2002) đã có 55.000 doanh nghiệp
đăng ký kinh doanh với tổng số vốn đăng ký lên tới 8.000 tỷ đồng. Kinh tế t nhân
đã huy động 300.000 tỷ đồng đầu t vào sản xuất kinh doanh, thu hút và tạo thu
nhập, ổn định cho 5 triệu lao động có việc làm thờng xuyên. Mặc dù vậy tổng số
vốn trong dân còn rất lớn. Theo ớc tính của các chuyên gia tài chính thì nguồn
vốn trong dân ớc khoảng 10,8 tỷ USD, đây là cha tính đến nguồn kiều hối của
khoảng 2,5 triệu ngời Việt kiều. Tiềm năng là nh vậy song trên thực tế tổng số
vốn đầu t cha tơng xứng với tiềm lực của khu vực này. Chính vì vậy đề ra hớng
phát triển KT-NQD theo quan điểm Phát triển và quản lý các loại hình doanh
nghiệp thuộc kinh tế hợp tác, kinh tế t bản nhà nớc, kinh tế t bản t nhân, và kinh
tế cá thể là thực sự cần thiết với những nội dung cụ thể sau:
Tạo môi trờng thúc đẩy cạnh tranh bằng cách hoàn thiện môi trờng kinh
doanh theo pháp luật, tạo điều kiện cạnh tranh một cách bình đẳng, sửa đổi bổ
sung văn bản pháp quy về các loại hình doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể
khuyến khích phát triển kinh tế t nhân.
Phát triển hợp tác xã liên kết giữa các thành phần kinh tế dựa trên nguyên
tắc tự nguyện bình đẳng.
Thực hiện chính sách tài chính tín dụng đối với kinh tế t nhân bình đẳng
nh đối với những doanh nghiệp thuộc các TPKT khác; bảo đảm kinh tế t nhân đ-
ợc tiếp cận và đợc hởng các u đãi của nhà nớc cho kinh tế hộ, doanh nghiệp vừa
và nhỏ, cho đầu t theo mục tiêu đợc nhà nớc khuyến khích. Nhà nớc hỗ trợ xây
14

dựng cơ sở hạ tầng chung (giao thông, điện, nớc, thông tin liên lạc...), tạo điều
kiện thuận lợi cho kinh tế t nhân phát triển.
Nhà nớc có chính sách thích hợp về thuế, có thể giảm thuế đối với những
mặt hàng sản xuất và tiêu dùng trong nớc, những mặt hàng xuất khẩu, giảm thuế
đối với những doanh nghiệp hoạt động ở các vùng kinh tế kém phát triển, các
doanh nghiệp có vốn lớn nhng sử dụng nhiều lao động áp dụng mức thuế nhập
khẩu thấp đối với máy móc thiết bị cha sản xuất đợc trong nớc. Giúp đỡ các
doanh nghiệp về đào tạo, hớng nghiệp và thông tin thị trờng.
Mặc dầu có nhiều cố gắng trong việc tạo điều kiện khuyến khích các
doanh nghiệp NQD song còn nhiều bất cập, hạn chế phát sinh. Một phần do
những nguyên nhân khách quan nh nền kinh tế thị trờng cha phát triển đầy đủ,
còn đang trong giai đoạn sơ khai cho nên không tránh khỏi những bất cập. Điều
này đòi hỏi Chính phủ phải có những nghiên cứu sâu sắc hơn nữa đối với TPKT
này trong thực tiễn ở các nớc có hoàn cảnh tơng đồng với Việt nam cũng nh trong
nền kinh tế Việt nam nhằm đa ra những chính sách đúng đắn thúc đẩy KT-NQD
phát triển.
1.1.3. Đặc điểm của kinh tế ngoài quốc doanh
1. Quy mô vốn nhỏ bé nghèo nàn.
Xuất phát điểm đổi mới kinh tế của chúng ta thấp: Một nớc thuần nông,
dân số lao động trong lĩnh vực nông nghiệp tại thời điểm đổi mới chiếm tới 92%,
đóng góp 95% tổng giá trị quốc nội, công nghiệp và dịch vụ gần nh không đáng
kể. Hoạt động nông nghiệp đợc coi là hoạt động sản xuất chính. Hơn nữa chúng
ta trải qua hai cuộc chiến tranh liên miên, nhiệm vụ chính của thời chiến là mọi
ngời cầm súng đánh đuổi giặc ngoại xâm, phát triển kinh tế chỉ là thứ yếu. Cho
nên, nền kinh tế vốn thuần nông, bị chiến tranh tàn phá nặng nề lại không có điều
kiện phục hồi phát triển. Một lý do khác, thời gian chúng ta chuyển sang kinh tế
thị trờng cha lâu, phát triển qua nhiều giai đoạn thăng trầm. Do đó không có quá
15
trình tích tụ và tập chung vốn, KT-NQD ở nớc ta chủ yếu dựa trên sở hữu t nhân
về vốn và t liệu sản xuất nên nguồn vốn kinh doanh của khu vực này mang tính

chất nhỏ bé nghèo nàn.
Đây là đặc điểm chính, nổi bật nhất của KT-NQD. Nó không chỉ là vấn đề
của riêng KT-NQD mà còn là vấn đề chung của toàn bộ nền kinh tế nớc ta. Là
vấn đề cấp thiết nhất trong các vấn đề KT-NQD phải đối mặt, đang đòi hỏi phải
giải quyết nhanh chóng. Để có những biện pháp hữu hiệu cần phải có những
nghiên cứu sâu sẵc về nguồn vốn kinh doanh của khu vực này. Nh chúng ta đã
biết, nguồn vốn gồm nợ và vốn chủ sở hữu. Nợ khi phân theo thời hạn gồm nợ
ngắn hạn và dài hạn. Vốn chủ sở hữu gồm vốn tự có, vốn góp, các loại cổ phiếu,
trái phiếu, lợi nhuận giữ lại. Tỷ trọng giữa nợ và vốn chủ sở hữu gọi là cơ cấu
vốn. Nghiên cứu thực tế hoạt động doanh nghiệp NQD cho thấy cơ cấu vốn của
khu vực này thấp, chủ yếu hoạt động bằng nguồn vốn chủ sở hữu, vốn huy động
rất nhỏ bé. Để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp NQD đã chủ động tìm kiếm
các nguồn vốn có thể huy động nh từ bạn bè, ngời thân, từ phía ngân hàng và các
tổ chức tài chính khác.
Trong các nguồn vốn đó, tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng nhất
nó có thể thoả mãn mọi nhu cầu vốn của doanh nghiệp về quy mô, thời hạn, ph-
ơng thức vay trả, có lãi suất hợp lý...Hơn nữa khi quan hệ với ngân hàng, các
doanh nghiệp có thể đợc hởng u đãi, miễn phí một số dịch vụ nh t vấn, hớng
dẫn...Mặc dù đóng vai trò quan trọng nhng nhìn chung việc vay đợc vốn ngân
hàng không phải là dễ dàng, điều này xuất phát từ cả hai phía. Về phía doanh
nghiệp có những lý do nh tài sản thế chấp không có hoặc có giá trị thấp không đủ
đảm bảo vốn vay, vốn tự có tham gia vào dự án không có hoặc không đảm tỷ lệ
yêu cầu của ngân hàng, kinh nghiệm quản lý yếu kém, uy tín cha cao. Những
nhân tố này tác động tiêu cực đến quyết định cho vay của ngân hàng vì nó có thể
dẫn đến một nguy cơ mất vốn cao. Mặt khác, về phía ngân hàng tâm lý dè dặt,
đối xử phân biệt là còn tồn tại do những khoản vỡ nợ trong khu vực này là rất
16
cao. Vì vậy cần tìm ra những giải pháp tháo gỡ khó khăn nói trên, để tín dụng
ngân hàng trở thành một kênh huy động vốn thuận lợi cho các doanh nghiệp.
2. Trình độ kỹ thuật công nghệ lạc hậu.

Xuất phát từ khó khăn do vốn ít, lại bị ràng buộc cơ chế quản lý kinh tế
bảo thủ lỗi thời, bị Mỹ cấm vận kinh tế trong một thời gian dài làm cách biệt với
nền khoa học công nghệ hiện đại của thế giới nên trình độ trang bị về kỹ thuật
công nghệ của khu vực NQD nghèo nàn lạc hậu, thiếu đồng bộ. Máy móc, thiết
bị kỹ thuật, công nghệ sản xuất kinh doanh chủ yếu là nhập từ các nớc xã hội chủ
nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ và đã qua tân trang lại hoặc các công nghệ cũ
đã bị thải loại ở những nớc phát triển, bằng nhiều con đờng đợc đa vào Việt Nam.
Tuổi thọ của chúng khá cao thờng trên 20 năm, phần lớn đã trích hết khấu hao.
Khi cấm vận kinh tế bị bãi bỏ, giao lu kinh tế quốc tế đợc mở rộng và tăng
cờng, Việt nam tích cực tham gia vào tiến trình khu vực hoá và toàn cầu hoá.
Trong quá trình đó Việt nam có điều kiện tiếp cận và học hỏi những thành tựu
khoa học kỹ thuật tiên tiến, làm cơ sỏ cho quá trình chuyển giao công nghệ. Kết
quả, chuyển giao công nghệ diễn ra ngày một nhiều, song cha đáng kể, mới chỉ
giới hạn trong một số lĩnh vực của nền kinh tế.
Do trình độ công nghệ quyết định đến năng suất lao động và chất lợng sản
phẩm. Cho nên kỹ thuật công nghệ lạc hậu tất yếu cho năng suất lao động thấp,
chất lợng sản phẩm kém, giá thành sản phẩm cao mà hệ quả của nó là sức cạnh
trạnh của sản phẩm trên thị trờng thấp, hiệu quả kinh doanh hạn chế. Vì vậy cần
có chính sách đầu t, chính sách tài chính, tín dụng hợp lý và hiệu quả nhằm giải
quyết những khó khăn trở ngại về kỹ thuật công nghệ của khu vực KT-NQD.
3. Trình độ quản lý kinh doanh non yếu, năng lực tay nghề ngời lao động thấp.
Trong những yếu tố quyết định sự thành bại của doanh nghiệp thì yếu tố
quản lý đợc đặt lên vị trí hàng đầu, nh các nhà nghiên cứu về khoa học quản lý
thờng nói: Quản lý dờng nh là vấn đề năng khiếu, nhng lại đợc cấu thành hai bộ
17
phận hữu cơ là khoa học và nghệ thuật. Do đó, dù có năm vững nguyên lý quản lý
cũng cha chắc đã làm đợc quản lý vì khoa học mới chỉ bao hàm vấn đề trình độ
mà cha nói lên bề dày kinh qua thực tế. Ngợc lại, có bề dày thực tiễn nhng lại
thiếu trình độ, nhất là trong điều kiện nền kinh tế Việt nam - khi mà các chức
năng, nhiệm vụ doanh nghiệp cha phân tách rạch ròi, đòi hỏi chủ doanh nghiệp

phải kiêm nhiều chức, năng nhiệm vụ, quản lý nhiều mặt thì sự thất bại đổ bể
luôn có thể xảy ra. Vì vậy, một nhà quản lý vừa phải có trình độ vừa có kinh
nghiệm thực tiễn. Vấn đề này tỏ ra khó đáp ứng đối với khu vực KT-NQD. Một
mặt, do thời gian chuyển sang kinh tế thị trờng cha đợc bao lâu các ông chủ
của các TPKT-NQD cha có kiến thức và kinh nghiệm kinh doanh trong kinh tế
thị trờng, trình độ hiểu biết pháp luật còn hạn chế. Đội ngũ cán bộ quản trị kinh
doanh cha đợc chuẩn bị, đào tạo và bồi dỡng có hệ thống cho nên các loại hình
sản xuất kinh doanh NQD đều phát triển theo hớng tự nhiên chỉ thấy lợi là làm.
Đội ngũ những nhà quản trị thì nh vậy, nhng tình hình đội ngũ ngời lao
động cũng không lấy gì làm sáng sủa khả quan. Ngời lao đông trong khu vực này
nói riêng và trong nền kinh tế nói chung đều có kỹ năng thấp, rất ít đợc qua đào
tạo, chủ yếu lao động phổ thông, đây cũng là đặc điểm chung của lao động nớc
ta.
Kinh tế ngoài quốc doanh đang ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong
nền kinh tế, tỷ trọng đóng góp GDP ngày càng tăng. Tuy nhiên để thực hiên đợc
vai trò của mình trong nền kinh tế cũng nh đờng lối chiến lợc phát triển kinh tế
trong tơng lai: Vào năm 2020 nớc ta cơ bản trở thành một nớc công nghiệp thì
KT-NQD cần phải có những bớc chuyển mạnh mẽ hơn nữa. Trong đó nâng cao
trình độ quản lý, năng lực tay nghề của ngời lao động là quyết định, bởi vì trong
bất kỳ hoạt động thực tiễn nào con ngời luôn là nhân tố trung tâm, nhân tố quyết
định mọi nhân tố khác. Vai trò của nhà nớc trong quá trình đó là hết sức lớn lao.
Bằng cách thành lập các hội hớng nghiệp, hội doanh nghiệp, hội các nhà sản xuất
18
nhỏ, tổ chức các khoá đào tạo ngắn hạn, chơng trình phổ biến kinh nghiệm sẽ tạo
điều kiện để ngời lao động năng cao tay nghề, nhà quản lý học hỏi kinh nghiệm.
4. Môi trờng sản xuất kinh doanh và thị trờng không ổn định.
Từ khi đợc thừa nhận tồn tại vào năm 1986 đến nay, Đảng và Chính phủ đã
ban hành hàng loạt văn bản pháp luật, các chính sách và chủ trơng có liên quan
nhằm tạo cơ sở pháp lý, tạo điều kiện hỗ trợ KT-NQD phát triển. Nh các chính
sách phát triển công nghiệp, nội ngoại thơng, chính sách tài chính...Tuy đã có

nhiều cố gắng song môi trờng pháp lý còn nhiều bất ổn, hành lang pháp lý cha
thực sự thông thoáng, chính sách kinh tế tài chính còn chung chung thiếu cụ thể
rõ ràng nhằm tạo điều kiện cho KT-NQD phát triển. Nh quyền bình đẳng pháp lý
giữa kinh tế quốc doanh và ngoài quốc doanh mặc dầu đã đợc thừa nhận nhng
trong các chính sách kinh tế điều đó vẫn cha nhất quán, đặc biệt trong chính sách
thuế, tín dụng, vốn...
Các sản phẩm KT-NQD nhìn chung có thị trờng nhỏ bé, mặc dù nhu cầu
về chúng rất lớn. Sở dĩ có điều này do khâu chất lợng sản phẩm thấp, bao bì mẫu
mã còn thô vụng cha thực sự thu hút lôi kéo ngời tiêu dùng. Nó có nguyên nhân
sâu xa từ vốn ít, công nghệ lạc hậu. Còn nguyên nhân gián tiếp là chính sách kinh
tế mở, đầu t của nớc ngoài vào Việt nam đã làm cho hàng ngoại nhập tràn làn,
hàng lậu với giá rẻ do trốn thuế và có chất lợng cao hơn. Do đó các doanh nghiệp
bị động và lúng túng trong việc xây dựng kế hoạch, phơng hớng sản xuất kinh
doanh và chiến lợc đầu t nên phơng thức kinh doanh chủ yếu là đánh quả,
chụp giật, rủi ro là rất lớn.
Đặc điểm này đã gây trở ngại rất lớn cho các doanh nghiệp NQD, vì ngân
hàng không muốn đầu t vốn đối với những khách thể không có phơng thức sản
xuất kinh doanh an toàn và hiệu qủa. Ngoài ra, các doanh nghiệp NQD thành lập
và hoạt động trong lĩnh vực thơng mại và dịch vụ là chủ yếu, chiếm tới hơn 70%.
Đối với thực tế nền kinh tế nớc ta mà nói, phơng hớng phát triển hợp lý là đầu t
19
vào sản xuất. Một nền sản xuất phát triển đảm bảo cung ứng phong phú và đa
dạng các loại sản phẩm cho trờng, trên cơ sở đó thơng mại và dịch vụ có điều
kiện phát triển và khẳng định vị trí của mình trong cơ cấu kinh tế.
1.2. Tín dụng ngân hàng và vai trò của nó đối với sự phát
triển kinh tế ngoài quốc doanh
1.2.1. Tín dụng ngân hàng
Trong nền kinh tế hiện nay có rất nhiều TPKT cùng tồn tại và hoạt động
nhằm đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trờng. Do sự khác biệt về ngành nghề kinh
doanh, đối tợng sản xuất, công nghệ...dẫn đến hiện tợng, tại một thời điểm có

nhiều tổ chức kinh tế phát sinh nhu cầu vốn cho sản xuất và có các đơn vị kinh tế
khác nhàn rỗi về vốn. Mâu thuẫn này tồn tại đan xen trong quá trình tuần hoàn
vốn, hình thành nên cung cầu về vốn. Để giải quyết vấn đề này cần tập trung các
nguồn tiền nhàn rỗi lại rồi phân bổ chúng trên cơ sở có hoàn trả gốc và lãi. Quan
hệ đó đợc gọi là quan hệ tín dụng, ngời đứng ra làm trung gian điều hoà vốn là
các ngân hàng.
Theo quan điểm của các nhà kinh tế: Tín dụng là sự chuyển nhợng tạm
thời một lợng giá trị từ ngời sở hữu sang ngời sử dụng và sau một thời hạn nhất
định đợc quay trở lại với ngời chủ sở hữu bằng một lợng giá trị lớn hơn với giá trị
ban đầu.
Tín dụng ngân hàng là hình thức cấp tín dụng trong đó tổ chức tín dụng
giao cho khách hàng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích trong một thời gian
nhất định theo thoả thuận giữa hai bên với nguyên tắc có hoàn trả cả gốc và lãi.
Đây là quan hệ gián tiếp mà ngời tiết kiệm thông qua vai trò trung gian
của ngân hàng, thực hiện đầu t vốn vào các chủ thể có nhu cầu về vốn. Khác với
hình thức tín dụng trực tiếp, nguồn vốn của tín dụng ngân hàng là nguồn vốn huy
động của xã hội với khối lợng và thời hạn khác nhau do đó nó có thể thoả mãn
các nhu cầu vốn đa dạng về khối lợng cũng nh thời hạn và mục đích sử dụng.
20
1.2.2. Các hình thức tín dụng ngân hàng
Dựa vào các tiêu thức phân loai khác nhau ta có thể chia ra các hình thức
tín dụng khác nhau:
Căn cứ vào thời hạn của khoản vay
- Tín dụng ngắn hạn: Là loại hình cho vay có thời hạn vay từ một năm trở
xuống nhằm đáp ứng nhu cầu vốn lu động của doanh nghiệp.
- Tín dụng trung và dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn vay trên một
năm. Gồm cho vay trung hạn từ 1 - 5 năm, cho vay dài hạn từ 5 năm trở lên nhng
không đợc vợt quá thời hạn hoạt động của đơn vị theo quết định thành lập và
không quá 15 năm đối với những dự án phục vụ đời sống. Cho vay trung và dài
hạn nhằm đầu t cho phát triển nh các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng, mua sắm

trang thiết bị kỹ thuật, mở rộng sản xuất kinh doanh.
Căn cứ vào mức độ đảm bảo
- Cho vay có đảm bảo: Là việc cho vay mà ngời vay phải có tài sản thế
chấp hoặc phải có sự bảo lãnh của bên thứ 3 có năng lực hoàn trả.
- Cho vay có không đảm bảo: Là việc cho vay dựa trên mức độ tín
nhiệm, tin cậy mà ngân hàng không cần bảo đảm, thế chấp cầm cố hay bảo
lãnh của bên thứ 3.
Căn cứ vào đối tợng cho vay
- Cho vay kinh tế quốc doanh: Là hình thức cho vay của ngân hàng đối với
các doanh nghiệp nhà nớc.
- Cho vay kinh tế ngoài quốc doanh: Là việc cho vay của ngân hàng đối
với các TPKT-NQD nh Công ty TNHH, Công ty cổ phần, Doanh nghiệp t nhân...
Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay
- Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh, lu thông hàng hoá. Khoản vay sẽ
đợc dùng nhằm trang trải cho chi phí sản xuất, đáp ứng nhu cầu vốn lu động
thanh toán chi trả giữa các doanh nghiệp.
- Cho vay tiêu dùng: Là hình thức cho vay để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
nh mua sắm hàng hoá, xây dựng nhà ở...
21
1.2.3. Vai trò tín dụng ngân hàng đối với sự phát triển kinh tế ngoài quốc doanh
1.2.3.1. Đặc điểm tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
Hoạt động ngân hàng là hoạt động gắn bó hữu cơ với các hoạt động sản
xuất kinh doanh của các ngành trong nền kinh tế quốc dân. Các ngành kinh tế
quốc dân muốn mở rộng và phát triển thì không thể không kể đến nguồn vốn
ngân hàng tài trợ. Ngợc lại nếu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
kém hiệu quả sẽ dẫn đến rủi ro tín dụng, ảnh hởng đến hoạt động kinh doanh của
ngân hàng. Nói cách khác, hiệu quả hoạt động doanh nghiệp là hiệu quả của ngân
hàng thông qua quan hệ tín dụng. Vì vậy khi cho các doanh nghiệp vay vốn phải
giám sát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn, xem có sử dụng đúng mục đích không,
có hiệu quả không? Thực hiện điều này rất khó, nhất là đối với các doanh nghiệp

NQD do những đặc điểm đặc thù của thành phần này đem lại nh: Tồn tại và hoạt
động trong một phạm vi rộng lớn cả về mặt không gian lẫn ngành kinh tế, trình
dộ quản lý yếu kém, am hiểu về luật pháp và cơ chế kinh tế thị trờng thấp...Đến l-
ợt nó những khó khăn này làm cho KT-NQD khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn
tín dụng ngân hàng.
Trong thực tế nhiều khách hàng NQD vay vốn không xây dựng đợc phơng
án sản xuất kinh doanh mà phải nhờ sự giúp đỡ của cán bộ tín dụng, có khi phơng
án sản xuất kinh doanh không đúng với tình hình sản xuất của khách hàng. Đặc
biệt nổi cộm lên vấn đề tổ chức hạch toán kinh tế và tổ chức quản lý tài chính
theo đúng pháp luật kế toán và thống kê. Sổ sách ghi chép không khoa học, nhập
nhằng, rối ren; báo cáo tài chính là hình thức, số liệu không phản ánh đúng sự
thật. Tất cả những điều này gây ra khó khăn cho ngân hàng trong công tác thẩm
định và quyết định cho vay, tạo tâm lý e dè đối với các doanh nghiệp thuộc thành
phần này.
Để có thể đợc vay vốn, khách hàng phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc
bảo lãnh của bên thứ 3 nhằm đảm bảo nghĩa vụ trả nợ một cách đầy đủ của ngời
22
vay vốn đối với ngân hàng, thực hiện an toàn cho đồng vốn tài trợ. Tình trạng ng-
ời vay không có tài sản thế chấp hoặc có nhng giá trị thấp không đảm bảo đợc
cho món vay, tỷ lệ vốn tự có tham gia vào dự án thấp hơn tỷ lệ yêu cầu của ngân
hàng là thờng xuyên phổ biến. Thực tế cho thấy nhiều khách hàng vay vốn ngân
hàng thờng xuyên chỉ dùng một tài sản thế chấp. Những lần vay sau, theo quy
đinh của Nhà nớc phải làm công chứng gây phiền hà cho ngời vay, giải quyết
mâu thuẫn này nhiều ngân hàng đã cho vay theo kế hoạch dẫn đến món vay ngắn
hạn nào cũng cho vay theo kế hoạch không phù hợp với tình hình sản xuất kinh
doanh và luân chuyển vốn thực tế của ngời vay.
Trong quá trình thực hiện khoản vay việc giám sát hoạt động sử dụng vốn
vay của khách hàng NQD để đảm bảo khách hàng sử dụng đúng mục đích và
hiệu quả còn nhiều khó khăn vì ngân hàng cha có công cụ để kiểm tra quan hệ
mua bán chịu hàng hóa giữa các doanh nghiệp với nhau. Khi khoản vay có vấn đề

thì việc thu hồi vốn gặp nhiều khó khăn. Đặc biệt là việc giải quyết tài sẩn thế
chấp vì nó liên quan đến nhiều bên, nhiều thủ tục pháp lý từ phía cơ quan pháp
luật.
1.2.3.2. Vai trò tín dụng ngân hàng đối với kinh tế ngoài quốc doanh
Chúng ta đều biết rằng muốn phát triển kinh tế thì điều trớc tiên phải có
vốn (vốn bằng tiền) mà để có vốn thì phải có tổ chức đủ chức năng để huy động
và tập trung nó trớc khi đem sử dụng. ở bất kì quốc gia nào thì việc này do hai tổ
chức thực hiện: Tổ chức tài chính (các cơ quan tài chính) và các tổ chức tín dụng.
Điều này chủ yếu đợc thực hiên bởi các tổ chức tín dụng,vì nh Mác nói Một
mặt, ngân hàng là sự tập trung t bản tiền tệ của ngời có tiền cho vay, mặt khác nó
là sự tập trung của ngời đi vay.Vậy là tín dụng ngân hàng đã đóng góp vai trò rất
quan trọng đối với nền kinh tế từ buổi sơ khai cho đến các ngân hàng hiên đại
ngày nay. Nó góp phần thu hút tiền nhàn rỗi trong xã hội nâng cao khả năng sử
dụng vốn, thúc đẩy cạnh tranh trong nền kinh tế. Đặc biệt đối với KT-NQD tín
dụng ngân hàng có vai trò rất quan trọng thể hiện trên các mặt sau.
23
Thứ nhất: Tín dụng ngân hàng thúc đẩy sự ra đời và phát triển của các
doanh nghiệp ngoài quốc doanh.
Điều kiện tiên quyết đối với việc ra đời và phát triển của các cơ sở sản xuất
kinh doanh là vốn. Để thực hiện quá trình sản xuất cần có một nguồn vốn đủ để
mua sắm tài sản cố định, tài sản lu động và tài trợ cho các chi phi cần thiết khác.
Và nguồn vốn đợc xem là quan trọng nhất để tài trợ cho những hoạt động này là
tín dụng ngân hàng. Nếu chỉ dựa vào vốn tự có và tín dụng thơng mại thì không
đủ để tồn tại, cạnh tranh và phát triển. Tín dụng ngân hàng là nguồn vốn quan
trọng nhất tài trợ cho sự ra đời của các doanh nghiệp, tạo cơ sở vật chất cho các
cơ sở sản xuất kinh doanh hoạt động. Tín dụng ngân hàng tham gia vào tất cả các
khâu từ quá trình sản xuất đến lu thông hàng hoá.
Đối với ngành sản xuất, chế biến, khai thác...để đảm bảo sản xuất kinh
doanh liên tục cân thiết phải có vốn để dự trữ nguyên liệu, thành phẩm, bù đắp
các chi phí sản xuất. Tất cả các công việc đó sẽ không thực hiện đợc nếu thiếu sự

hỗ trợ của ngân hàng thông qua hoạt động tín dụng.
Trong lĩnh vực lu thông để đảm bảo đa hàng hoá từ nơi sản xuất đến ngời
tiêu dùng, các doanh nghiệp NQD cần có vốn để dự trữ khối lợng hàng hoá cần
thiết và trang trải các chi phí lu thông, thuế... Mà những doanh nghiệp này có số
vốn hoạt động nhỏ vì vậy để tồn tại và phát triển thì các doanh nghiệp này cần có
sự hỗ trợ của tín dụng ngân hàng.
Thứ hai: Tín dụng ngân hàng là đòn bẩy kinh tế thực hiện quá trình
tái sản xuất mở rộng, tạo điều kiện ứng dụng kỹ thuật công nghệ tiên tiến
hiện đại, nâng cao năng lực sản xuất và hiệu quả kinh tế, tạo nhiều sản
phẩm hàng hoá tiêu dùng.
Sản xuất và không ngừng mở rộng sản xuất là mục tiêu của mọi doanh
nghiệp. Tuy nhiên để thực hiện quá trình tái sản xuất mở rộng, để nâng cao năng
24
xuất lao động, chất lợng sản phẩm, tạo lợi thế trong cạnh tranh các doanh nghiệp
buộc phải thờng xuyên cải tiến máy móc thiết bị, đổi mới công nghệ, đặc biệt
trong thời đại khoa học kĩ thuật phát triển nh ngày nay đòi hỏi phải có một nguồn
vốn lớn. Trong khi tích luỹ nội bộ doanh nghiệp cha đủ thì tín dụng ngân hàng trở
thành một nguồn quan trọng cho phép thực hiện điều này. Thông qua tín dụng
ngân hàng các doanh nghiệp sẽ đợc thoả mãn nhu cầu vốn, kết quả hỗ trợ các
doanh nghiệp nâng cao năng lực sản xuất tạo ra nhiều hàng hoá cho thị trờng đạt
đợc hiệu quả kinh tế ngày càng cao.
Thứ ba: Tạo điều kiện cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh tiết kiệm
chi phí, tăng thu nhập, tăng cờng công tác hạch toán kế toán.
Các doanh nghiệp là ngời chiu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh
của chính mình nên khi vay vốn họ phải tính toán làm sao đồng vốn vay đợc sử
dụng hiệu quả nhất, tạo ra nhiều lợi nhuận nhất đồng thời đảm bảo hoàn trả cả
gốc và lãi cho ngân hàng. Chính đặc điểm hoàn trả mà tín dụng ngân hàng buộc
ngời kinh doanh phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tính toán chăt chẽ và cụ thể
chi phí, tìm mọi cách tăng tốc độ quay vòng của vốn.
Mặt khác, muốn vay đợc vốn ngân hàng bản thân các doanh nghiệp phải

lập đợc và chứng minh đợc tính trung thực, tính minh bạch của các báo cáo tài
chính. Để làm đợc điều này các doanh nghiệp buộc phải tổ chức công tác hạch
toán chính xác và chặt chẽ theo pháp lệnh kế toán. Nh vậy tín dụng ngân hàng
góp phần nâng cao chất lợng công tác hạch toán.
Thứ bốn: Thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn sản xuất.
Các xí nghiệp và công ty làm ăn hiệu quả, có uy tín sẽ đợc ngân hàng tập
trung vốn nên có điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, thị trờng tiêu thụ và
cạnh tranh thắng lợi trên thơng trờng. Tín dụng ngân hàng sẽ thúc đẩy quá trình
tích tụ và tập trung vốn, tạo tiền đề vật chất quan trọng cho các công ty, xí nghiệp
25

×