Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

SKKN rèn kỹ năng tự học ngữ văn cho học sinh trung học cơ sở (THCS) qua hoạt động tự học ở nhà

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.74 KB, 36 trang )

1
PHẦN I: ĐẶT VẤN ĐỀ
I. Lý do chọn đề tài
1. Cơ sở lí luận
Trong báo cáo của UNESCO [4,66,67,83]: “Học tập – một kho báu tiềm ẩn”
đã xác định các trụ cột của giáo dục như sau: “Học để hiểu, học để làm, học để
hợp tác, cùng chung sống và học để làm người”, hướng tới xây dựng một xã hội
học tập. Muốn thực hiện được điều này, trong dạy học hiện nay, một trong những
mục tiêu quan trọng là phải hình thành phương pháp tự học ở người học. Học sinh
khơng chỉ học tri thức của mà cịn học cả cách tìm ra tri thức và những kỹ năng cần
thiết để có thể tự học tập một cách độc lập và chủ động. Như vậy, kiến thức chưa
phải là đích cuối cùng mà thơng qua kiến thức học thúc đẩy được động cơ, hình
thành được phương pháp, kỹ năng học.
Hiện nay, Đảng và Nhà nước ta cũng rất coi trọng sức mạnh nội lực – tự
học của con người. Nghị quyết Trung ương II khóa VIII (12/1996) đã khẳng định:
“Đổi mới phương pháp giáo dục đào tạo, khắc phục lối truyền thụ một chiều, rèn
luyện thành nếp tư duy sáng tạo của người học; từng bước áp dụng các phương pháp
tiên tiến, hiện đại vào quá trình dạy học, đảm bảo điều kiện và thời gian tự học, tập
trung nâng cao chất lượng, phát triển phong trào tự học, tự đào tạo thường xuyên,
rộng khắp trong toàn dân, nhất là thanh nhiên…”. Muốn thực hiện được điều này,
trong dạy học hiện nay, một trong những mục tiêu quan trọng là phải hình thành
phương pháp tự học ở người học. Học sinh khơng chỉ học tri thức của mà cịn học
cả cách tìm ra tri thức và những kỹ năng cần thiết để có thể tự học tập một cách
tích cực, chủ động và độc lập. Như vậy, có thể nói tự học là một trong những kĩ
năng quan trọng của giáo dục, là năng lực cần có của mỗi học sinh. Đặc biệt, đối với
chương trình phổ thơng mới thì việc tự học là một trong năng lực quan trọng và cần
thiết đối với học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
Tuy nhiên, đối với học sinh nói chung và học sinh THCS nói riêng, khả năng



2
tự học cịn chưa tốt, các em chưa có ý thức, kĩ năng, phương pháp cũng như kinh
nghiệm. Điều đó dẫn đến hoạt động tự học của học sinh hiện nay vẫn còn nhiều bất
cập. Trong hoạt động dạy học nói chung và dạy học mơn Ngữ văn cấp THCS nói
riêng, học sinh vẫn học theo lối ghi chép máy móc, học nhồi nhét, thụ động. Khả
năng tự học - yếu tố nội lực ở học sinh vẫn ở dưới dạng tiềm năng. Việc rèn
phương pháp tự học cho học sinh trong mơn Ngữ văn cịn gặp khơng ít khó khăn.
Thực tế hiện nay cho thấy, số học sinh yêu thích mơn Ngữ văn ngày càng ít đi, một
số ít bộ phận học sinh có ý thức học thì chúng ta lại chưa phát huy được niềm đam
mê học Văn ở các em.
Trong hai năm học vừa qua, do tình hình đại dịch Covid diễn biến phức tạp
nên hoạt động dạy học đã bị ảnh hưởng rất lớn. Thay vì dạy học trực tiếp như
trước, đã có nhiều thời điểm trong năm học chúng ta phải chuyển sang hình thức
dạy học trực tuyến. Trong bối cảnh dạy học trực tuyến, việc tự học lại càng trở
nên cần thiết và cấp bách. Theo tinh thần Công văn 4040/BGDĐT – GDTrH ngày
16/9/2021, hướng dẫn thực hiện Chương trình giáo dục phổ thơng cấp THCS,
THPT năm học 2021 – 2022 ứng phó với dịch Covid – 19 thì sự giảm tải đã được
thể hiện rất rõ ở tất cả các môn học. Trong đó, bộ mơn Ngữ văn có rất nhiều các
đơn vị bài học đã được chuyển thành hình thức tự đọc, tư học, tự làm nên càng làm
cho vai trò của hoạt động tự học trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Làm thế nào
để học sinh THCS có thói quen tự học? Đây là một bài toán mà các giáo viên cần
đặc biệt quan tâm và cũng là vấn đề mà bản thân tôi vô cùng trăn trở, khi giáo viên
và học sinh chỉ có thể tương tác với nhau qua màn hình nhỏ. Nhằm đáp ứng được
những địi hỏi đó và góp phần vào việc nâng cao chất lượng học tập cho học sinh
hiện nay, tôi đã thực hiện đề tài: “Rèn kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh trung
học cơ sở (THCS) qua hoạt động tự học ở nhà” với mong muốn góp một số ý kiến
nhỏ của mình trong việc rèn kỹ năng tự học, phát triển năng lực học tập cho học
sinh, nâng cao chất lượng dạy học.



3
PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Những nội dung lí luận liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu
1. Khái niệm tự học
Tự học là hoạt động nhận thức có tính độc lập cao do cá nhân tự tri giác, tiếp
thu, lĩnh hội các kiến thức, các kinh nghiệm thơng qua các hình thức, thao tác trí tuệ
khác nhau nhằm hồn thiện, nâng cao trình độ, năng lực người học, biến những tri
thức của nhân loài thành tri thức của bản thân. Tự học có thể thơng qua các phương
pháp và hình thức khác nhau như: Tự học qua sách vở, giáo trình; tự học qua mạng xã
hội, qua tạp chí sách báo.
2. Những lợi ích của việc tự học
Luật Giáo dục được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
thông qua năm 2019 quy định rõ: “Phương pháp giáo dục phát huy tính tích cực, chủ
động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả
năng thực hành, lịng say mê học tập và ý chí vươn lên.”
Tự học giúp con người có được ý thức tốt nhất trong q trình học: chủ động
suy nghĩ, tìm tịi, khám phá, nghiên cứu và nắm được bản chất vấn đề từ đó tự học
giúp ta tiếp thu được kiến thức từ nhiều nguồn khác nhau như sách, báo, từ truyền hình
tivi, từ bạn bè hoặc từ những người xung quanh, những kinh nghiệm sống của nhân
dân. Tự học giúp ta có thể chủ động ghi nhớ các bài giảng trên lớp, tiết kiệm được thời
gian, có thể tiếp thu một lượng kiến thức lớn mà vẫn hiểu và nắm chắc bài học. Qua tự
học, chúng ta biết chủ động luyện tập thực hành, giúp ta có thể nhanh chóng hình
thành kĩ năng, củng cố và nâng cao kiến thức đã học. Vì vậy, chủ động tự học sẽ
giúp ta tìm ra được phương pháp học tốt nhất mang lại hiệu quả cao cho chính bản
thân mình. Tự học là cách tốt nhất giúp ta tiến bộ hơn trong học tập, mang lại một kết
quả học tập cao nhất có thể. Tự học sẽ giúp ta nhớ lâu và vận dụng những kiến thức đã
học một cách hữu ích hơn trong cuộc sống. Ngồi ra, tự học cịn giúp con người trở
nên năng động, sáng tạo, tích cực, khơng ỷ lại, không phụ thuộc vào người khác.
Người biết tự học là người có ý thức cao, chủ động trong cuộc sống của chính mình,



4
những người này sẽ đi nhanh đến thành công hơn. Tự học giúp con người chủ động
trong việc tìm kiếm thơng tin, tiếp thu được nhiều kiến thức bổ ích và có thể tự rút ra
được những bài học cho riêng mình.
II. Thực trạng về vấn đề kĩ năng tự học của học sinh
1. Thực trạng
Trong đổi mới phương pháp dạy học hiện nay, việc rèn luyện kỹ năng tự học
cho học sinh là vô cùng cần thiết, quan trọng.
Trong hoạt động dạy học nói chung và dạy học mơn Ngữ văn cấp THCS nói
riêng, học sinh vẫn học theo lối ghi chép máy móc, học nhồi nhét, thụ động. Khả năng
tự học - yếu tố nội lực ở học sinh vẫn ở dưới dạng tiềm năng. Việc rèn phương pháp
tự học cho học sinh trong mơn Ngữ văn cịn gặp khơng ít khó khăn. Thực tế hiện nay
cho thấy, số học sinh u thích mơn Ngữ văn ngày càng ít đi, một số ít bộ phận học
sinh có ý thức học thì chúng ta lại chưa phát huy được niềm đam mê học Văn ở các
em. Mặt khác, Ngữ Văn là mơn học có khối lượng kiến thức khá rộng, mỗi tuần ở các
khối 6, 7, 8 chiếm số lượng 4 tiết/tuần riêng khối 9 có 5 tiết/tuần. Với số lượng trên ta
thấy môn Ngữ Văn chiếm số lượng tiết nhiều nhất trong tất cả các môn học. Trong
khi đó, ở các tiết dạy trên lớp, giáo viên tuy có dành thời gian rèn kỹ năng tự học cho
học sinh nhưng chưa nhiều, chủ yếu tập trung hướng dẫn học sinh tìm kiếm, khai
thác kiến thức mới, giải quyết một số bài tập ở sách giáo khoa. Vì vậy, địi hỏi học
sinh phải có phương pháp tự học ở nhà thật tốt mới có thể nắm kiến thức trên lớp,
giáo viên cần chú trọng rèn kỹ năng tự học cho học sinh, đặc biệt là tự học ở nhà.
Cùng với đổi mới chương trình, đổi mới sách giáo khoa và trước yêu cầu đổi
mới phương pháp dạy học hiện nay, thì việc đổi mới phương pháp dạy học mơn Ngữ
văn bước đầu cũng đã có những thành cơng nhất định. Nhiều thầy cô giáo dạy Ngữ
văn cũng đã rất nhiệt tình, tích cực tìm tịi nghiên cứu, đề xuất và thực hiện các
phương pháp dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh
trong việc học Ngữ văn cấp THCS. Thực trạng lên lớp theo kiểu thầy giảng, trò nghe,
thầy đọc trò chép đã giảm đáng kể, khơng khí giờ Ngữ văn đã có sự biến đổi tích

cực. Theo đó, khâu hướng dẫn học sinh học và chuẩn bị bài ở nhà cũng được các


5
thầy cơ quan tâm hơn. Vì thế, việc rèn luyện kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh
THCS được nâng lên đáng kể. Qua thực tế giảng dạy của bản thân và dự giờ đồng
nghiệp, tôi nhận thấy rằng ở tiết học nào học sinh học bài, làm bài ở nhà tốt dưới
sự hướng dẫn tích cực của giáo viên thì tiết học đó học sinh hoạt động sơi nổi, tích
cực, chủ động hơn, hiệu quả giờ học cao hơn. Rõ ràng tiết học đó phát huy được khả
năng tự học của học sinh.
Bên cạnh những điểm đã làm được như đã nêu trên, việc rèn luyện kỹ năng
tự học ở nhà môn Ngữ văn cho học sinh vẫn còn gặp nhiều hạn chế. Để tiến hành
thực hiện đề tài này, tôi tiến hành khảo sát thực tế học, làm bài tập ở nhà của học
sinh một số lớp ở trường tơi qua hình thức trắc nghiệm và qua các bài tập, bài kiểm
tra. Sau đây là các số liệu khảo sát một số lớp khối 8 năm học 2020 – 2021:
Bảng 1: Học bài cũ
Lớp

Không học bài
13/50

Học chiếu lệ
15/50

Học thuộc bài
12/50

(26%)

(30%)


(24%)

8A2

21/51 (41,1%)

18/51 (35,3%)

8A3

14/45 (31,1%)

16/45 (35,5%)

8A1

7/51 (13,7%)
8/45
(17,8%)

Học hiểu bài
10/50
(20%)
5/51
(9,8%)
7/45
(15,6%)

Bảng 2: Soạn bài

Lớp
8A1
8A2
8A3

Không soạn bài
15/50

Soạn chiếu lệ
18/50

Soạn chu đáo
12/50

(30%)
25/51

(36 %)
17/51

(24%)
9/51

(49%)
9/45

(33,3%)
15/45

(17,6%)

16/45

(33,3%)

(35,5%)

(20%)

Soạn nâng cao
5/50
(10%)
0/51
(0%)
5/45
(11,2%)

Bảng 3: Làm bài tập
Lớp

Không làm bài

Làm chiếu lệ

Làm hết

Làm hết và làm
thêm ở sách khác


6

8A1
8A2
8A3

8/50

19/50

15/50

8/50

(16%)
23/51

(38%)
17/51

(30%)
11/51

(16%)
0/51

(46%)
6/45

(33,3%)

(21,5%)

24/45

(0%)
5/45

(53,3%)

(11,2%)

(13,3%)

10/45 (22,2%)

Qua kết quả khảo sát, tôi thấy thực trạng học bài cũ, soạn bài, làm bài tập đối
với bộ môn Ngữ Văn ở các lớp học sinh của trường tơi cịn thấp và khơng đồng đều
giữa các lớp. Đặc biệt, số học sinh không làm và làm chiếu lệ vẫn chiếm tỉ lệ cao.
Thực trạng đó sẽ làm cho học sinh có thói quen xấu như: căn bệnh ỷ lại, thiếu suy
nghĩ, thiếu chí tiến thủ, thiếu tự giác, thiếu tích cực trong việc chiếm lĩnh kiến thức,
rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức, phương pháp để làm bài tập. Với yêu cầu đổi
mới giáo dục, thực trạng đó chưa đáp ứng được chất lượng học tập của học sinh, mục
đích giáo dục của ngành. Để khắc phục thực trạng trên, việc đặt vấn đề rèn luyện kĩ
năng tự học và làm bài tập ở nhà trước khi đến lớp và sau bài học, tiết học là một vấn
đề có tính cấp bách đối với học sinh THCS hiện nay.
2. Nguyên nhân của thực trạng
- Đối với giáo viên
Giáo viên chưa tạo cho học sinh niềm tin, tình u, sự đam mê đối với văn học.
Chưa tìm tịi nhiều phương pháp dạy học mới, phù hợp kích thích tính tích cực, chủ
động của học sinh.
Giáo viên chưa thực sự chú trọng đến tầm quan trọng của việc rèn kỹ năng tự
học Ngữ văn THCS thông qua hoạt động tự học và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh.

Số tiết học sinh học bài và chuẩn bị bài chu đáo dưới sự hướng dẫn tích cực, cẩn
thận của giáo viên cịn ít, hầu như chỉ tập trung ở những tiết thao giảng, thực tập.
Tình trạng giáo viên hướng dẫn học sinh học ở nhà qua loa, chiếu lệ vẫn còn xảy ra
nhiều, kiểu như “Về nhà các em nhớ học bài cũ và soạn bài mới chuẩn bị cho tiết
sau”, hay “Các em làm bài tập còn lại ở sách giáo khoa và đọc trước bài mới”, …
Làm như vậy thì giáo viên đỡ vất vả, mất ít công sức nhưng chưa tạo được hứng thú


7
học tập cho học sinh, chưa thể hiện được sự ràng buộc với học sinh trong việc giao
nhiệm vụ học tập về nhà, đặc biệt chưa cho học sinh nhận thức được tầm quan
trọng của việc học ở nhà, và đồng thời chưa thể hiện được vai trò, trách nhiệm của
giáo viên trong việc hướng dẫn học sinh tự học. Vì thế, việc hình thành và rèn luyện
kỹ năng tự học qua hoạt động học ở nhà còn chưa thường xuyên và đồng đều ở học
sinh, hiệu quả học tập mơn Ngữ Văn chưa cao.
Một số giáo viên cịn q cứng nhắc trong việc hướng dẫn học sinh tự học,
chuẩn bị bài ở nhà như: yêu cầu học sinh phải giải toàn bộ bài tập, trả lời hết tất cả
các câu hỏi có ở sách giáo khoa khơng kể khó hay dễ, không quan tâm đến đối tượng
học sinh. Giáo viên không định hướng trọng tâm kiến thức, kỹ năng cho học sinh.
Ngồi ra, giáo viên tuy có hướng dẫn học sinh học ở nhà nhưng lại lỏng lẻo ở
khâu kiểm tra: giáo viên chủ yếu kiểm tra số lượng bài tập học sinh hoàn thành mà
chưa chú trọng đến chất lượng làm bài của học sinh tạo cơ hội cho các em chép bài
theo tài liệu, chép lại bài của bạn để đối phó.
Giáo viên chưa có biện pháp để động viên kích thích sự hứng thú học tập hoặc
chưa có biện pháp nhắc nhở, răn đe kịp thời, chưa tạo được động lực học tập cho học
sinh nên chưa phát huy được tính tích cực, tự giác, tự học của học sinh trong quá
trình học, làm bài và chuẩn bị bài ở nhà.
Trong các tiết dạy học, thời gian cho dành cho hoạt động hướng dẫn tự học ở
nhà và kiểm tra hoạt động này khơng nhiều. Vì vậy, nhiều giáo viên còn xem nhẹ khâu
hướng dẫn học sinh tự học ở nhà và ngay cả khâu kiểm tra cũng cịn qua loa, chiếu lệ,

mang tính hình thức. Điều này dẫn đến việc rèn kỹ năng tự học kém hiệu quả.
- Đối với học sinh
Nhiều em học sinh còn chưa xác định được vai trò, tầm quan trọng của vấn đề
tự học. Chưa xác định chính xác động cơ học tập vì thế chưa nỗ lực, cố gắng hết
mình trong quá trình tự học ở nhà.
Một bộ phận không nhỏ học sinh lười suy nghĩ, học vẹt, không có khả năng vận
dụng kiến thức, khơng rèn từ, rèn câu, rèn viết mà chỉ học thuộc lòng văn mẫu, bài
mẫu và sao chép một cách rập khn máy móc theo một bài mẫu hoặc dàn ý có sẵn


8
với mục đích là đối phó. Khả năng viết bài, tạo lập văn bản giống như việc làm bài
của các mơn khoa học Lịch sử, Địa lí.
Một số nữa thì ham chơi, lười học, cha mẹ buông lỏng không kèm cặp nên
khơng tập trung học bài, thậm chí khơng học bài ở nhà. Tình trạng học sinh đi học về
khơng nhìn đến sách vở, hơm sau lại mang cặp đến trường không phải là hiếm gặp.
Điều này khiến cho việc rèn kỹ năng tự học môn Ngữ Văn gặp không ít khó khăn.
- Đối với phụ huynh
Ngày nay, do tâm lí chung của một bộ phận phụ huynh bị ảnh hưởng bởi xu thế
phát triển của nền kinh tế thị trường nên chỉ hướng việc học của con cái vào một số
mơn khoa học tự nhiên, ngoại ngữ, tin học...Vì các bậc phụ huynh vẫn cho rằng đó là
những mơn học có lợi cho cơng việc, cho việc chọn nghề sau này. Từ đó dẫn đến
việc các cháu ít hoặc khơng chú trọng đến mơn Ngữ văn.
Ngồi những ngun nhân xuất phát từ giáo viên và học sinh, ta còn nhận
thấy rằng tài liệu hướng dẫn học sinh tự học ở nhà môn Ngữ văn THCS nhằm rèn
kỹ năng tự học cịn chung chung, cịn ít, cịn hiếm. Điều này cũng phần nào gây khó
khăn cho giáo viên trong quá trình dạy học.
Trên đây là thực trạng thường thấy khi hướng dẫn học sinh học bài, làm bài tập
ở nhà khiến cho việc rèn luyện kỹ năng tự học cho học sinh đạt hiện quả chưa cao. Từ
những hạn chế nêu trên địi hỏi phải có biện pháp khắc phục nhằm nâng cao chất

lượng hoạt động tự học ở nhà mơn Ngữ Văn cấp THCS của học sinh góp phần thúc
đẩy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh trong quá trình học tập, phát huy
được yếu tố nội lực của bản thân mỗi học sinh.

III. Rèn luyện kỹ năng tự học Ngữ văn cho học sinh trung học cơ sở
(THCS) qua hoạt động tự học ở nhà
1. Định hướng những biện pháp rèn kỹ năng tự học môn ngữ văn cho
học sinh THCS qua hoạt động tự học ở nhà
Định hướng cho các biện pháp rèn kỹ năng tự học môn Ngữ Văn THCS qua
hoạt động học, làm bài và chuẩn bị bài ở nhà của học sinh.


9
1.1. Định hướng phát triển năng lực cho học sinh
Dự thảo “Đề án đổi mới chương trình và sách giáo khoa (SGK) giáo dục phổ
thông sau 2015” nêu rõ một trong những quan điểm nổi bật là phát triển chương trình
nhằm định hướng năng lực cho học sinh nhằm đáp ứng hiệu quả một yêu cầu phức
hợp của hoạt động trong bối cảnh nhất định. Ngoài những năng lực chung như: năng
lực tự học, năng lực giải quyết vấn đề, năng lực sáng tạo, năng lực quản lý bản thân,
năng lực giao tiếp, năng lực hợp tác, … môn Ngữ Văn cấp THCS còn hướng tới hai
năng lực đặc thù là năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực thưởng thức Văn học/cảm
thụ thẩm mỹ. Vì vậy hướng dẫn học sinh học, chuẩn bị bài ở nhà trong môn Ngữ
văn THCS chú trọng phát triển năng lực cho học sinh.
1.2. Xuất phát từ các mục tiêu biên soạn sách giáo khoa
Sách giáo khoa là sự cụ thể hóa yêu cầu về kiến thức và kỹ năng quy định
trong chương trình giáo dục của các mơn học, đáp ứng u cầu phương pháp dạy học.
Điều 32 Luật Giáo dục năm 2019, khẳng định: “Sách giáo khoa đề sử dụng chính
thức thống nhất, ổn định trong giảng dạy, học tập ở nhà trường và các cơ sở giáo dục
khác.” Giáo viên hướng dẫn học sinh học ở nhà cần bám sát mục tiêu cần đạt, các
phần, các mục của nội dung bài học và các hệ thống câu hỏi gợi ý, tìm hiểu ở sách

giáo khoa. Tuy nhiên khơng q lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo khoa.
1.3. Cần bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng
Để hoạt động dạy – học mơn Ngữ Văn THCS nói chung và hoạt động hướng
dẫn học sinh học ở nhà nói riêng đạt được những yêu cầu cơ bản, tối thiểu về kiến
thức, kỹ năng, dạy – học không quá tải và không quá lệ thuộc hoàn toàn vào sách giáo
khoa; giáo viên cần bám vào chuẩn kiến thức, kỹ năng của mỗi bài học, tiết học.
Việc khai thác sâu về kiến thức, kỹ năng cần phải phù hợp với khả năng tiếp nhận của
đối tượng học sinh.
1.4. Hướng dẫn sử dụng phương pháp tự học phải phù hợp với từng phân
mơn
Chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THCS có cấu trúc tích hợp ba phân


10
môn Văn, Tiếng Việt, Tập làm văn. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà, giáo viên cần
chú trọng tính tích hợp đó bởi ba phân mơn này khơng hề tách biết mà luôn hỗ trợ, bổ
sung cho nhau nhằm hình thành và rèn các kỹ năng cần thiết như nghe, nói, đọc, viết,
kỹ năng giao tiếp, … Tuy nhiên cũng cần lưu ý đến phương pháp học tập cho từng
phân mơn bởi mỗi phân mơn có những nét đặc thù riêng.
1.5. Cần xuất phát từ đối tượng học sinh
Tuy cùng có chương trình học tập giống nhau, độ tuổi tương đối như nhau
nhưng mức độ tiếp nhận, lĩnh hội tri thức của mỗi học sinh mỗi khác. Ngoài ra, hoàn
cảnh, điều kiện để học tập khác nhau cũng phần nào ảnh hưởng đến thời gian và sự
tiếp nhận, lĩnh hội tri thức của học sinh. Vì vậy, khi hướng dẫn học sinh học ở nhà,
người dạy cần quan tâm đến việc phân loại học sinh để giao bài và hướng dẫn các
em phương pháp học tập phù hợp tránh q dễ hoặc q khó gây tình trạng nhàm
chán hoặc chán nản đối với học sinh.

2. Các biện pháp sử dụng nhằm rèn kỹ năng tự học môn ngữ văn cho học sinh
qua hoạt động tự học ở nhà

2.1. Bồi dưỡng cho học sinh tình u, lịng đam mê đối với mơn học
Trước hết, muốn học sinh có ý thức tự học tốt đối với môn Ngữ văn cần phải
các em phải bồi dưỡng tinh yêu văn học. Vì vậy, giáo viên cần tạo cho học sinh niềm
tin, sự yêu thích, đam mê. Muốn làm được điều này khơng chỉ ngày một, ngày hai
mà phải là một quá trình kiên trì, bền bỉ của người dạy.
Thơng qua các tiết học trên lớp, giáo viên có thể giới thiệu, khẳng định về
tầm quan trọng, giá trị của môn học Ngữ Văn đối với bản thân mỗi người như: môn
Ngữ Văn giúp chúng ta hình thành và rèn luyện kỹ năng nghe, nói, đọc, viết; khả
năng giao tiếp, ứng xử với mọi người; hình thành, bồi dưỡng những tình cảm tốt đẹp
như tình yêu gia đình, quê hương, đất nước, tình yêu thiên nhiên, …; hướng chúng ta
tới những vẻ đẹp của cuộc sống; hình thành những phẩm chất tốt đẹp như khiêm tốn,
tự trọng, giản dị, … Từ đó bồi dưỡng tình yêu, niềm đam mê đối với văn học.
Để bồi dưỡng niềm đam mê môn học, sự hứng thú cho học sinh ngay từ việc tổ


11
chức hoạt động khởi động, kiểm tra việc học bài cũ và chuẩn bị bài mới, qua quá
trình học bài mới, hoạt động ngoại khóa cũng phải tạo được cảm hứng, sự lơi cuốn
người học.
Ví dụ sau khi dạy xong văn bản “Những câu hát về tình cảm gia đình” giáo
viên có thể hỏi bài cũ:
+ Em hãy đọc thuộc một bài ca dao về tình cảm gia đình và cho biết tình cảm
đó được thể hiện như thế nào trong bài ca dao?
+ Sau khi đọc và cảm nhận bài ca dao thuộc chủ đề tình cảm gia đình em nhận
thấy tình cảm của mình đối với những người thân trong gia đình như thế nào?
Từ các hoạt động ấy, giáo viên có thể cho học sinh thấy cái hay, cái đẹp, sức
mạnh của Văn học, khẳng định, nhấn mạnh vai trị của mơn học và bồi dưỡng tình yêu
đối với môn Ngữ Văn cho học sinh. Khi học sinh đã có tình u, sự đam mê thì việc
rèn luyện kỹ năng tự học ở nhà sẽ giảm bớt khó khăn.
2.2. Tăng cường giáo dục sự tự giác, tích cực học tập và ý chí tự học cho

học sinh
Xây dựng kế hoạch học tập là bước quan trọng trong quá trình tự học. Kỹ năng
này bao gồm kỹ năng thực hiện, xác định và lựa chọn vấn đề tự học. Thứ tự các việc
cần làm, sắp xếp thời gian cho từng công việc một cách hợp lý với điều kiện và
phương tiện hiện có.
Lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch hợp lý sẽ giúp học sinh tránh được lãng
phí thời gian, nâng cao hiệu quả học tập.
Nội dung kế hoạch: Tùy vào mục đích cụ thể mà người học có thể lập kế
hoạch dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn. Kế hoạch dài hạn được lập ra để thực hiện
trong một thời gian khá dài như một năm hoặc một kỳ. Kế hoạch trung hạn thường là
kế hoạch thực hiện trong một tháng hoặc một tuần. Còn kế hoạch ngắn hạn chỉ thực
hiện trong một ngày, tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể.
Đối với học sinh THCS, đặc biệt là trong môn Ngữ Văn, kế hoạch thường
nên xây dựng trong một tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường và phân phối chương


12
trình của mơn học, khối học. Đặc biệt phải dựa trên cơ sở sự hướng dẫn việc học bài,
chuẩn bị bài về nhà của thầy cô.
Giáo viên giới thiệu về phương pháp tự học, tầm quan trọng của tự học cho học sinh.
Giúp học sinh thấy được vai trò của việc tự học ở nhà, từ đó định hướng cho học sinh
cần phải nỗ lực, tích cực, chủ động, sáng tạo trong học tập, thường xuyên rèn luyện kỹ
năng tự học tránh lối học thụ động, máy móc; xác định cho học sinh rằng rèn kỹ năng tự
học là nhằm hướng tới cái đích cao hơn là hình thành năng lực tự học, đáp ứng đòi
hỏi của xã hội, giúp học sinh có thể học mọi nơi, mọi lúc, mọi hồn cảnh và có thể học
tập suốt đời như lời khẳng định của Lê - nin “Học, học nữa, học mãi”. Giáo dục ý thức
tự học có thể thực hiện qua khâu hướng dẫn học sinh học bài, làm bài, chuẩn bài ở nhà;
qua các tiết học về Chương trình địa phương phần Tập làm văn hoặc qua các tiết học
văn Nghị luận có ở lớp Ngữ văn lớp 7, lớp 8 và lớp 9.
Ví dụ 1:

- Hãy tìm hiểu và trình bày về vấn đề tự học của học sinh ở trường em?
- Suy nghĩ của em về vấn đề tự học.
2.3. Hướng dẫn học sinh xây dựng kế hoạch tự học ở nhà và thực hiện kế
hoạch vạch ra
Xây dựng kế hoạch học tập là bước quan trọng trong quá trình tự học. Kỹ năng
này bao gồm kỹ năng thực hiện, xác định và lựa chọn vấn đề tự học. Thứ tự các việc
cần làm, sắp xếp thời gian cho từng công việc một cách hợp lý với điều kiện và
phương tiện hiện có.
Lập kế hoạch và thực hiện kế hoạch hợp lý sẽ giúp học sinh tránh được lãng
phí thời gian, nâng cao hiệu quả học tập.
Nội dung kế hoạch: Tùy vào mục đích cụ thể mà người học có thể lập kế
hoạch dài hạn, trung hạn hay ngắn hạn. Kế hoạch dài hạn được lập ra để thực hiện
trong một thời gian khá dài như một năm hoặc một kỳ. Kế hoạch trung hạn thường là
kế hoạch thực hiện trong một tháng hoặc một tuần. Còn kế hoạch ngắn hạn chỉ thực
hiện trong một ngày, tập trung vào những nhiệm vụ cụ thể.


13
Đối với học sinh THCS, đặc biệt là trong môn Ngữ Văn, kế hoạch thường
nên xây dựng trong một tuần dựa trên kế hoạch của nhà trường và phân phối chương
trình của mơn học, khối học. Đặc biệt phải dựa trên cơ sở sự hướng dẫn việc học bài,
chuẩn bị bài về nhà của thầy cô.
Đây là Kế hoạch học bài ở nhà cho học sinh của môn Ngữ văn 7 tuần 12
Thứ 2

Thứ 3

Thứ 4

Thứ 5


- Chuẩn bị 2 bài - Ôn tập - Học

-

thơ: Cảnh khuya, hai bài

thành

Rằm tháng giêng thơ

của môn

của Bác dựa trên Bác.
sự hướng dẫn của giáo viên.

các
khác

Tham

tập

Thứ 6
Hoàn -

Chủ nhật

Chuẩn -


Đọc

bài Chuẩn bị bài thêm sách
phần bị bài mới.

Tiếng Việt
- Ôn

Thứ 7

mới

tập cho

tham

- Học khảo Ngữ
các

Văn.

khảo một

các

tiết

mơn

- Xem lại


- Tìm đọc thêm số bài viết

kiến

Thành

học

việc

một số bài thơ về hai bài

thức,

kỹ ngữ.

khác.

chuẩn bị

viết về trăng của thơ, về

năng

về - Học

- Học bài mới.

Bác




những thơ

nhà thơ khác.

của

Bác.

- Học các môn - Học các
khác

môn khác

tiếng
chuẩn

Việt các

các

- Học các

bị môn

môn

môn học


khác

khác

khác.

khiểm tra.
- Học các
môn khác

2.4. Hướng dẫn học sinh tự học ở nhà bằng hệ thống câu hỏi, bài tập. (đề cương)
Để phát huy tối đa năng lực tự học và thúc đẩy học sinh tận dụng hết thời gian
tự học, giáo viên cần giao nhiệm vụ học tập cụ thể cho học sinh. Có như thế các em
mới định hướng được cụ thể các nhiệm vụ mình cần làm tiếp theo. Sau khi đã tiếp
nhận được kiến thức cũ một cách khái quát, hệ thống các em có thể tìm hiểu kiến thức
mới. Khi có sự chuẩn bị ở nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên hiệu quả hơn.
Hướng dẫn học sinh học tập ở nhà khơng nên chỉ bằng lời nói trên lớp, bởi rất
có thể “lời nói gió bay”, nhất là đối với những em có ý thức học tập chưa cao và cuối
giờ học thường kém tập trung. Do vậy, cần tường minh hóa hướng dẫn đó bằng văn


14
bản. Song song với từng bài học trong từng tuần, giáo viên nên thiết kế hệ thống
câu hỏi để học sinh tự học. Hệ thống câu hỏi đó bao gồm hỏi cả những kiến thức bài
cũ và cả kiến thức bài mới nhằm giúp học sinh vừa có thể ơn tập, khái quát, luyện
tập, vận dụng thực hành kiến thức cũ vừa có những định hướng cho kiến thức trọng
tâm của bài mới.
Giáo viên nên chuẩn bị sẵn câu hỏi, bài tập và giao cho học sinh vào cuối tiết
học trong khâu củng cố và dặn dò học ở nhà.

Yêu cầu hệ thống câu hỏi bài tập:
+ Đối với bài cũ cần chú trọng phát triển năng lực hệ thống, khái quát, tổng
hợp, năng lực giải quyết bài tập, tình huống gắn với thực tế.
+ Đối với việc chuẩn bị bài mới thì câu hỏi đưa ra cho học sinh vừa có tác
dụng tạo sự hứng thú, vừa có tác dụng hướng học sinh đi vào trọng tâm bài học đồng
thời có tác dụng chuẩn bị cho hoạt động khám phá của giáo viên và học sinh trên lớp.
Cụ thể như đọc trước bài học, trả lời các câu hỏi, ở sách giáo khoa, hoặc bài tập mà
giáo viên yêu cầu.
Trong thời gian học trực tuyến, để kiểm tra kiến thức và yêu cầu học sinh
tự học ở nhà, tôi đã sử dụng nhiều phần mềm giao bài tập như:
- Phần mềm Azota:
Tôi thường sử dụng phần mềm Azota để gửi các câu hỏi cho học sinh
chuẩn bị bài tập ở nhà và yêu cầu học sinh thực hiện nhiệm vụ học tập theo
nhóm hoặc cá nhân. Sau đó, học sinh gửi sản phẩm học tập của nhóm hoặc
của cá nhân qua Azota để giáo viên kiểm tra đánh giá.
Hình ảnh giáo viên gửi câu hỏi trên phần mềm Azota để học sinh chuẩn bị bài
Ví dụ 2:
* Có thể sử dụng hệ thống câu hỏi sau để hướng dẫn học sinh chuẩn bị
bài “Tiếng gà trưa” của nhà thơ Xuân Quỳnh trong sách Ngữ văn 7:
(1) Tóm tắt những nét cơ bản về cuộc đời, con người và sự nghiệp văn học của nhà
thơ Xuân Quỳnh.


15
(2) Vì sao Xuân Quỳnh được xem là nhà thơ nữ tiêu biểu của thơ ca hiện đại Việt
Nam.
(3) Âm thanh tiếng gà trưa đã khơi dậy trong lòng người lính trẻ những cảm xúc gì?
(4) Hình ảnh người bà qua cảm nhận của người lính hiện lên ra sao?
(5) Em thấy tình bà cháu trong bài thơ có gì đặc biệt?
(6) Nhận xét về cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh, những biện pháp nghệ thuật đặc

sắc trong bài thơ.
(7) Hãy tìm đọc bài thơ “Bếp lửa” của Bằng Việt và những bài viết về bài thơ
này và nhận xét về điểm giống, khác nhau trong hai bài thơ.
Ví dụ 3:
Để kiểm tra bài cũ Văn bản “Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải trong sách
Ngữ văn 9, giáo viên có thể sử dụng các câu hỏi sau, với yêu câu trả lời ngắn gọn
bằng dàn ý:
(1) Nhắc lại hoàn cảnh ra đời của bài thơ? Hoàn cảnh ra đời của bài thơ gợi cho em
ấn tượng gì về tác giả?
(2) Cảm nhận của em về bức tranh mùa xuân thiên nhiên xứ Huế trong khổ thơ đầu?
(3) Tâm niệm của nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ là gì?
(4) Từ tâm niệm của nhà thơ Thanh Hải trong bài thơ, em có suy nghĩ gì về lý tưởng
sống của thanh niên hiện nay.
2.4.1. Tăng cường rèn luyện, bồi dưỡng phương pháp, kỹ năng tự học ở nhà
Để chất lượng và hiệu quả học tập Ngữ văn THCS được nâng lên thì học sinh
cần có kỹ năng tự học tốt. Việc rèn luyện, bồi dưỡng phương pháp và kỹ năng tự học
ở nhà là một yếu tố quan trọng đem lại hiệu quả cao.
2.4.2. Kỹ năng ghi chép, ghi nhớ kiến thức
Đặc trưng của môn Ngữ Văn thường ghi chép nhiều, khó nhớ. Một số em đã rất
chăm chỉ học tập nhưng thành tích chưa cao. Các em thường học bài nào biết bài


16
nấy, học phần sau không biết liên hệ phần trước, không biết hệ thống kiến thức, liên
kết kiến thức với nhau, khơng biết tích hợp kiến thức đã học ở bài trước vào bài
sau. Vì vậy, rèn cho các em kỹ năng ghi chép, hệ thống, tổng hợp là điều cần thiết
giúp các em học tập tốt, phát huy tốt vai trò tự học, đặc biệt là tự học ở nhà.
Vậy làm thế nào để ghi chép, hệ thống hóa kiến thức, ghi nhớ kiến thức có hiệu
quả? Sử dụng sơ đồ, bảng biểu, dàn ý, đặc biệt là bản đồ tư duy đề ghi chép, hệ
thống kiến thức là những kỹ năng rất hữu ích giúp học sinh tự học ở nhà tương đối

tốt. Sau mỗi bài học, mỗi phần, giáo viên hướng dẫn, gợi ý cho học sinh tự hệ thống
kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ. Mỗi bài học được ghi, vẽ lại trên một trang
giấy rồi kẹp thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi
cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Ngồi ra, có thể dùng những kỹ năng này để tìm
hiểu trước bài mới, hoặc để tư duy một vấn đề mới. Ta có thể nhận thấy, qua việc
hướng dẫn học sinh sử dụng sơ đồ, bảng biểu sẽ giúp học sinh phát triển tư duy lôgic,
củng cố, khắc sâu kiến thức, kỹ năng ghi chép, từ đó kỹ năng tự học của học sinh
qua hoạt động học ở nhà cũng nâng cao hiệu quả.
Ví dụ 3:
- Trình bày dưới dạng bảng biểu:
Khi hướng dẫn học sinh chuẩn bị trước văn bản “Đánh nhau với cối xay gió”
Ngữ văn 8, giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu, so sánh hai nhân vật Đơn - ki – hô
- tê và Xan - chô Pan - xa bằng cách lập bảng so sánh:
Nhân vật
Phương diện

Đôn-ki-hô-tê

Xan-chô Pan-xa

- Xuất thân
- Ngoại hình
- Lý tưởng
- …
Kết luận
- Trình bày bằng bản đồ tư duy
Để tiến hành tiết “Ôn tập về thơ” trong Ngữ Văn 9, giáo viên có thể gợi ý cho


17

học sinh ôn lại kiến thức bằng lập bản đồ tư duy như sau:

2.4.3. Kỹ năng hợp tác
Giáo viên yêu cầu học sinh tham gia, đóng góp trực tiếp vào quá trình học tập,
đồng thời yêu cầu học sinh phải làm việc cùng nhau để đạt được kết quả học tập
trung, trong quá trình hợp tác mỗi cá nhân tìm thấy lợi ích cho mình và cho tất cả
các thành viên trong nhóm. Trong hình thức học tập này, ngồi việc học theo nhóm
ở trên lớp, hoạt động học ở nhà giáo viên cũng cần chia nhóm để học sinh có thể
giúp đỡ, hỗ trợ nhau học tập.
Việc chia nhóm học sinh có thể dựa theo địa bàn dân cư, cũng có thể dựa vào
đối tượng học sinh để thuận lợi cho việc hợp tác trong học tập.
Có thể khẳng định rằng, nếu công việc này được giáo viên làm một cách đều đặn
và tâm huyết thì khả năng tự học, tự nghiên cứu của học sinh sẽ được nâng cao.
Đây cũng là một trong những hình thức tốt để nâng cao chất lượng dạy học Ngữ Văn
ở trường THCS. Bởi bất cứ một cơng việc gì khi đã có sự hợp tác chuẩn bị kĩ lưỡng
thì chắc chắn hiệu quả sẽ tốt hơn. Nếu phát huy được kỹ năng học hợp tác thì vấn đề


18
trọng tâm của bài học sẽ được mổ xẻ một cách sâu sắc hơn. Quan trọng khi thực hiện
điều này, giáo viên phải nắm sát đối tượng để khuyến khích, động viên học sinh sinh
một cách kịp thời, chân thành kể cả học sinh làm tốt và học sinh làm chưa tốt.
2.4.3. Kỹ năng đọc, tham khảo tài liệu
Hiện nay có nhiều cơng cụ tài liệu hỗ trợ để học sinh có thể học tâp học tập
như sách tham khảo, trong mơn Ngữ văn có văn mẫu, sách giải bài tập tiếng Việt, sách
học tốt Ngữ văn … Sách tham khảo sẽ là công cụ bổ trợ để giúp học sinh tiến bộ
hơn.Về việc có nên khuyến khích học sinh đọc văn mẫu hay khơng, có ý kiến cho
rằng “Nên tham khảo sách văn mẫu nhưng phải biết biến của người thành của mình,
đó là học ở cách diễn đạt, ở cách triển khai kết cấu bài làm”. Hiện nay, có những sách
văn mẫu chắt lọc một số bài văn hay của học sinh thì cũng nên đọc. Hay như các

sách Nghị luận Xã hội và các dạng đề Nghị luận Xã hội cập nhật thông tin xã hội,
đề bài thiết thực hơn, phong phú hơn và nhiều cách diễn đạt hơn.Việc đọc tham khảo
sẽ giúp học sinh có thêm ngữ liệu viết văn cũng như học thêm cách thức diễn đạt. Tuy
nhiên, nếu không biết lựa chọn sách để đọc, sử dụng sách tham khảo khơng đúng mục
đích, khơng đúng cách thì đó chỉ là một cơng cụ dùng để đối phó.
Sau đây, tơi xin đưa ra một số giải pháp có thể sử dụng để hướng dẫn học sinh
đọc thêm sách tham khảo ở nhà có hiệu quả nhằm rèn kỹ năng tự học, nâng cao hiệu
quả học tập:
- Hướng dẫn lựa chọn sách:
Sách tham khảo cho Ngữ văn THCS có bày bán trên thị trường khá nhiều, chọn
được quyển sách có chất lượng, nội dung vừa đảm bảo về độ sâu vừa đảm bảo về
chiều rộng không phải dễ dàng. Việc chọn sách đối với học sinh là rất khó. Học sinh
hiện nay ít đọc sách tham, nhất là mơn Ngữ văn. Chính điều này khiến nhiều học sinh
có những lỗ hổng lớn về kiến thức.
Chọn sách tham khảo cần lưu ý rằng không chỉ chọn sách thuộc mơn Ngữ văn
mà cịn nên chọn các cuốn sách thuộc khoa học xã hội có liên quan đến văn học như
Lịch sử, Địa lý, Giáo dục công dân nhằm có một cái nhìn tồn diện về kiến thức
Ngữ văn. Bởi trên thực tế khơng có mơn học nào tồn tại một cách độc lập, giữa


19
chúng ln có mỗi quan hệ tích hợp.
Đối với những học sinh có học lực từ trung bình trở xuống, nếu khơng biết lựa
chọn sách tham khảo thì sẽ mất phương hướng, dẫn đến lệ thuộc sách tham khảo,
làm giảm tư duy sáng tạo của học sinh. Những trường hợp học sinh này nên lựa chọn
những loại sách tham khảo có khả năng ơn tập lại kiến thức căn bản, định hướng
phương pháp, rèn luyện kỹ năng viết văn…, từ đó tìm cách “lấp đầy” những lỗ hổng
kiến thức đó.
Đối với những học sinh khá, giỏi, việc lựa chọn và sử dụng sách tham khảo
đúng cách sẽ là công cụ quý báu để nâng cao kiến thức và kỹ năng học mơn Văn. Vì

vậy, các con cần chọn những loại sách bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, luyện viết
văn hay để thành thạo trong các thao tác viết và giải đề văn, từ đó khai thác hoặc đi
sâu tìm hiểu văn bản một cách có hệ thống.
Cần lựa chọn những dạng sách có nội dung trình bày mạch lạc, dễ hiểu, khơng
ơm đồm q nhiều nội dung; sách có sự phân loại kiến thức bài học ở từng phân môn
(Văn - Tiếng Việt - Làm văn) và rèn luyện kỹ năng viết văn
Ngoài ra, giáo viên cần hỗ trợ và giới thiệu thêm sách cho học sinh. Để giới
thiệu sách tham khảo cho học sinh, giáo viên cũng thẩm định kỹ tránh mua nhầm,
đọc nhầm, lãng phí ảnh hưởng đến thời gian và kết quả học tập.
Ví dụ một số quyển sách tham khảo có thể chọn đọc như:
+ Bổ trợ dạy và học tiếng Việt lớp 6 và 7, lớp 8 và 9 – Diệp Quang Ban (Chủ biên)
+ Tài liệu Ngữ văn 6,7,8,9 – Đỗ Ngọc Thống (Chủ biên)
+ Nâng cao Ngữ văn 6,7,8,9 – Tạ Đức Hiền, Nguyễn Kim Hoa, Lê Thuận An
+ Hướng dẫn tự học Ngữ văn 6,7,8,9 – Nguyễn Xuân Lạc, Bùi Tất Tươm, ...
+ Tuyển tập đề bài và bài văn nghị luận xã hội (tập 1, 2) – Nhà xuất bản Giáo dục.
+ Bình giảng Văn 6, 7, 8, 9 – Vũ Dương Quý
- Xác định cho học sinh mục đích sử dụng sách tham khảo:
Sách tham khảo là một công cụ khá hiệu quả mà giáo viên nên hướng dẫn học
sinh đọc trong quá trình tự học ở nhà. Tuy nhiên, đối với việc sử dụng sách tham


20
khảo, chỉ nên đọc tham khảo tìm kiếm, bổ sung thêm thơng tin, kiến thức ngồi kiến
thức, bài giảng của giáo viên; học kỹ năng về cách dùng từ, diễn đạt để bổ sung thêm
những ý thiếu hụt về cách diễn đạt, cách sử dụng câu, từ. Tuyệt đối không thể sao
chép y nguyên, không dùng sách tham khảo với mục đích để chép lại bài đối phó
với thầy cơ khi kiểm tra vì nó dễ khiến các em bắt chước, làm triệt tiêu đi tư duy sáng
tạo và mất dần cảm xúc.
- Phương pháp sử dụng:
Khi gặp một câu hỏi, bài tập hay một dạng đề văn cần giải quyết, học sinh cần

huy động những kiến thức đã học trên lớp, tự xây dựng cho mình những dàn ý khác
nhau. Từ đó, các em biết so sánh với những cách viết trong sách tham khảo để rút
ra những bài học kinh nghiệm quý báu đồng thòi đưa ra cách viết thích hợp nhất, phù
hợp với yêu cầu của từng dạng đề bài.
Khi tham khảo, học sinh cần chủ động khi tiếp nhận, học tập cái hay, rút kinh
nghiệm cái dở. Bởi lẽ, không phải bài giải nào, bài văn mẫu nào cũng hồn hảo.
Khơng học thuộc văn mẫu một cách thụ động và vận dụng máy móc vào các bài tập
làm văn. Không nên lạm dụng sách văn mẫu quá nhiều, vì như thế sẽ làm chúng ta phụ
thuộc vào cách viết của người khác dẫn đến sự rập khn máy móc.
Khi đọc sách tham khảo gặp những phương pháp, định hướng hoặc cách giải
hay, từ ngữ hay, cách diễn đạt, cách lập luận thuyết phục, ... học sinh cần ghi chép lại
và tìm hiểu cách giải hoặc xem cách hướng dẫn trong sách tham khảo để học tập và
đúc rút kinh nghiệm, nhằm tăng vốn từ, làm phong phú thêm cách diễn đạt, vận dụng
vào làm các bài tập khác, đặc biệt là bài làm văn.
2.5. Phối hợp với phụ huynh để rèn kỹ năng tự học qua việc ở nhà
Kỹ năng tự học chủ yếu được thực hiện trong q trình học tập ở nhà, lúc
khơng có thầy cơ giáo trực tiếp kèm cặp. Vì vậy, trong hoạt động tự học của học sinh
vai trò của phụ huynh rất quan trọng. Phụ huynh có thể quan sát hoạt động học của
con em mình để kiểm tra, nhắc nhở, động viên kịp thời. Phối hợp với phụ huynh không
chỉ là trách nhiệm giáo viên chủ nhiệm mà giáo viên bộ mơn nói chung và giáo viên
dạy Ngữ văn nói riêng nên làm. Bởi vì giáo viên chủ nhiệm khơng thể nắm hết tình


21
hình học tập cụ thể của mỗi học sinh ở mỗi mơn học để trao đổi. Vì thế, giáo viên
dạy nên phối hợp với phụ huynh để thực hiện các vấn đề sau nhằm nâng cao hiệu quả
tự học ở nhà và nâng cao chất lượng dạy học:
Cùng phối hợp đề hướng dẫn học sinh mua sách giáo khoa, sách tham khảo.
Nắm bắt tình hình học tập của học sinh từ hai phía để có thể đưa ra những biện
pháp thích hợp nhằm động viên, khuyến khích hay nhắc nhở kịp thời bằng sổ liên lạc

hoặc trực tiếp qua điện thoại, ...
Qua gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh nâng cao nhận thức cho phụ huynh và học
sinh về vai trị của mơn Ngữ văn, vai trị của việc rèn kỹ năng tự học cho học sinh.
Đặc biệt là tự học ở nhà nhằm tránh tình trạng xem nhẹ mơn học, tình trạng học
chay, học đối phó, phụ thuộc vào tài liệu, ...
Tăng cường kết nối với phụ huynh qua zalo để cùng nhau đôn đốc, thúc dục,
kiểm tra việc tự học của học sinh ở nhà. Đồng thời phụ huynh gửi các sản phẩm học
tập của các con tới giáo viên.
2.6.

Kịp thời kiểm tra, đánh giá hoạt động học bài, làm bài tập và chuẩn bị ở
nhà của học sinh
Kiểm tra, đánh giá có tác dụng thúc đẩy quá trình học tập phát triển khơng

ngừng của học sinh. Giúp học sinh phát hiện và điều chỉnh thực trạng học tập của
mình, củng cố và phát triển trí tuệ cho các em, từ đó rèn luyện, giáo dục một số kỹ
năng phẩm chất cần thiết. Thông qua kiểm tra, đánh giá học sinh, giáo viên nắm được
cụ thể và tương đối chính xác trình độ, năng lực của học sinh do mình giảng dạy từ
đó có phương pháp dạy học phù hợp nhằm nâng cao chất lượng.
Song song với khâu hướng dẫn học sinh tự học ở nhà thì kiểm tra việc học ở
nhà cũng không kém phần quan trọng nếu muốn việc tự học ở nhà của học sinh đạt
hiệu quả. Kiểm tra việc học ở nhà cần chú ý các vấn đề sau:
- Về nội dung kiểm tra: Gồm những kiến thức, kỹ năng đã học của bài cũ và
việc chuẩn bị bài mới mà giáo viên đã hướng dẫn tự học ở nhà bằng hệ thống câu hỏi.
Đặc biệt phần kiến thức bài cũ có thể là kiến thức đã học trước đó một tuần, hai


22
tuần hoặc có thể xa hơn. Lựa chọn kiến thức như vậy vừa có thể giúp học sinh thường
xun ơn tập, củng cố những kiến thức đã học vừa có tác dụng tránh được việc học

đối phó của học sinh.
- Về hình thức kiểm tra: Kiểm tra việc học bài ở nhà của học sinh cũng cần
được thực hiện một cách linh hoạt, sáng tạo. Có thể thực hiện ngay đầu giờ học,
lúc học bài mới hoặc khi củng cố kiến thức ở cuối giờ. Tuy nhiên, dù là thời điểm nào
thì giáo viên cần phải chú ý đến hiệu quả học tập.
- Phương pháp kiểm tra: Có nhiều phương pháp giáo viên có thể dùng để
kiểm tra, đánh giá việc học ở nhà của học sinh, sau đây là một số phương pháp kiểm
tra hiệu quả:
+ Kiểm tra bằng hình thức vấn đáp.
+ Kiểm tra bằng cách ghi chép câu trả lời lên bảng.
+ Kiểm tra bằng cách làm thăm câu hỏi, bài tập: cho học sinh bắt thăm và trả lời vào
đầu giờ học hoặc vào các tiết luyện tập, ôn tập.
+ Phối hợp với cán bộ lớp kiểm tra việc chuẩn bị của học sinh trong vở.
- Trong quá trình kiểm tra cần lưu ý:
+ Giáo viên không nên chỉ chú trọng về số lượng bài tập mà các em đã làm mà cần
phải đặc biệt quan tâm đến chất lượng bài làm của học sinh, phát hiện ra những học
sinh có sáng tạo trong học tập, những em nào luôn sao chép tài liệu một cách thụ
động, máy móc để có biện pháp giáo dục thích hợp.
+ Cần có biện pháp động viên, khích lệ kịp thời đối với những học sinh có những câu
trả lời sáng tạo, hoặc có cố gắng hơn trong học tập so với thời gian trước đó để các
em phấn khởi, hứng thú hơn với môn học. Đối với những em lười học, ỷ lại tài liệu
hay bạn bè cần có hình thức động viên, hoặc có biện pháp cứng rắn, ngăn chặn kịp
thời nhằm phát huy tính độc lập, sáng tạo trong học tập của học sinh, tránh lối học
chay, học vẹt, học đối phó.
Ví dụ: Sau khi kiểm tra việc chuẩn bị bài mới của học sinh qua vở soạn, giáo
viên có thể yêu cầu học sinh đứng tại chỗ và đặt câu hỏi cho học sinh: Em đã thực


23
hiện những câu hỏi nào? Đã trả lời câu hỏi 1, 2, ... như thế nào? Hãy nêu những ý

chính?
Qua câu trả lời của học sinh giáo viên có thể nắm được hiệu quả trong việc
chuẩn bị bài mới của học sinh. Sau mỗi lần kiểm tra, tôi ghi lại danh sách để số học
sinh được kiểm tra lần lượt và luân phiên nhau.
3. Định hướng phương pháp học bài và làm bài tập môn Ngữ Văn
3.1.

Soạn bài mới trước khi đến lớp
Để đạt hiệu quả trong học tập điều quan trọng nhất của học sinh là phải

chuẩn bị bài ở nhà chu đáo. Giống như tất cả các môn học khác, để có thể học tốt
mơn Văn ở trên lớp, tôi luôn yêu cầu học sinh phải soạn văn trước khi đến lớp.
Mỗi học sinh phải có một vở soạn văn.
Việc hướng dẫn học sinh soạn bài, đầu năm học, khi nhận lớp tôi dành thời
gian hướng dẫn các em tự soạn văn ở nhà theo các bước như sau:
Bước 1: Đọc bài mới:
Đối với hoạt động Đọc bài mới, tơi xây dựng cho học sinh của mình
thực hiện hoạt động này ở nhiều cấp độ. Các cấp độ này đi thể hiện hoạt động đọc đi
từ thấp đến cao, từ dễ đên khó. Cụ thể như sau: Đọc – khái quát; Đọc – nhận biết;
Đọc – suy ngẫm.
Mục đích của hoạt động đọc của bước này là học sinh có thể nắm được nội
dung khái quát của đơn vị bài học mới.
Ví dụ 5: Đối với bài học đọc hiểu văn bản “Ơng đồ” của Vũ Đình Liên (Ngữ
văn 8). Trước hết học sinh phải xác định được đây là bài thơ tiêu biểu của phong
trào Thơ Mới, thuộc trào lưu văn học lãng mạn. Bài thơ là nỗi lòng cảm thương,
nuối tiếc của nhà thơ về một lớp người, một nét văn hóa truyền thống tốt đẹp của
dân tộc đã đi vào quên lãng, ....
Tiếp theo, yêu cầu học sinh đọc kỹ phần chú thích trong sách giáo khoa: Câu
hỏi đặt ra tại sao cần như vậy? Vì phần chú thích chính là phần giải thích các từ
khóa trong văn bản đó, các em khi đọc kỹ phần chú thích sẽ hiểu thêm về văn bản,



24
có thêm vốn từ phong phú như từ Hán Việt.
Ví dụ 6: Khi đọc tác phẩm “Bàn về phép học” của Nguyễn Thiếp nếu chúng
ta khơng đọc kỹ chú thích làm sao chúng ta biết đến “tam cương, ngũ thường” là
gì?
Cuối cùng, đọc kỹ về tác giả, tác phẩm, thể loại của văn bản đó: Đây là việc
khơng thể thiếu trong khi soạn bài, ghi nhớ các kiến thức về tác giả, tác phẩm để
tìm ra hồn cảnh sáng tác, các ý chính về thời đại, phong cách sáng tác, quan điểm
sáng tác… Vì mỗi tác giả, tác phẩm được viết trong các thời đại khác nhau, gắn
với hoàn cảnh lịch sử khác nhau nên ở mỗi tác phẩm đều có những thơng điệp
riêng mà tác giả gửi đến bạn đọc.
Ví dụ 7: Bài “Ánh trăng” viết sau khi giải phóng đất nước được 3 năm, cịn bài
“Mùa xn nho nhỏ” viết khi tác giả sắp qua đời.
Bước 2: Trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa
Có thể nói, hệ thống các câu hỏi trong phần đọc hiểu chính là nền tảng quan
trọng trong việc học sinh tiếp cận với nội dung cơ bản trong các văn bản. Vì vậy
việc trả lời lần lượt các câu hỏi trong sách giáo khoa là phương pháp tốt nhất đối
với học sinh ở việc tiếp cận và chuẩn bị kiến thức về tác phẩm. Các câu hỏi trong
sách giáo khoa cùng với các từ khóa chính đã giúp học sinh tự tìm tịi, khám phá,
xác định cho mình những vùng kiến thức cơ bản. Hơn nữa, khi học sinh có sự chuẩn
bị bài trước khi đến lớp, kết hợp với giáo viên hướng dẫn sẽ giúp cho các em dễ
dàng hơn trong khi tiếp thu.
Ví dụ 8: Khi soạn bài “ Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ, các
em sẽ phải trả lời câu hỏi về chi tiết kì ảo trong đoạn trích trên và nêu tác dụng, em
thấy truyện này kết thúc có hậu hay khơng có hậu, vì sao? Nội dung tổng qt của
đoạn trích trên là gì? Chính việc trả lời các câu hỏi này các em đã có thể nắm cơ bản
về nội dung của câu chuyện.
Ngồi ra, tơi cịn u cầu học sinh so sánh, liên tưởng giữa tác phẩm này với tác

phẩm khác: khi hướng dẫn soạn bài “Chuyện người con gái Nam Xương”, ngồi
việc tơi u cầu học sinh đọc thuộc lịng, tìm hiểu các câu hỏi đọc hiểu văn bản, tôi


25
còn yêu cầu học sinh so sánh vẻ đẹp và bi kịch của Vũ Nương có gì giống và khác
nhân vật Thúy Kiều trong đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” của Nguyễn Du.
– Trả lời các câu hỏi phần Tiếng Việt
Tiếng Việt là công cụ hết sức cần thiết cho mỗi người để giao tiếp. Hơn nữa, Tiếng
Việt là công cụ để chúng ta viết văn. Tuy nhiên, phần chuẩn bị các câu hỏi tiếng
việt là một điều khá khó đối với học sinh vì các em chỉ biết chuẩn bị các kiến thức
trong phần văn bản. Các em khơng biết cụ thể mình cần làm gì trước khi học các
giờ tiếng việt. Vì thế, việc giúp đỡ của giáo viên là thực sự cần thiết. Cụ thể
giáo viên cần có các yêu cầu cụ thể rõ ràng đối với học sinh trong việc các em
phân tích các ví dụ mẫu trong sách giáo khoa, từ đó rút ra kết luận và lấy các ví dụ
khác tương tự ngồi đời sống.
Ví dụ 9: Cho hai ví dụ
Giàu! Tơi đã giàu rồi.
Đối với tôi, sách là tài sản quan trọng nhất.
Hai từ giàu, đối với tơi chính là chủ đề trong câu. Về vị trí: đều đứng trước chủ
ngữ.
⇒ Đây chính là khởi ngữ, vậy khởi ngữ là gì? (Học sinh tự trả lời)
– Trả lời các câu hỏi trong phần tập làm văn.
Giờ tập làm văn chính là một giờ để hình thành các kiến thức kỹ năng cho các em
trong việc tạo lập văn bản. Cũng giống như hai giờ đọc hiểu và tiếng việt, muốn
học tốt giờ này cần có sự chuẩn bị trước khi đến lớp. Để chuẩn bị tốt phần làm văn
các em cũng cần phải phân tích văn bản mẫu, từ ví dụ đi đến lí thuyết. Khi phân tích
kỹ các vấn đề trong văn bản mẫu, tự rút ra bài học, nội dung chính làm văn cần học.
Tơi u cầu học sinh soạn bài phải nắm được đặc điểm của từng thể loại, phương
pháp làm từng kiểu bài. Hay một số tiết luyện nói trong làm văn, nhiều học sinh khá

khó khăn khi nói nếu như chưa có sự chuẩn bị kỹ lưỡng trước khi đến lớp.
Ví dụ 10: Khi có tiết luyện nói về văn bản nghị luận với đề tài tự chọn, Học sinh
cần chuẩn bị
- Tìm hiểu lại văn nghị luận, tìm đề tài cần viết.


×