ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH TẾ, LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
KHOA KINH TẾ
TIỂU LUẬN
MÔN: LUẬT LAO ĐỘNG
Đề tài: QUYỀN LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI KHUYẾT TẬT
TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Giảng viên hướng dẫn
: THS.Dương Mỹ An
Sinh viên thực hiện
: Nguyễn Dương Tình
Lớp học phần
: 22D1LAW51101301
Ngành
: Quản lý nguồn nhân lực
MSSV
: 31191025091
Khóa/Hệ
: K45, Đại học chính quy
PHẦN MỞ ĐẦU
Hơn 600 triệu người trên toàn thế giới mắc nhiều dạng khuyết tật về thể chất, giác quan,
tâm thần hoặc trí tuệ. Con số này chiếm khoảng 10% dân số thế giới. Mọi quốc gia đều
có người khuyết tật, hơn 2/3 trong số họ sống ở các nước đang phát triển. Không thể phủ
nhận mối liên hệ giữa khuyết tật, nghèo đói và sự cơ lập xã hội. Việc từ chối các cơ hội
việc làm bình đẳng cho người khuyết tật là ngun nhân chính dẫn đến tình trạng nghèo
đói và phân biệt đối xử đối với nhiều người khuyết tật.
Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường như ở Việt Nam hiện nay, yêu cầu về nguồn
nhân lực, trong đó bao gồm cả việc bảo vệ quyền lợi của NLĐ nói chung cũng như lao
động khuyết tật nói riêng ngày càng trở nên cấp thiết, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập
Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Đào tạo nghề, tạo việc làm cho người khuyết tật
luôn được Đảng và Nhà nước quan tâm, khuyến khích, tạo điều kiện. BLLĐ 2019 dành
chương XI để quy định về một số loại lao động đặc biệt, trong đó NLĐ khuyết tật được
quy định tại mục 4; Chương VII Luật dạy nghề 2006 quy định về dạy nghề cho người tàn
tật, khuyết tật; Luật Người khuyết tật 2010 dành Chương V để quy định về việc làm cho
người khuyết tật;... Các quy định này đã thành công, tiến bộ hơn các quy định về quyền
của người khuyết tật trong các văn bản pháp luật trước đây và đã tạo điều kiện cho người
khuyết tật tham gia quan hệ việc làm, quan hệ lao động hiệu quả, cơng bằng và bình
đẳng. Mặc dù vậy, quyền của người khuyết tật chưa được pháp luật lao động quy định
đầy đủ và chi tiết, các chính sách pháp luật chưa được thực thi một cách triệt để, trên thực
tế, người khuyết tật tìm được việc làm và đảm bảo thu nhập cịn gặp nhiều khó khăn.
Ngày càng có nhiều tình trạng người khuyết tật bị lạm dụng trong công việc, vi phạm các
quyền như quyền về an toàn lao động, thời giờ làm việc và thời giờ giờ nghỉ. Bên cạnh
đó, nhận thức của cộng đồng về người khuyết tật, công tác quản lý của Nhà nước, quản lý
vi phạm, điều tra, xử lý cơng khai cịn lỏng lẻo và chưa đầy đủ. Vì vậy, em quyết định
chọn đề tài “Quyền lao động của người khuyết tật trong pháp luật Việt Nam – Thực
trạng và giải pháp” với mong muốn tìm hiểu rõ hơn và góp phần đưa ra một số khía
cạnh cũng như góc nhìn của bản thân về thực tiễn thực hiện pháp luật trong việc bảo vệ
quyền của lao động khuyết tật ở nước ta.
PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM
I.
Người khuyết tật
1. Khái niệm
Luật Người khuyết tật 2010 định nghĩa tại Khoản 1, Điều 2 như sau: “Người khuyết
tật là người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức
năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp kho
khăn.”
2. Phân loại
Luật Người khuyết tật 2010 cũng quy định các dạng khuyết tật bao gồm: Khuyết tật
vận động; Khuyết tật nghe, noi; Khuyết tật nhìn; Khuyết tật thần kinh, tâm thần;
Khuyết tật trí tuệ; Khuyết tật khác.
Đồng thời, người khuyết tật được phân loại theo mức độ khuyết tật như sau: Người
khuyết tật đặc biệt nặng; Người khuyết tật nặng; Người khuyết tật nhẹ.
Mặc dù pháp luật cơ bản đã khái quát và tổng hợp được các dạng khuyết tật ở Việt
Nam, tuy nhiên, hiện nay đã xuất hiện thêm một số dạng khuyết tật khác đáng chú ý
như khuyết tật học tập, tự kỷ,…
II.
Quyền lao động của người khuyết tật trong pháp luật Việt Nam
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, mọi người đều có quyền lao động, có quyền
tự do lựa chọn việc làm và nơi làm việc. Hiến pháp năm 2013 cũng khẳng định: “Nhà
nước bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động, người sử dụng lao động và
tạo điều kiện xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định” [chương III,
Điều 57, Khoản 2]. Dựa trên quy định của Hiến pháp, BLLĐ 2019 quy định NLĐ có
quyền “Làm việc; tự do lựa chọn việc làm, nơi làm việc, nghề nghiệp, học nghề, nâng
cao trình độ nghề nghiệp; không bị phân biệt đối xử” [chương I, Điều 5, Khoản 1].
Do đó, pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền lao động của người khuyết tật thông qua:
Các quy định về dạy nghề và Các quy định về việc làm.
1. Các quy định về dạy nghề
Giáo dục nghề nghiệp không những đào tạo người khuyết tật có được các kỹ năng
nghề nghiệp phù hợp và tạo cơ hội việc làm, mà còn củng cố, bổ sung và nâng cao kỹ
năng nghề nghiệp của những người đã có trình độ chun mơn. Vì vậy, trong pháp
luật lao động, học nghề cũng là quyền lợi mà người khuyết tật được hưởng, NSDLĐ
và các cơ sở đào tạo nghề có trách nhiệm đào tạo nghề cho họ. Người khuyết tật được
đối xử cơng bằng, bình đẳng như những học viên khác. Mặt khác, do bị khiếm khuyết
về thể chất hoặc tinh thần nên pháp luật cần đưa ra những chính sách, quy định dành
riêng cho lao động khuyết tật nhằm hỗ trợ họ tiếp cận lĩnh vực này như: miễn, giảm
học phí, trợ cấp học nghề và các chính sách ưu đãi cho giáo viên, nhân viên hỗ trợ dạy
nghề... Sự ưu tiên hay ưu đãi này không hướng tới sự thiên vị hay thậm chí phân biệt
đối xử ai, mà đây là những quy định đáp ứng phù hợp với đặc điểm về cơ bản là thiệt
thòi hơn so với người bình thường khác của người khuyết tật. Điều này nhằm giúp
người khuyết tật cảm nhận được quyền bình đẳng ngay cả với NLĐ bình thường khác.
BLLĐ 2019 khơng có quy định về quyền học nghề của người khuyết tật mà chỉ quy
định: “Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của người lao động là
người khuyết tật; co chính sách khuyến khích, ưu đãi phù hợp đối với NSDLĐ trong
tạo việc làm và nhận người lao động là người khuyết tật vào làm việc theo quy định
của pháp luật về người khuyết tật” [Chương XI, Điều 158]. Theo đó, Luật Người
khuyết tật 2010 có quy định: “Nhà nước bảo đảm để người khuyết tật được tư vấn
học nghề miễn phí, lựa chọn và học nghề theo khả năng, năng lực bình đẳng như
những người khác” [chương V, Điều 32, Khoản 1]. Tuy nhiên, quyền học nghề là một
trong những quyền lợi cơ bản mà người khuyết tật được hưởng trong lĩnh vực lao
động, quyền này phải được ghi nhận trước tiên trong pháp luật lao động. Vì vậy, theo
em, cần bổ sung quy định về quyền học nghề của người khuyết tật vào BLLĐ 2019,
tạo cơ sở pháp lý cho việc ban hành nghị định hướng dẫn thi hành quy định về dạy
nghề cho người khuyết tật, giúp bảo vệ tốt hơn quyền lợi chính đáng của người khuyết
tật khi tham gia vào quan hệ lao động. Trong nghị định hướng dẫn thi hành cần quy
định chi tiết, cụ thể các chính sách ưu đãi về miễn, giảm học phí, trợ cấp học nghề, hỗ
trợ ăn, ở, phương tiện đi lại và sinh hoạt khi học nghề cho người khuyết tật. Mức hỗ
trợ tùy thuộc vào mức độ khuyết tật nhưng phải phù hợp với điều kiện kinh tế thị
trường hiện nay, giúp giảm bớt phần nào gánh nặng cũng như động viên, khuyến
khích người khuyết tật tích cực tham gia học nghề, nâng cao trình độ, tạo cơ hội việc
làm để ổn định cuộc sống.
2. Các quy định về việc làm
BLLĐ 2019 quy định: “Nhà nước bảo trợ quyền lao động, tự tạo việc làm của người
lao động là người khuyết tật; co chính sách khuyến khích, ưu đãi phù hợp đối với
người sử dụng lao động trong tạo việc làm và nhận người lao động là người khuyết
tật vào làm việc theo quy định của pháp luật về người khuyết tật” [Chương XI, Điều
158]. Để cụ thể hóa quy định này, Luật Người khuyết tật quy định: “Nhà nước tạo
điều kiện để người khuyết tật phục hồi chức năng lao động, được tư vấn việc làm
miễn phi, co việc làm và làm việc phù hợp với sức khỏe và đặc điểm của người khuyết
tật” [Điều 33, Khoản 1]. Trên cơ sở kế hoạch quy định của pháp luật, Chính phủ sẽ
định ra chỉ tiêu tạo việc làm mới trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội hàng năm
và năm năm, xây dựng chính sách hỗ trợ việc làm để người có khả năng lao động tự
giải quyết việc làm, cũng như để NSDLĐ tạo thêm việc làm cho NLĐ nói chung và
người khuyết tật nói riêng.
Pháp luật lao động hiện không quy định cụ thể về công tác tuyển dụng và giới thiệu
việc làm cho người khuyết tật nhưng Luật Người khuyết tật có quy định: “Cơ quan,
tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động là người khuyết tật tùy theo điều
kiện cụ thể bố trí sắp xếp cơng việc bảo đảm điều kiện và môi trường làm việc phù
hợp cho người khuyết tật” [Điều 33, Khoản 3] đồng thời “phải thực hiện đầy đủ quy
định của pháp luật về lao động đối với lao động là người khuyết tật” [Điều 33, Khoản
4].“Tổ chức giới thiệu việc làm co trách nhiệm tư vấn học nghề, tư vấn và giới thiệu
việc làm cho người khuyết tật” [Điều 33, Khoản 5]. Thực tế áp dụng pháp luật cho
thấy, rất nhiều trường hợp người khuyết tật bị phân biệt đối xử do khiếm khuyết,
khuyết tật ngay trong quá trình tuyển dụng và làm việc. Do vậy, theo em, pháp luật
lao động nên bổ sung quy định về nghiêm cấm các hành vi phân biệt đối xử, cũng như
quy định cụ thể các hành vi bị coi là phân biệt đối xử trong quá trình tuyển dụng và
quá trình làm việc của người khuyết tật, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của họ.
Để các doanh nghiệp đẩy nhanh tiến độ tiếp nhận người khuyết tật vào làm việc và
đảm bảo công ăn việc làm cho họ, Nhà nước đã và đang tiến hành xây dựng, công bố
cũng như hồn thiện những chính sách khuyến khích đối với doanh nghiệp sử dụng
lao động là người khuyết tật. Có 2 nhóm doanh nghiệp được hưởng chính sách theo
dạng này của Nhà nước:
-
-
Nhom thứ nhất: Doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật.
Điều 34 và 35 của Luật Người khuyết tật năm 2010 có quy định về việc Nhà
nước khuyến khích cơ quan, tổ chức và doanh nghiệp nhận người khuyết tật
vào làm việc. Cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp nào sử dụng từ 30%
tổng số lao động trở lên là người khuyết tật sẽ được giúp đỡ cải thiện môi
trường làm việc, cơ sở vật chất đáp ứng nhu cầu của người khuyết tật; được
miễn thuế thu nhập doanh nghiệp; được vay vốn với lãi suất ưu đãi theo dự án
phát triển sản xuất kinh doanh; được ưu tiên cho thuê đất, mặt bằng, mặt nước
và miễn, giảm tiền thuê đất, mặt bằng, mặt nước phục vụ sản xuất, kinh doanh
theo tỷ lệ người lao động là người khuyết tật, mức độ khuyết tật của người lao
động và quy mô doanh nghiệp.
Nhom thứ hai: doanh nghiệp sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định.
Điều 10 Nghị định số 28/2012/NĐ-CP do Chính phủ ban hành và hướng dẫn
thực hiện cụ thể một số quy định của Luật Người khuyết tật, doanh nghiệp, cơ
sở sản xuất kinh doanh sử dụng từ 10 người khuyết tật làm việc ổn định được
hưởng chính sách ưu đãi quy định tại điểm a và điểm c khoản 1 Điều 9 Nghị
định này. Song, pháp luật đến nay vẫn chưa đề ra hướng dẫn chi tiết về tiêu chí
“làm việc ổn định” đối với các trường hợp doanh nghiệp sử dụng từ 10 người
khuyết tật. Điều này đã và đang gây những khó khăn nhất định trong việc xác
định doanh nghiệp sử dụng lao động là người khuyết tật đủ điều kiện được
hưởng các chính sách ưu đãi của Nhà nước.
3. Quy định về quỹ việc làm cho người khuyết tật
Quỹ việc làm được xây dựng nhằm mục đích trợ giúp cho người khuyết tật trong quá
trình tìm việc, tự tạo việc làm, đồng thời hỗ trợ về cơ sở vật chất hoặc cho vay với lãi
suất ưu đãi đối với các doanh nghiệp cũng như các tổ chức có sử dụng nhiều lao động
là người khuyết tật. Điều 10 Luật Người khuyết tật năm 2010 có quy định về quỹ trợ
giúp người khuyết tật. Đây là quỹ từ thiện xã hội với mục đích tìm kiếm nguồn lực hỗ
trợ người khuyết tật, được hình thành từ nhiều nguồn quỹ khác nhau như tự nguyện,
tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước, hỗ trợ từ ngân sách nhà nước,
các khoản thu hợp pháp khác.
Song, thực tế việc triển khai quỹ này vẫn còn nhiều bất cập. Quyền của người khuyết
tật được đảm bảo cơ hội việc làm khơng có cơ sở cho việc thi hành trên thực tế, các
cơ quan nhà nước cũng không triển khai thực hiện các quy định về quản lý và sử dụng
quỹ dẫn đến tình trạng có rất ít các tỉnh trên cả nước thực hiện được quỹ việc làm cho
người khuyết tật. Do vậy, Chính phủ cần sớm ban hành quyết định và nghị định
hướng dẫn thi hành các quy định về quỹ việc làm cho người khuyết tật, làm cơ sở cho
các cơ quan, tổ chức, cá nhân thực thi và đảm bảo việc sử dụng hiệu quả nguồn quỹ
này.
4. Quy định về an toàn lao động đối với người khuyết tật
NSDLĐ phải tuân thủ và thực hiện các quy định bảo đảm về điều kiện làm việc, trang
thiết bị, cơ sở vật chất cũng như bảo đảm an toàn trong lao động và tổ chức thường
xuyên việc khám sức khỏe định kỳ cho NLĐ khuyết tật. Điều này nhằm mục đích
đảm bảo tính khả thi và tuân thủ các tiêu chuẩn, công ước quốc tế về quyền trong lao
động của người khuyết tật. Bên cạnh đó, BLLĐ 2019 cũng quy định các hành vi bị
nghiêm cấm khi sử dụng lao động là người khuyết tật trong trường hợp “người khuyết
tật suy giảm khả năng lao động từ 51% trở lên, khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc
biệt nặng làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm, trừ trường hợp NLĐ là người khuyết
tật đồng ý” và trong trường hợp“người khuyết tật làm công việc độc hại, nặng nhọc,
nguy hiểm theo danh mục do Bộ trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ban
hành mà không co sự đồng ý của người khuyết tật sau khi đã được NSDLĐ cung cấp
đầy đủ thông tin về công việc đo”.
Điểm mới của BLLĐ 2019 là ở chỗ: mặc dù đây là quy định cấm nhưng trên thực tế,
đã mang lại cho người lao động khuyết tật quyền tự do lựa chọn và mở rộng cơ hội
việc làm, dựa trên việc được hỗ trợ thông tin một cách đầy đủ và chính xác về cơng
việc, điều kiện an tồn lao động,.... Trong khi đó, BLLĐ 2012 lại quy định cấm hoàn
toàn việc sử dụng NLĐ khuyết tật làm thêm giờ, làm việc vào ban đêm khi bị suy
giảm khả năng lao động từ 51% trở lên; cấm sử dụng NLĐ khuyết tật làm công việc
độc hại, nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại. Điều này đã gây
nên sự hạn chế cũng như kìm hãm quyền và cơ hội tìm kiếm cơng việc cho người
khuyết tật.
Chương 2: THỰC TRẠNG BẢO VỆ QUYỀN LAO ĐỘNG CỦA NGƯỜI
KHUYẾT TẬT Ở VIỆT NAM VÀ GIẢI PHÁP KHUYẾN NGHỊ
I.
Thực trạng
1. Thuận lợi
Nhờ sự quan tâm, hỗ trợ của các chính sách mà Đảng và Nhà nước đề ra, đời sống của
người khuyết tật đã từng bước được cải thiện không chỉ về vật chất mà cịn về tinh
thần. Những khó khăn và định kiến như sự kỳ thị của xã hội đối với người khuyết tật
đã được giảm thiểu đáng kể. Tuy nhiên, kể từ khi có Pháp lệnh Người tàn tật năm 1998
và sau này là Luật Người khuyết tật năm 2010, người khuyết tật Việt Nam đã có những
thay đổi tích cực về mọi mặt. Họ khơng những tự tin và dám thể hiện mình hơn, mà
cịn muốn tham gia nhiều khía cạnh hơn dành cho người khuyết tật, nhất là giáo dục
nghề nghiệp, từ đó vượt lên số phận bản thân, cũng như đóng góp to lớn cho xã hội
trên cả 3 phương diện kinh tế, chính trị và xã hội. Người khuyết tật Việt Nam có thể
nói ngày nay đã khẳng định và củng cố được vị trí quan trọng của mình trong cộng
đồng, đồng thời tham gia vào nhiều hoạt động xã hội trên mọi lĩnh vực. Các quy định
của pháp luật đã đáp ứng được phần nào tâm tư, nguyện vọng của người khuyết tật khi
tham gia vào quan hệ việc làm, quan hệ lao động với vị thế là nhóm người dễ bị thiệt
thịi nhất trong số nhóm đối tượng cần sự trợ giúp đặc biệt, tạo cơ sở pháp lý cho việc
bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của họ, nâng cao trách nhiệm và nghĩa vụ của các
cơ quan chức năng và của toàn xã hội đối với người khuyết tật.
Nhìn chung, Nhà nước đang từng bước đưa ra các chính sách ưu đãi đối với doanh
nghiệp nhận người khuyết tật vào làm việc, cùng với đó là hệ thống chính sách và
pháp luật tương đối hồn thiện để đảm bảo quyền lao động và việc làm cho người
khuyết tật. Điều này thể hiện ở việc Nhà nước đã điều chỉnh và giảm tỷ lệ lao động là
người khuyết tật từ 51% như trước đây xuống còn 30%, hiện doanh nghiệp chỉ cần sử
dụng từ 30% là đã được hưởng các chính sách khuyến khích, ưu đãi. Ngồi ra, những
doanh nghiệp nhỏ và vừa sử dụng nhiều lao động là người khuyết tật cũng được ban
hành và triển khai các quy định vay vốn ưu đãi, cũng như hạ thấp lãi suất vay. Các
chính sách, quy định này vừa nhằm mục đích trợ giúp và tạo cơ hội thuận lợi cho các
doanh nghiệp mọi loại hình chủ động phát triển sản xuất, vừa muốn thúc đẩy họ tích
cực tiếp nhận NLĐ khuyết tật vào làm việc.
Khoảng 65% doanh nghiệp tuyển NLĐ khuyết tật được hưởng các chính sách ưu đãi
dưới hình thức hỗ trợ về vốn, khấu trừ thuế và hỗ trợ tín dụng theo Báo cáo tổng kết
năm 2015 của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội. Nhờ Quỹ quốc gia về việc làm,
ngân hàng Chính sách xã hội đã hỗ trợ chi phí cho hàng nghìn dự án dành cho người
khuyết tật và doanh nghiệp sử dụng nhiều NLĐ khuyết tật qua dự án “Mở rộng tiếp
cận tài chính cho người khuyết tật - Tài trợ quy mô nhỏ cho các cơ sở sản xuất, kinh
doanh sử dụng, phục vụ hoặc do khuyết tật làm chủ” do Quỹ Nippon của Nhật Bản và
một số chương trình tín dụng khác tài trợ. Qua đó, cũng góp phần tạo ra nhiều công
việc phù hợp với lựa chọn và kỹ năng của người khuyết tật. Tại Quảng Ninh, đến năm
2019, Quỹ Việc làm dành cho người khuyết tật đã thu từ các doanh nghiệp chưa sử
dụng đủ tỷ lệ lao động là người khuyết tật con số lên đến 14 tỷ đồng, phân bổ kinh phí
cho 4 doanh nghiệp được công nhận vào việc mua sắm thiết bị, đầu tư nâng cấp hiện
đại cơ sở vật chất, qua đó góp phần tạo dựng một môi trường làm việc thoải mái, an
toàn và phù hợp dành cho NLĐ khuyết tật.
Bên cạnh đó, trong bối cảnh dịch Covid-19 diễn biến phức tạp như hiện nay, khi mà
thất nghiệp tăng cao và đời sống kinh tế người dân ngày càng trở nên khó khăn, để
tăng nhanh tỷ lệ có việc làm ở người khuyết tật, tại Hà Nội, Hội Người khuyết tật đã
chủ động tổ chức đào tạo, dạy nghề cho thành viên đăng ký tham gia Hội thông qua
việc hợp tác với các trung tâm, tổ chức, công ty đào tạo nghề. Qua đó, hàng trăm
người khuyết tật được đào tạo bài bản, đồng thời được hỗ trợ việc làm tại địa phương.
Nhất là vào tháng 9/2021, Hội này đã cho ra mắt kênh Youtube cho người khuyết tật
về dịch vụ hỗ trợ tìm kiếm việc làm. Đây là một trong những ý tưởng sáng tạo thuộc
dự án “Hợp tác công tư trong việc đào tạo và giáo dục nghề nghiệp cho thanh niên
khuyết tật tại Hà Nội, Việt Nam”. NLĐ khuyết tật, bằng việc thơng qua các kênh tài trợ
chính thức, có cơ hội nhanh chóng tiếp cận với đa dạng nhà tuyển dụng, tìm kiếm cơng
việc phù hợp, cũng như được đào tạo các kỹ năng ứng tuyển, giao tiếp và phỏng vấn.
Bên cạnh đó, Hội Người khuyết tật tại Hà Nội còn thành lập các trang fanpage,
website, hợp tác với các đơn vị mỹ nghệ chẳng hạn như: Hợp tác xã Thủ công mỹ
nghệ Trái Tim Hồng, Hợp tác xã Vụn Art,… Đây là lựa chọn mới mà NLĐ khuyết tật
phải nắm lấy để họ có thể lựa chọn công việc phù hợp với kỹ năng và mong muốn của
bản thân. Các chính sách ưu đãi, hoạt động giúp đỡ, tài trợ thực tế thông qua Hội và
các đơn vị trực thuộc, trung tâm đào tạo thực hiện đã phần nào đẩy mạnh, khuyến
khích các cơ sở sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thay đổi cái nhìn, tích cực sử dụng
NLĐ khuyết tật. Từ đó, lao động khuyết tật ngày càng vững bước tham gia thị trường
lao động, rèn luyện khả năng sống tự lập và nhanh chóng hịa nhập, thích ứng với mọi
họa động của đời sống xã hội.
2. Khó khăn
Ngồi những thành tựu bước đầu đã đạt được, quyền của người khuyết tật hiện nay
trong quan hệ việc làm, quan hệ lao động vẫn chưa được đảm bảo, chưa được quan
tâm thích đáng. Ngày càng xuất hiện nhiều vụ vi phạm về vấn đề này trong các doanh
nghiệp, tổ chức có sử dụng lao động là người khuyết tật.
Theo cuộc Điều tra Quốc gia người khuyết tật năm 2016, người khuyết tật có nhu cầu
làm việc để có thu nhập và sống độc lập, nhưng chỉ chưa đầy 1/3 người khuyết tật có
việc làm. Mức độ khuyết tật càng nặng thì tỷ lệ tham gia lao động càng thấp và tỷ lệ
thất nghiệp càng cao. 2 năm trở lại đây, vấn đề tìm kiếm cơng việc phù hợp dành cho
người khuyết tật đối mặt với vô vàn khó khăn, thách thức do ảnh hưởng của đại dịch
Covid-19. Số lượng người khuyết tật ở Việt Nam tính đến năm 2019 đã lên đến 6,2
triệu người, nhưng trong số này, chỉ có 31,7% người khuyết tật tham gia vào lực lượng
lao động. Tỷ lệ người khuyết tật có việc làm từ 15 tuổi trở lên là 36%, mặt khác, tỷ lệ
này ở người không khuyết tật gần như gấp đơi là 60%. Như vậy, có thể thấy rằng đây
là một con số đang kể và đáng báo động. Do tình hình dịch bệnh ngày càng mở rộng
và ảnh hưởng nhiều mặt của đời sống xã hội, người khuyết tật là đối tượng dễ chịu tổn
thương và ảnh hưởng kinh tế nặng nề nhất khi bị mất việc làm.
Phần lớn người khuyết tật ở Việt Nam (87,3%) sống ở các vùng nông thôn, nơi cơ sở
vật chất, điều kiện kinh tế, phương tiện sinh hoạt còn nhiều lạc hậu, dẫn đến nhiều khó
khăn trong di chuyển và hịa nhập với cộng đồng, xã hội. Người khuyết tật không thể
sống tự lập, phải sống dựa vào gia đình chiếm khoảng 70%, mặt khác, số lượng người
khuyết tật có cơng việc, tự tạo thu nhập chỉ chiếm khoảng 25%, tuy nhiên, công việc
họ được nhận khá bấp bênh, không lâu dài và thu nhập thấp. Do khả năng giao tiếp,
hoàn cảnh kinh tế khó khăn và nỗi mặc cảm tự ti của bản thân, số lượng người khuyết
tật tham gia lớp học đào tạo nghề rất hiếm và hạn chế. Vì vậy, xảy ra trường hợp nhiều
trung tâm, cơ sở đào tạo nghề cho người khuyết tật khơng có học viên, hoặc chỉ có
những người khuyết tật nhẹ.
Hiểu về điểm mạnh, năng lực chuyên môn và nhu cầu công việc của người khuyết tật,
từ đó sắp xếp trình độ đào tạo, kiến thức, kĩ năng dạy nghề tương ứng là một trong
những thách thức cơ bản của các trung tâm, cơ sở đào tạo nghề. Bên cạnh đó, trên thực
tế, một vài cơ sở dạy nghề không muốn tiếp nhận người khuyết tật do việc địi hỏi
nhiều chi phí cho sự đầu tư, nâng cấp, hiện đại hóa cơ sở vật chất, kĩ thuật. Hiện nay,
các cơ sở này đều trong tình trạng xuống cấp nghiêm trọng, trang thiết bị, dụng cụ
chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu giảng dạy. Phần lớn đội ngũ giáo viên còn thiếu so với
nhu cầu tuyển dụng. Điều này đã dẫn đến nhiều khó khăn, đặt ra thách thức không hề
nhỏ cho các trung tâm, cơ sở đào tạo nghề dành cho người khuyết tật.
Không thể phủ nhận rằng, trên thực tế, tuy Nhà nước ban hành các chính sách, chương
trình đưa ra nhiều quyền lợi, ưu đãi đối với các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh
doanh sử dụng ổn định nhiều lao động là người khuyết tật, nhưng những lợi ích này
chưa thực sự hấp dẫn hoặc chưa đủ để thúc đẩy họ tuyển dụng nhiều NLĐ khuyết tật
như vậy. Theo đó, phần lớn các doanh nghiệp, công ty nhỏ hoặc siêu nhỏ sẽ khơng thể
nằm trong diện được hưởng chính sách ưu đãi này do quy định phải sử dụng ổn định ít
nhất từ 10 người khuyết tật hoặc từ 30% tổng số lao động là người khuyết tật, trong
khi hiện nay, các doanh nghiệp loại này tại Việt Nam chiếm đến hơn 90% tỷ lệ doanh
nghiệp ở cả ba nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch
vụ.
Các doanh nghiệp, cơ sở sản xuất kinh doanh chưa thực sự để ý, quan tâm, còn đánh
giá thấp năng lực và khả năng của người khuyết tật, thêm vào đó là tâm lý e ngại người
khuyết tật không đảm nhận được công việc và sẽ trở thành đối tượng phải hỗ trợ của
doanh nghiệp nên việc tuyển dụng vào làm việc là rất hạn chế. Các lý do được sử dụng
để từ chối tiếp nhận người khuyết tật vào làm việc như các yêu cầu về ngoại hình, yêu
cầu về sức khỏe,.... Song, do số người khuyết tật được đào tạo nghề chỉ chiếm khoảng
3%, nên rất khó để tìm được người có kỹ năng phù hợp, đáp ứng u cầu cơng việc
của doanh nghiệp. Sự kì thị, phân biệt đối xử trong cơng việc vì lý do khuyết tật của
các nhà tuyển dụng cũng là một trong nguyên nhân dẫn tới sự khó khăn, thách thức
trong quá trình tìm việc của người khuyết tật.
Tuy hiện tại Nhà nước đã đưa ra nhiều chính sách, quyền lợi, ưu đãi dành riêng cho
người khuyết tật, các trung tâm, cơ sở dạy nghề và các cơ sở sản xuất kinh doanh,
doanh nghiệp trong việc triển khai giúp đỡ đào tạo, tuyển dụng lao động là người
khuyết tật vào làm việc, có thể thấy rằng, mối quan hệ giữa 3 thành phần này cịn
nhiều lỗ hổng, thiếu sự gắn bó, cam kết cũng như chủ động chịu trách nhiệm trong
công tác dạy nghề và tìm kiếm cơng việc phù hợp cho người khuyết tật. Sự quan tâm,
để ý của các cấp, các ngành, đơn vị đến công ăn việc làm và khả năng phục hồi trong
lao động của người khuyết tật còn hời hợt, chưa tạo được sự gắn kết, gắn bó chặt chẽ.
II.
Giải pháp khuyến nghị
Một là, hồn thiện hệ thống pháp luật về bảo vệ quyền của người khuyết tật, trước mắt
cần rà sốt lại tồn bộ các quy định về bảo vệ quyền của người khuyết tật trong pháp
luật lao động cho đồng bộ và hợp lý, tránh chồng chéo. Xây dựng, sửa đổi và bổ sung
các quy định pháp luật phù hợp với tình hình thực tế, với tình hình tài chính, tâm tư
nguyện vọng và nhu cầu của người khuyết tật để các văn bản này nhanh chóng được
hiện thực hóa và phát huy có hiệu quả hơn nữa trong công tác bảo vệ, chăm sóc, giúp
đỡ người khuyết tật, tạo điều kiện để người khuyết tật tham gia vào quan hệ lao động,
hòa nhập cộng đồng. Tổ chức giám sát, kiểm tra thường xuyên việc thực hiện các quy
định, chính sách đã ban hành ở địa phương, cơ sở, từng ngành và liên ngành.
Hai là, nâng cao nhận thức và trách nhiệm của xã hội đối với người khuyết tật bằng
cách: Tiếp tục đẩy mạnh cơng tác xã hội hóa để các cấp, các ngành, các tổ chức xã hội
và người dân tham gia vào cơng tác bảo vệ, chăm sóc, giúp đỡ, tạo điều kiện cho NLĐ
khuyết tật hòa nhập với cộng đồng, hạn chế, ngăn chặn thái độ kì thị, phân biệt đối xử
với người khuyết tật. Khuyến khích, tạo điều kiện để các tổ chức xã hội, các cá nhân
tham gia hoạt động trợ giúp người khuyết tật. Nhà nước tạo điều kiện về vốn, cơ sở vật
chất, chính sách để Hội, Hiệp hội, các cơ sở sản xuất kinh doanh của người khuyết tật
hoạt động có hiệu quả. Đa dạng hóa các hoạt động tuyên truyền, phổ biến giáo dục ý
thức của cộng đồng, xã hội đảm bảo dễ dàng tiếp cận và sử dụng cho người khuyết tật
như: Xây dựng và xuất bản các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật nhằm động viên, hướng
dẫn người khuyết tật tham gia lao động, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
khi bị vi phạm; Nêu những tấm gương điển hình về người khuyết tật tham gia hoạt
động sản xuất kinh doanh, vươn lên làm giàu chính đáng; Tuyên truyền sâu, rộng trên
các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là ở cấp xã, phường để người dân chia sẻ,
chăm lo cho người khuyết tật, trong đó có NSDLĐ, phổ biến và triển khai các biện
pháp phòng ngừa khuyết tật, chính sách của Nhà nước đối với người khuyết tật.
Ba là, tiếp tục hỗ trợ đào tạo dạy nghề, giải quyết việc làm cho người khuyết tật. Mỗi
cơ sở đào tạo nghề cần tiến hành khảo sát nhu cầu nghề nghiệp của người khuyết tật,
đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu nghề nghiệp, công việc của họ để tiến hành lập kế
hoạch tổ chức đào tạo. Đầu tư xây dựng trường lớp, biên soạn chương trình giảng dạy
phù hợp với sức khỏe, tâm lý của người khuyết tật. Nâng cao công tác đào tạo đội ngũ
giáo viên giảng dạy. Tiếp tục mở rộng chương trình đào tạo nghề, giải quyết việc làm
cho người khuyết tật. Thông qua Quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm, trợ giúp về kiến thức,
vốn, điều kiện sản xuất kinh doanh để người khuyết tật có thể tự lập, tự lao động sản
xuất, nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo.
Bốn là, đẩy mạnh các hoạt động chăm sóc sức khỏe, chỉnh hình, phục hồi chức năng
cho người khuyết tật trong các doanh nghiệp có sử dụng lao động và ngay trong cộng
đồng người khuyết tật sinh sống. Triển khai chương trình phục hồi chức năng dựa vào
cộng đồng, hướng hoạt động phục hồi chức năng đến vùng nông thôn, vùng sâu, vùng
xa, người khuyết tật có hồn cảnh khó khăn. Có chính sách giúp đỡ các cơ sở sản xuất
kinh doanh, các doanh nghiệp cải tiến kĩ thuật, đầu tư cơ sở vật chất để bảo vệ an tồn
tính mạng và sức khỏe cho NLĐ là người khuyết tật.
Năm là, phát triển hợp tác quốc tế về bảo vệ quyền của người khuyết tật trong lĩnh vực
việc làm. Nhà nước ta cần tiếp tục duy trì, mở rộng hợp tác quốc tế với các tổ chức, cá
nhân trong khu vực và trên thế giới trong hoạt động trợ giúp người khuyết tật; đẩy
mạnh việc ký kết và nội luật hóa các điều ước quốc tế về bảo vệ quyền của NLĐ
khuyết tật trong pháp luật quốc gia; đẩy mạnh trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm,
trợ giúp kĩ thuật, đào tạo cán bộ làm việc cùng với người khuyết tật; tranh thủ các
nguồn viện trợ để đầu tư, xây dựng cơ sở vật chất chăm sóc NLĐ khuyết tật được hiệu
quả hơn. Hơn nữa, trên cơ sở tiếp thu những hướng dẫn của ILO, pháp luật lao động
Việt Nam cần bổ sung và hoàn thiện các quy định về phân biệt đối xử trong lĩnh vực
việc làm, trong đó có trách nhiệm điều chỉnh môi trường làm việc phù hợp và quyền
khiếu nại khi bị phân biệt đối xử để bảo vệ tốt hơn quyền của người khuyết tật khi
tham gia vào quan hệ lao động.
KẾT LUẬN
Đứng trước sự phát triển, tiến bộ khơng ngừng của xã hội, hịa vào xu thế hội nhập kinh
tế quốc tế của đất nước, cùng với nhận thức ngày càng cao của xã hội nói chung và người
khuyết tật nói riêng, vấn đề bảo vệ quyền của người khuyết tật, đặc biệt trong lĩnh vực lao
động trở lên đáng quan tâm hơn bao giờ hết. Không chỉ các quốc gia xây dựng hệ thống
pháp luật lao động về bảo vệ quyền của người khuyết tật mà cả những tổ chức quốc tế lớn
cũng ban hành những quy định riêng, nâng việc bảo vệ quyền của người khuyết tật lên
tầm cỡ đa quốc gia, quốc tế. Việt Nam bằng nỗ lực của mình đã phê chuẩn rất nhiều Công
ước quốc tế về vấn đề này. Bên cạnh đó, hệ thống pháp luật lao động Việt Nam về bảo vệ
quyền của người khuyết tật cũng không ngừng được củng cố, hoàn thiện.
Tuy nhiên, với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn hiện nay,
các quan hệ lao động cũng đã có những thay đổi, thêm vào đó, xuất hiện nhiều vấn đề
mới mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh. Do đó, pháp luật lao động Việt Nam đã dần bộc lộ
những hạn chế, thiếu sót và gây ra những khó khăn, vướng mắc trong việc thực hiện các
quy định này trên thực tế. Vấn đề chất lượng việc làm chưa được quan tâm thích đáng.
Danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khuyết tật chưa có cơ chế để bảo vệ. Tính mạng,
sức khỏe của người khuyết tật vẫn bị đe dọa và xâm phạm.
Để tạo đà phát triển cho các quan hệ lao động trong những điều kiện mới và đưa Việt
Nam theo kịp sự phát triển của thế giới, Nhà nước và xã hội cần nỗ lực để hoàn thiện các
quy định của pháp luật về bảo vệ quyền của người khuyết tật, khắc phục những vướng
mắc và tăng cường hiệu quả của việc thực thi các quy định pháp luật trong vấn đề này.
Quyền của người khuyết tật sẽ được bảo vệ tốt nhất khi có cơ sở pháp lý vững chắc, đội
ngũ thực thi pháp luật có trình độ, nhiệt tình, tâm huyết và đặc biệt là ý thức tuân thủ
pháp luật của NLĐ là người khuyết tật và NSDLĐ được nâng cao.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Banks, L. M., Walsham, M., Minh, H. V., Duong, D. T., Ngan, T. T., Mai, V. Q., Blanchet,
K., & Kuper, H. (2019). Access to social protection among people with disabilities:
Evidence from Viet Nam. International Social Security Review, 72(1), 59–82.
/>Bogenschutz, M., Im, H., Liang, A., & Quyhn Luong, L. T. (2020). Vietnam and
disability rights: Perspectives at the time of ratification of the UN Convention on
the Rights of Persons with Disabilities. International Journal of Disability,
Development and Education, 68(5), 717–733.
/>Công đoàn Việt Nam, (2021), Tăng cơ hội việc làm cho người khuyết tật. Cổng thơng tin
điện tử Cơng đồn Việt Nam.
Đại, T., Phạm, S., & Nội, H. (n.d). ĐÀO TẠO NGHỀ CHO NGƯỜI KHUYẾT TẬT.
Đào, T. K. D. (2014). Pháp luật về dạy nghề đối với người khuyết tật ở Việt
Nam (Doctoral dissertation, Khoa Luật).
Nguyễn, T. Q. (2015). Quyền làm việc của người khuyết tật tại Việt Nam.
Quốc hội (2006), Luật dạy nghề số 76/2006/QH11 ngày 29/11/2006, Hà Nội.
Quốc hội (2010), Luật Người khuyết tật số 51/2010/QH12 ngày 17/06/2010, Hà Nội.
Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Hà Nội.
Quốc hội (2019), Bộ luật lao động nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam số
45/2019/QH14 ngày 20/11/2019, Hà Nội.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội tỉnh Quảng Nam, (2021), Việt Nam sẽ co thêm 3%
GDP từ người khuyết tật.
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), (2004), Tài liệu hướng dẫn “Hướng tới cơ hội việc làm
bình đẳng cho người khuyết tật thông qua hệ thống pháp luật".
Tổ chức Lao động Quốc tế ILO, (2019), Viet Nam to ratify ILO Convention on
employment for workers with disabilities, Cổng thông tin của Tổ chức Lao động
Quốc tế.
Tổng cục Thống kê, (2018), Việt Nam: Điều tra quốc gia người khuyết tật (National
survey on people with disabilities) 2016, Cổng thông tin của Tổng cục thống kê.