Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

Sáng kiến kinh nghiệm Thực trạng tổ chức trò chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt...

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.54 KB, 20 trang )

Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
1
PHẦN I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1. Lý do chọn đề tài:
Theo N.K.Crúpxkaia thì: “Trẻ có nhu cầu chơi vì trẻ mong muốn hiểu biết
về cuộc sống xung quanh, hơn nữa trẻ mẫu giáo rất thích bắt chước người lớn,
thích được hoạt động tích cực cùng với bạn bè cùng tuổi. Hoạt động chơi giúp
trẻ thỏa mãn 2 nhu cầu trên…”. Đây là 1 trong những quan điểm của các nhà
khoa học nói về vai trò của hoạt động vui chơi nhằm thỏa mãn nhu cầu cơ bản
của trẻ mẫu giáo, thể hiện vai trò của hoạt động vui chơi đối với sự phát triển
của trẻ. Hoạt động vui chơi là một hoạt động chủ đạo của trẻ độ tuổi mẫu giáo,
hoạt động vui chơi giúp trẻ phát triển toàn diện nhân cách trẻ và giúp chuẩn bị
những cơ sở tâm lý cần thiết cho hoạt động học tập ở tiểu học trong tương lai.
Hoạt động vui chơi là dạng hoạt động phản ánh sáng tạo, độc đáo, hiện thực tác
động qua lại giữa trẻ với môi trường xung quanh nhằm thỏa mãn nhu cầu vui
chơi, nhu cầu nhận thức của trẻ. Trẻ tham gia vào hoạt động vui chơi tức trở
thành một chủ thể hoạt động tích cực, trẻ trị chuyện, giao tiếp, vận dụng vốn
kiến thức, vốn kinh nghiệm cuộc sống của bản thân…để thực hiện ý đồ chơi,
nhờ thế mà nhân cách của trẻ được hình thành và phát triển.
Hoạt động vui chơi ở trẻ mẫu giáo mà trung tâm là trị chơi đóng vai theo
chủ đề, có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tâm lý và hình thành nhân các cho
trẻ. Trị chơi đóng vai theo chủ đề được xem như một trò chơi tiêu biểu, đặc
trưng đối với trẻ mẫu giáo. Nó là một trị chơi sáng tạo, có nội dung chơi, luật
chơi được quy định trong hành động chơi, nội dung chơi phụ thuộc vào vốn kinh
nghiệm và khả năng của trẻ. Trị chơi này góp phần giải quyết mâu thuẫn những
nhu cầu muốn bắt chước người lớn - tập làm người lớn - và với khả năng chưa
cho phép của giai đoạn này, tạo nên động lực phát triển các mặt tâm lý và nhân
cách cho trẻ.
Trị chơi đóng vai theo chủ đề là một trong những trò chơi quan trọng được
thường xuyên tổ chức trong giờ hoạt động góc, cần thể hiện là một góc chính và
cố định trong phịng học để tạo mơi trường góc hoạt động cho trẻ. Bên cạnh đó,


để phát huy triệt để vai trị của hoạt động vui chơi nói chung và trị chơi đóng
vai treo chủ đề nói riêng thì cần chú trọng vào việc thực hiện các khâu chuẩn bị,
tổ chức, thiết kế… tại góc đó. Tuy nhiên, hiện nay tại một vài cơ sở thì việc tổ
chức trị chơi đóng vai theo cịn nhiều hạn chế như việc tổ chức chưa thường
xuyên; chưa chú ý đến khâu chuẩn bị đồ dùng – đồ chơi, thiết kế góc cho trẻ
hoạt động; sử dụng các phương pháp, hình thức chưa phù hợp với độ tuổi; tổ
chức mang hình thức áp đặt của giáo viên khơng phát huy tính hoạt động sáng
tạo của trẻ.
Qua thời gian học tập kiến thức chun mơn tại trường, bản thân tơi thấy
được vai trị quan trọng của hoạt động vui chơi nói chung và trị chơi đóng vai
theo chủ đề nói riêng đối với sự phát triển của trẻ. Trên cơ sở đó bản thân tôi
mong muốn vận dụng cơ sở lý luận đã có vào thực tiễn, để bản thân có thể phát
hiện ra những gì ưu điểm và hạn chế trong việc tổ chức trị chơi đóng vai theo
chủ đề cho trẻ, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho bản thân sau này khi ra
nghề.
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
2
Với những lý do trên tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Thực trạng tổ chức trị chơi
đóng vai theo chủ đề cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động góc tại trường mầm non
Thực Hành – Nha Trang”
2. Mục tiêu nghiên cứu:
- Tìm hiểu thực trạng tổ chức trị chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ 5 – 6 tuổi
trong hoạt động góc tại trường mầm non Thực Hành – Nha Trang.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức trị chơi đóng vai

theo chủ đề cho trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động góc.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu.
1. Đối tượng nghiên cứu: Thực trạng tổ chức trị chơi đóng vai theo chủ đề cho
trẻ 5 – 6 tuổi trong hoạt động góc tại trường mầm non Thực Hành – Nha Trang.
2. Khách thể ngiên cứu: Quá trình tổ chức hoạt động góc cho trẻ 5 – 6 tuổi tại
trường mầm non Thực Hành – Nha Trang.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Nghiên cứu các vấn đề lý luận có liên quan tới đề tài.
2. Phân tích thực trạng tổ chức trị chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ 5 – 6 tuổi
trong hoạt động góc tại trường mầm non Thực Hành – Nha Trang.
3. Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả tổ chức trị chơi đóng vai
theo chủ đề trong hoạt động góc cho trẻ 5 – 6 tuổi.
5. Giới hạn phạm vi nghiên cứu:
- Không gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành tại lớp mẫu giáo 5 – 6 tuổi
của trường mầm non Thực Hành – Nha Trang.
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành trong thời gian từ tháng
12/2014 đến tháng 5/2015.
- Quy mô nghiên cứu: Nghiên cứu thực trạng tổ chức trị chơi đóng vai theo chủ
đề cho trẻ 5 - 6 tuổi trong hoạt động góc.
6. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp đọc sách, tham khảo tài liệu.
- Phương pháp quan sát.
- Trò chuyện.
- Điều tra bằng phiếu câu hỏi.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.

PHẦN II: NỘI DUNG NGHIÊN CỨU.

CHƯƠNG I : CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI


I Khái quát về góc hoạt động, hoạt động góc.
1. Khái niệm về góc hoạt động, hoạt động góc.
- Góc hoạt động là một phần của lớp học, được người giáo viên sắp xếp,
thiết kế các điều kiện về cơ sở vật chất, tạo môi trường cho trẻ hoạt động học tập
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
3
hoặc vui chơi theo nhu cầu, hứng thú cá nhân, hoặc nhóm trẻ. Mỗi một góc thiết
kế để phục vụ cho một dạng hoạt động đặc thù riêng của trẻ phù hợp chủ điểm
giáo dục.
- Hoạt động góc là hoạt động học hoặc vui chơi theo nhu cầu, hứng thú
của cá nhân hoặc một nhóm trẻ diễn ra ở một góc của lớp học để thực hiện mục
tiêu và nội dung giáo dục. Tại góc hoạt động trẻ được trải nghiệm, củng cố, rèn
luyện những kiến thức, kỹ năng đã được học trong hoạt động chung, được khám
phá, tìm tịi phát hiện những “cái mới” ở xung quanh.
2. Mục đích của việc tổ chức hoạt động góc.
Hoạt động góc là một hình thức tổ chức hoạt động theo nhu cầu, hứng thú
của trẻ, được tổ chức hàng ngày trong chế độ sinh hoạt của trẻ nhằm mục đích:
- Khuyến khích tính độc lập, tích cực của trẻ. Khi tham gia hoạt động góc,
trẻ được tự lựa chọn góc chơi, tự lựa chọn đồ dùng, đồ chơi để thực hiện nội
dung hoạt động theo nhu cầu, sở thích và năng lực của bản thân, do đó khuyến
khích được tính độc lập, tích cực của trẻ.
- Tạo điều kiện để trẻ khám phá, thử nghiệm, tìm tịi. Trẻ được hoạt động
trong một mơi trường vật chất phong phú, đa dạng và bài trí một cách hấp dẫn,
trẻ hoàn toàn được hoạt động theo nhu cầu, sở thích của bản thân, đây chính là

cơ hội thuận lợi để trẻ được khám phá, thử nghiệm, tìm tịi.
- Tạo điều kiện để trẻ bộc lộ mọi khả năng của mình. Trong hoạt động góc
trẻ được tự do lựa nội dung hoạt động, tự lựa chọn đồ dùng, đồ chơi, tự triển
khai thực hiện ý tưởng đã đưa ra theo cách riêng của mình, do đó trẻ có cơ hội
để bộc lộ mọi khả năng của mình.
- Giúp trẻ tích lũy vốn kinh nghiệm phong phú. Trong hoạt động góc trẻ
nhiều cơ hội để tìm tịi, khám phá thế giới xung quanh, do đó vốn kinh nghiệm
về thế giới xung quanh của ngày một phong phú hơn.
- Rèn luyện cho trẻ tính tự lực. Trong hoạt động góc trẻ được khuyến
khích tự lựa chọn góc hoạt động, lựa chọn nội dung, cách thức, phương tiện hoạt
động, tự bàn bạc, trao đổi với nhau để giải quyết các tình huống xảy ra, tìm cách
khắc phục những khó khăn xảy ra trong q trình hoạt động ví dụ như thiếu đồ
chơi, chưa thống nhất về một vấn đề nào đó trong nhóm. Do đó tính tự lực có cơ
hội được rèn luyện trong chính q trình trẻ hoạt động hàng ngày ở các góc.
3. Thiết kế góc hoạt động.
3.1 Lựa chọn và sắp xếp các góc hoạt động
Việc lựa chọn góc hoạt động (Số lượng và loại) phụ thuộc vào:
- Mục đích giáo dục (cơ muốn trẻ học được những gì?)
- Nhu cầu, hứng thú, khả năng của trẻ (Trẻ có khả năng gì? Trẻ thích hoạt
động gì? ...)
- Căn cứ vào điều kiện thực tiễn:
+ Khơng gian, diện tích phịng học: Diện tích lớp học rộng hay hẹp, có thể
bố trí được bao nhiêu góc?
+ Đồ dùng, học liệu có trong lớp: Đồ dùng, học liệu nhiều hay ít, có thể
đáp ứng được nhu cầu về đồ dùng, học liệu của trẻ ở những góc nào?
3.2 Sắp xếp các góc vào các vị trí lớp học.
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net



Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
4
Sau khi đã xác định được các góc hoạt động cần có trong lớp, giáo viên
phải sắp xếp các góc vào vị trí phù hợp. Việc sắp xếp các góc hoạt động cần
đảm bảo các ngun tắc sau:
- Các góc ồn ào thì phải đặt xa các góc địi hỏi có sự n tĩnh. Ví dụ: Góc
xây dựng, góc âm nhạc, góc đóng vai đặt xa góc thư viện, góc tạo hình…..
- Các góc cần đủ ánh sáng cho trẻ hoạt động, góc thư viện, góc tạo hình
nên bố trí ở vị trí có thể tận dụng được ánh sáng tự nhiên nhiều nhất.
- Giữa các góc cần có ranh giới rõ ràng và phải có khơng gian cho trẻ đi
lại.
- Các góc hoạt động có sử dụng điện thì đặt gần các ổ cắm điện.
- Các góc có sử dụng nước cần đặt gần nơi có nước hoặc gần cửa ra vào
để ra lấy nước được dễ dàng như góc tạo hình, góc thiên nhiên…
- Sắp xếp các góc sao cho cơ và trẻ phải dễ dàng nhìn thấy nhau để cho cô
dễ bao quát được hoạt động của trẻ ở các góc và trẻ cũng biết được những góc
hoạt động nào khác có ở trong lớp trong ngày hơm đó.
4. Tổ chức hướng dẫn trẻ trong hoạt động góc.
4.1 Yêu cầu chung:
- Cô thường xuyên làm việc trực tiếp với trẻ, chơi với từng cá nhân, từng
nhóm trẻ. Trẻ thực hiện các nội dung hoạt động theo sở thích và năng lực của
bản thân.
- Mối quan hệ giữa cô và trẻ là mối quan hệ tương tác, hợp tác, khơng
mang tính áp đặt từ phía cơ.
- Việc hướng dẫn trẻ hoạt động tại góc khơng tiến hành theo kiểu đồng
loạt, khơng thể cứng nhắc theo một kiểu có sẵn mà phải căn cứ vào nhu cầu,
hứng thú và năng lực của trẻ của trẻ để lựa chọn phương pháp, biện pháp hướng
dẫn linh hoạt, thích hợp và có hiệu quả.

4.2 Hướng dẫn trẻ hoạt động tại các góc:
Việc hướng dẫn trẻ hoạt động tại góc có thể chia làm 2 giai đoạn:
- Giai đoạn 1: Giai đoạn trẻ chưa có khả năng chủ động hoạt động ở các góc:
* Nhiệm vụ của giáo viên: Ở giai đoạn này giáo viên có nhiệm vụ giúp trẻ làm
quen với môi trường hoạt động trong góc và nằm được quy tắc hoạt động của
các góc.
* Biện pháp hướng dẫn:
- Giới thiệu các góc hoạt động mà giáo viên đã thiết kế.
- Nêu quy tắc chung khi về góc và yêu cầu cụ thể đối với từng góc hoạt động.
- Khuyến khích trẻ lần lượt khám phá các góc hoạt động mà cơ đã thiết kế.
- Khi trẻ đã về góc cơ trực tiếp tham gia hoạt động cùng với trẻ để hướng dẫn
trẻ cách sắp xếp, bày trí và sử dụng các đồ dùng, học liệu có trong góc để
thực hiện các nội dung hoạt động theo nhu cầu, hứng thú, khả năng của trẻ.
- Kết thúc giờ hoạt động cô nhận xét hoặc gợi ý cho trẻ nhận xét về việc thực
hiện các yêu cầu khi về góc, quan hệ, thái độ của trẻ trong quá trình hoạt động.
- Giai đoạn 2: Trẻ chủ động hoạt động ở các góc.
* Nhiệm vụ của giáo viên
- Quan sát hoạt động của trẻ, tìm hiểu nhu cầu, hứng thú, khả năng của trẻ để
từ đó đưa ra những biện pháp hướng dẫn phù hợp với trẻ.
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
5
- Động viên, khuyến khích trẻ tích cực tham gia hoạt động.
- Mở rộng và làm phong phú thêm nội dung hoạt động của trẻ.
- Can thiệp kịp thời và khách quan khi cần thiết.

* Biện pháp hướng dẫn:
- Tạo các cơ hội, các tình huống lơi cuốn trẻ vào hoạt động.
- Sử dụng hệ thống câu hỏi gợi ý, dẫn dắt trẻ bày tỏ suy nghĩ và lựa chọn nội
dung, phương tiện hoạt động.
- Mô tả việc trẻ làm hoặc yêu cầu trẻ mô tả việc trẻ làm.
- Bổ sung đồ dùng, học liệu đúng lúc.
- Mời khách đến thăm quan hoặc đưa trẻ đi tham quan.
- Hỗ trợ trẻ khi cần thiết (Cùng chơi, cùng thực hiện nội dung hoạt động với
trẻ, hoặc hướng dẫn trẻ cách làm ….).
Như vậy để tổ chức, hướng dẫn trẻ hoạt động góc có hiệu quả địi hỏi giáo
viên phải có những hiểu biết vững vàng về sự phát triển của trẻ, về những
kiến thức có liên quan và phải có khả năng tạo mơi trường giáo dục thuận
tiện, hợp lí, lơi cuốn trẻ hoạt động, khả năng lập kế hoạch giáo dục trẻ, khả
năng tổ chức thực hiện kế hoạch một cách linh hoạt, có khả năng đánh giá
trẻ…nhằm phát huy tối đa các năng lực của trẻ, giáo dục trẻ phát triển một
cách tồn diện nhất.
II. Khái qt về trị chơi và trị chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ mẫu giáo
1. Trị chơi.
1.1 Khái niệm về trị chơi:
Thuật ngữ “Chơi” có rất nhiều nghĩa khác nhau, nhưng trong phạm trù
hoạt động của trẻ em thì chơi được coi là một hoạt động mà động cơ nằm trong
q trình chứ khơng nằm trong kết quả của hoạt động (A.L. Leonchep), khi chơi
đứa trẻ khơng chủ tâm vào một lợi ích thiết thực nào cả, trong trò chơi các mối
quan hệ giữa con người với tự nhiên và với xã hội được mô phỏng lại. Chơi
mang lại cho trẻ một trạng thái tinh thần phấn chấn, dễ chịu.
Trị chơi chính là một trong những loại hình hoạt động của trẻ, đó là hoạt
động phản ánh hiện thực xung quanh một cách sáng tạo, độc đáo. Thơng qua trị
chơi người lớn giúp trẻ làm quen với những phương thức hành vi của con người,
giúp trẻ học làm người.
1.2 Ý nghĩa của trò chơi đối với việc giáo dục trẻ phát triển tồn diện:

1.2.1 Trị chơi là phương tiện giáo dục trí tuệ cho trẻ mẫu giáo:
- Trò chơi giúp trẻ mở rộng, củng cố, chính xác hóa những hiểu biết về
thế giới xung quanh. Nội dung chính của các trị chơi của trẻ là cuộc sống xunh
quanh được trẻ phản ánh một cách độc đáo và sáng tạo. Những biểu tượng về
cuộc sống mà trẻ lĩnh hội được trước lúc chơi, trong khi chơi vẫn giữ lại phần cơ
bản của nó, nhưng đồng thời trong q trình chơi, những biểu tượng đó được
làm chính xác thêm, được củng cố và mở rộng thêm nhờ sự phát triển của các dự
định chơi, nhờ cụ thể hóa các động tác, các thao tác chơi và các vai trong trò
chơi dưới sự hướng dẫn của người lớn và sự giúp đỡ của các bạn cùng chơi.
Ví dụ: Biểu tượng về quan hệ mua bán, về cách thức mua cũng như bán của
người mua và người bán sẽ được chính xác hóa, mở rộng trong trị chơi “Cửa
hàng bách hóa”
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
6
- Qua trò chơi phát triển nhu cầu nhận thức, phát triển tính tò mò ham
hiểu biết của trẻ. Khi chơi trẻ thường đóng một vai nào đó, thể hiện hoạt động và
mối quan hệ của người lớn, trẻ muốn đóng đúng hơn, giống thật hơn hoặc đôi
khi vốn tri thức, vốn kinh ngiệm của trẻ chưa đủ để trẻ thể hiện vai đó nên xuất
hiện nhu cầu nhận thức, nhu cầu vươn tới để lĩnh hội tri thức mới.
- Trị chơi góp phần phát triển các q trình tâm lí nhận thức như cảm
giác, tri giác, tư duy, tưởng tượng, ngôn ngữ…Khi chơi trẻ sử dụng các kinh
nghiệm của mình để tái tạo cuộc sống xung quanh với sự tham gia của các q
trình tâm lí, đồng thời thì các q trình tâm lí đó lại được phát triển chính trong
q trình chơi đó.

1.2.2 Trị chơi là phương tiện giáo dục đạo đức cho trẻ mẫu giáo:
- Trong trị chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ tích cực hoạt động và nắm vững
các quy tắc đạo đức, các chuẩn mực hành vi con người trong các mối quan hệ
con người đối với lao động, đối với tài sản chung…góp phần hình thành ở trẻ
thái độ, hành vi đúng đắn phù hợp với các chuẩn mực hành vi xã hội. Thông qua
các vai chơi hấp dẫn, trẻ dễ dàng hướng tới cái đẹp trong hành vi, cử chỉ, thái độ
của bạn mình, trẻ dễ dàng phục tùng những quy tắc đạo đức ẩn kín sau các vai
chơi.
Ví dụ: Khi trẻ vào vai 1 bác sĩ , trẻ phải thể hiện những quy tắc đạo đức của 1
bác sĩ đó là ân cần, nhẹ nhàng, chu đáo, thận trọng trong khi khám bệnh và chăm
sóc bệnh nhân; phải tơn trọng y tá… Dần dần sau nhiều lần đóng vai bác sĩ trẻ
và thực hiện những quy tắc đó, đã hình thành ở trẻ một số phẩm chất tốt như biết
đối xử với bạn bè nhẹ nhàng, biết ân cần quan tâm đén người bị ốm (cha mẹ, cô
giáo, bạn bè..). Như vậy quy tắc đạo đức ứng xử “ bên ngoài” đã trở thành phẩm
chất đạo đức “ bên trong” của trẻ qua vai chơi bác sĩ.
- Thơng qua trị chơi, giáo viên giáo dục hình thành cho trẻ những phẩm
chất đạo đức cần thiết như lòng nhân ái, trung thực, lòng dũng cảm, tính kiên trì,
sự đồng cảm sâu sắc…Trong trị chơi thì trẻ ướm mình vào một vai nào đó và có
những hành vi thái độ, cử chỉ phù hợp với vai đã nhận sẽ giúp trẻ được bộc lộ,
được trải nghiệm tình cảm, thái độ hành vi của mình thật sống động. Thơng qua
đó giáo viên có thể giáo dục hình thành ở trẻ lịng nhân ái, sự cảm thơng sâu sắc
với người khác.
1.2.3 Trò chơi là phương tiện giáo dục thể lực cho trẻ mẫu giáo.
- Chơi trị chơi đóng vai theo chủ đề góp phần thúc đẩy sự phát triển thể
lực cho trẻ. Khi tham gia trò chơi trẻ ln ở trạng thái vui vẻ, tinh thần phấn
khởi, đó là điều kiện thuận lợi để tâm lí và thể lực của trẻ phát triển tốt. Đặc biệt
trong quá trình chơi, trẻ hoạt động tích cực (nhất là trong trị chơi vận động) tạo
điều kiện để hoạt động của các cơ quan: Hơ hấp, tuần hồn ….được tăng cường,
làm thúc đẩy hoạt động của quá trình trao đổi chất diễn ra tốt hơn, các cơ bắp
được luyện tập trở nên săn chắc.

- Trị chơi là phương tiện hình thành, phát triển ở trẻ một số phẩm chất thể
lực như sức nhanh, sự dẻo dai, sự khéo léo kết hợp các vận động với nhau và rèn
luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận động cần thiết như ném, chạy, bò, trườn…..
1.2.4. Trò chơi là phương tiện giáo dục thẩm mỹ cho trẻ mẫu giáo
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
7
- Thông qua các trò chơi giúp trẻ cảm thụ cái đẹp. Trước hết là cái đẹp về
màu sắc, hình dạng, sự phong phú của đồ chơi mà trẻ sử dụng trong trò chơi và
cái đẹp trong hành vi, cử chỉ, thái độ của cái bạn chơi của các vai chơi hấp dẫn
mà trẻ đóng.
- Trong trị chơi trẻ có điều kiện được tự mình sáng tạo ra cái đẹp. Như
thơng qua trị chơi xây dựng- lắp ghép trẻ tạo ra các sản phẩm đẹp (trường học,
công viên, bệnh viện) và thông qua các vai chơi trẻ có điều kiện bộc lộ, thể hiện
các hành vi, cử chỉ, thái độ đẹp với người khác.
1.2.5 Trò chơi là phương tiện giáo dục lao động cho trẻ mẫu giáo
- Trò chơi (đặc biệt là trò chơi xây dựng – lắp ghép và trị chơi ĐVTCĐ)
hình thành ở trẻ một số kĩ năng lao động đơn giản, kĩ năng sử dụng một số công
cụ lao động như: nấu ăn, làm bánh từ các khuôn bánh…
- Trong quá trình chơi, dưới sự hướng dẫn của người lớn, sẽ góp phần
chuẩn bị cho trẻ những phẩm chất cần thiết của người lao động như tính mục
đích, tính tổ chức kỷ luật, tính kế hoạch, sáng tạo…
- Thơng qua quá trình chơi, trẻ sẽ hiểu rõ hơn về các ngành nghề lao động
trong xã hội, góp phần hình thành ở trẻ sự cảm thơng, lịng u q người lao
động, q trọng và biết bảo quản sản phẩm lao động.

Tóm lại: Trị chơi là phương tiện quan trọng và có hiệu quả nhất để giáo dục trẻ
phát triển toàn diện. Trong trị chơi, nhân cách của trẻ được hình thành và phát
triển, trò chơi là điều kiện thuận lợi, là phương tiện chuẩn bị cho trẻ bước vào
cuộc sống lao động sau này có kết quả.
1.3 Các loại trị chơi của trẻ mẫu giáo ở trường mầm non:
* Có rất nhiều cách phân loại khác nhau về trò chơi của trẻ được dựa trên các
căn cứ khác nhau:
- Nếu căn cứ vào tính sáng tạo/ hoặc quy định trước của trị chơi, người ta
có thể phân trị chơi thành 2 loại:
+ Trị chơi sáng tạo: Là những trị chơi có nội dung chơi, cách chơi không quy
định trước, nội dung trò chơi phụ thuộc vào vốn kinh nghiệm, khả năng sáng tạo
của trẻ. Ví dụ: trị chơi đóng vai theo chủ đề, trò chơi xây dựng – lắp ghép.
+ Trò chơi có luật: Là những trị chơi có cách chơi, đặc biệt là luật chơi được
quy định cụ thể trước khi chơi, mọi trẻ phải tuân theo, thực hiện đúng luật chơi.
Nếu luật chơi khơng được thực hiện, trị chơi sẽ bị tan rã. Ví dụ: Trị chơi vận
động – Mèo đuổi chuột, trò chơi học tập – Chiếc hộp kỳ diệu
- Nếu căn cứ vào mục đích của trị chơi, người ta chia trò chơi thành:
+ Trò chơi Phản ánh sinh hoạt: Nội dung trò chơi nhằm phản ánh, tái tạo cuộc
sống sinh hoạt của người lớn, qua đó thỏa mãn nhu cầu của trẻ.
+ Trò chơi Xây dựng – lắp ghép: Nội dung trò chơi phản ánh mảng xây dựng
trong cuộc sống qua đó rèn luyện kỹ năng và phát triển trí tưởng tượng, sáng tạo
trong lắp ráp, thiết kế, bố cục…các sản phẩm có tính chất mơ hình.
+ Trị chơi Đóng kịch: Nội dung chơi phản ánh nội dung tác phẩm văn học mà
trẻ u thích.
+ Trị chơi học tập: Nhiệm vụ, nội dung chơi hướng tới giải quyết các nhiệm vụ
học tập, nhiệm vụ nhận thức.
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net



Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
8
+ Trò chơi vận động: Nhiệm vụ, nội dung chơi hướng tới việc củng cố, rèn
luyện các kỹ năng, kỹ xảo vận động, phát triển tố chất vận động
- Nếu căn cứ vào tác giả sáng tác trị chơi, có thể chia:
+ Trị chơi rõ tác giả.
+ Trị chơi khơng rõ tác giả (trò chơi dân gian).
1.4 Một số yêu cầu chung khi tổ chức hướng dẫn trẻ chơi:
Trị chơi của trẻ có bản chất, đặc điểm riêng không giống như hoạt động
học tập và lao động. Vì vậy để trẻ chơi tích cực, hứng thú mang lại hiệu quả cao
thì trong quá trình tổ chức, hướng dẫn cho trẻ chơi, người lớn cũng như cô giáo
phải nắm vững và quán triệt tốt các yêu cầu sau:
- Đảm bảo tính tự nguyện, hứng thú cho trẻ khi chơi:
Khi tổ chức cho trẻ chơi, giáo viên phải đảm bảo để trẻ chơi một cách tự
nguyện, khơng gị bó, áp đặt trẻ, khơng đặt ra những quy định bắt trẻ phải tuân
theo một cách máy móc, khơng nên can thiệp một cách thơ bạo vào trò chơi của
trẻ, hãy để trẻ đến với với trò chơi một cách hồn tồn tự nguyện, do ý thích
thúc đẩy.
- Đảm bảo cho trẻ được thoải mái, tích cực, chủ động trong khi chơi:
Chơi là hoạt động độc lập của trẻ, được chủ động, độc lập trong khi chơi, trẻ
sẽ tích cực hoạt động “hết mình”, trẻ dễ dàng phát huy sáng kiến, nỗ lực vượt
qua khó khăn, rèn luyện tính kiên trì và chỉ khi trẻ được chơi một cách độc lập,
thoải mái thì trẻ mới thấy hứng thú. Vì vậy tổ chức cho trẻ chơi tức là gợi ý
hướng dẫn sao cho trẻ có thể tự chơi, phát huy cao độ tính tự lực, sáng tạo của
trẻ, giáo viên không làm, làm hộ cho trẻ.
- Giúp trẻ thiết lập mối quan hệ tốt đẹp trong nhóm bạn cùng chơi
Trong trị chơi ln tồn tại 2 mối quan hệ: quan hệ thực và quan hệ chơi.Giáo
viên tổ chức một cách khéo léo để mở rộng các mối quan hệ chơi thông qua các

vai chơi, đồng thời vừa tạo ra được khơng khí hịa thuận, biết nhường nhịn nhau
trong mối quan hệ giữa các bạn chơi, đảm bảo cuộc chơi thành cơng.
- Đảm bảo tính giáo dục đối với trẻ:
Lựa chọn trị chơi có nội dung lành mạnh, bổ ích, rèn luyện các chức năng tâm
- sinh lý, chủ đề, nội dung chơi phải có tác dụng giáo dục tốt, tránh những trò
chơi mang nội dung xấu, bắt chước những hiện tượng tiêu cực, kém văn hóa
trong đời sống xã hội.
- Đảm bảo tính phát triển của trị chơi:
Trị chơi lựa chọn cho trẻ chơi cần phong phú, đa dạng, tránh tình trạng để trẻ
chơi những trị chơi lặp đi, lặp lại một cách đơn điệu gây sự nhàm chán. Nội
dung chơi, quan hệ chơi, luật lệ, quy tắc chơi phải được mở rộng và phức tạp
hóa dần dần.
2. Trị chơi đóng vai theo chủ đề:
2.1 Khái niệm về trị chơi đóng vai theo chủ đề
Trị chơi đóng vai theo chủ đề là loại trò chơi sáng tạo, trong đó trẻ phản
ánh hiểu biết, ấn tượng của mình về cuộc sống sinh hoạt xung quanh, quá đó
thỏa mãn nhu cầu hứng thú của trẻ.
2.2 Ý nghĩa của trò chơi đóng vai theo chủ đề đối với trẻ mẫu giáo:
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
9
- Trò chơi ĐVTCĐ có ý nghĩa rất quan trọng đến hình thành nhân cách trẻ
mẫu giáo, đặc biệt là hình thành lịng nhân ái. Chính trong trị chơi phân vai theo
chủ đề, các nhóm trẻ đầu tiên xuất hiện, trẻ tích cực và tự nguyện giao tiếp với
nhau. Sự giao tiếp này thỏa mãn các nhu cầu xã hội của trẻ đồng thời giúp trẻ

tham gia vào các quan hệ qua lại phức tạp hơn. TCĐVTCĐ tạo điều kiện thuận
lợi nhất cho trẻ tham gia vào các hoạt động xã hội mang tính nhân ái. Từ đó giúp
trẻ lĩnh hội các quan hệ và các hành động mang tính người.
- TCĐVTCĐ là một hình thức đặc biệt của nhận thức, trước hết vì nó gắn
chặt với xúc cảm. Trong trị chơi này trẻ hướng tới tương lai và thực sự sống
trong đó. Khi đứng trên cương vị của người lớn (vui chơi) để thực hiện hoạt
động của họ, trẻ mới hiểu được ý nghĩa hoạt động của con người là làm việc vì
mọi người. Chính vì thế mà Vưgơlxki đã nói rằng trong trị chơi trẻ nên Người.
- Trong trị chơi, thơng qua các vai chơi hấp dẫn, trẻ dễ dàng hướng tới cái
đẹp trong hành vi của các bạn mình nhất, dễ tiếp thu cái đẹp trong quan hệ người
với người nhất. Vì khi đóng các vai chơi trẻ dễ dàng phục tùng các quy tắc “bên
ngồi” thành q trình thực hiện các quy tắc “bên trong”, làm cho sự ngăn cách
giữa các biểu tượng đạo đức và hành động đạo đức khơng cịn nữa.
Ví dụ: Khi đóng vai “bác sĩ” trẻ phải thực hiện theo những quy tắc “bên ngoài”
như bác sĩ phải ân cần, chu đáo, thận trọng, ôn hịa khi khám bệnh cho bệnh
nhân… Sau nhiều lần đóng vai “bác sĩ” và thực hiện các quy tắc đó đã hình
thành ở trẻ một số phẩm chất tốt như biết đối xử với bạn bè nhẹ nhàng, thân
thiện, ân cần với các em nhỏ…Như vậy, các quy tắc ứng xử “bên ngoài” đã trở
thành phẩm chất đạo đức “bên trong”. Và biểu tượng đạo đức như lòng nhân ái,
sự tốt bụng, ân cần chăm sóc người khác đã được cụ thể hóa qua các hành động
của bác sĩ đối với bệnh nhân.
- Đối với trẻ mẫu giáo việc tự đánh giá những hành động của mình cịn rất
khó. Trẻ chưa thể bắt những hành động của mình phục tùng những quy tắc đã
định trước, vì việc này địi hỏi trẻ phải biết tự nhận xét đạo đức của bản thân
mình. Qua vai chơi, trẻ theo dõi hành vi đạo đức của mình và của bạn cùng chơi,
kiểm tra đối chiếu các hành động và thái độ của mình với các luật chơi ẩn sau
vai chơi. Trẻ hành động trên cương vị của vai chơi, đồng thời trải nghiệm những
tình cảm êm dịu, dễ chịu và nhờ những tình cảm đó mà chúng lĩnh hội các kinh
nghiệm dễ dàng hơn, hiệu quả hơn.
- Đặc điểm của quá trình hình thành phẩm chất đạo đức của trẻ phụ thuộc

chủ yếu vào xúc cảm của chúng. Ở tuổi mẫu giáo, tình cảm có vai trị “thống
sối” trong hàng động và cách ứng xử của trẻ, trải nghiệm và xúc động sẽ ghi lại
những “dấu ấn” sâu sắc và bền chặt trong nhân cách của chúng. Khơng có hoạt
động nào ở tuổi mẫu giáo lại có thể giúp trẻ bộc lộ xúc cảm, bộc lộ thái độ của
mình như ở trong TCĐVTCĐ. Trẻ xúc động, sung sướng và đau khổ theo vai
mình đóng, theo hình mẫu mà chúng tái tạo trong trị chơi chúng trải nghiệm số
phận nhân vật của mình.
Ví dụ: Khi trẻ đóng vai “bà mẹ” có con ốm, trẻ buồn rầu lo lắng “như thật” và
khi “bác sĩ” chữa cho em bé khỏi thì cũng vui sướng “y như thật” hoặc khi “bác
sĩ” khám bệnh cho bệnh nhân rất chăm chú cẩn thận… Cứ như vậy, qua các vai
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
10
chơi khác nhau, trẻ biết tự đặt mình vào các vị trí của người khác và đối xử với
người khác như đối xử với bản thân mình.
- TCĐVTCĐ khơng chỉ có tác dụng giáo dục đạo đức, thẫm mỹ cho trẻ
mà nó cịn có một ý nghĩa vơ cùng to lớn đối với việc phát triển trí tuệ cho trẻ.
Trong trị chơi, trẻ sử dụng kinh nghiệm của mình để tái tạo cuộc sống của
người lớn với sự tham gia tích cực của các q trình tâm lí như tư duy, trí nhớ,
chú ý và đặc biệt là vai trò của tưởng tượng và ngơn ngữ.
Tóm lại: TCĐVTCĐ tạo điều kiện thuận lợi nhất để hình thành lịng nhân
ái cho trẻ. Đó là phẩm chất mang tính người nhất, đồng thời cũng là phẩm chất
mang tính đạo đức thẫm mỹ. Phẩm chất này không chỉ đặc trưng về mặt đạo đức
thẩm mỹ mà sau này nó cịn tham gia vào q trình trí tuệ của trẻ. Nếu ngay từ
nhỏ trẻ đã biết đồng cảm thương yêu những người khác, mong muốn giúp đỡ họ,

thì sau này khi lớn lên trẻ sẽ muốn lao động, muốn sáng tạo vì lợi ích của mọi
người.
2.3 Đặc điểm của trò của trò chơi ĐVTCĐ
- Trò chơi ĐVTCĐ bao giờ cũng có một chủ đề nhất định: Trong khi chơi,
trẻ phản ánh cuộc sống xung quanh rất đa dạng với các mảng hiện thực vô cùng
phong phú. Các mảng hiện thực được phản ánh trong trò chơi được gọi là chủ đề
của trị chơi. Ví dụ chủ đề sinh hoạt gia đình, về trường học, bệnh viện, giao
thơng ... Phạm vi tiếp xúc của trẻ càng rộng, kinh nghiệm của trẻ càng nhiều thì
chủ đề chơi của trẻ càng phong phú.
- Chính vì trị chơi ĐVTCĐ mơ phỏng hoạt động của người lớn xung
quanh, mô phỏng mối quan hệ giữa người với người, cho nên khi tham gia vào
trị chơi phải có nhiều trẻ, cùng chơi, cùng hợp tác. (Bác sĩ khơng thể khơng có
bệnh nhân; người bán hàng không thể thiếu người đi mua hàng; cô giáo khơng
thể khơng có học sinh ...). Điều này cho thấy tính hợp tác là một đặc điểm rất rõ
nét của loại trò chơi này.
- Để chơi được trò chơi này trẻ cần phải đóng vai. Có nghĩa là trẻ phải giả
vờ làm người lớn, ướm mình vào vị trí một người nào đó với các chức năng xã
hội mà người đó đảm nhận và bắt chước hành động của họ.
- Trị chơi ĐVTCĐ mang tính ký hiệu tượng trưng, tính khái qt, mơ
phỏng. Mặc dù trị chơi ĐVTCĐ phản ánh những hiện tượng có thực trong cuộc
sống xã hội xung quanh trẻ, nhưng hành động của trẻ chỉ có tính chất mô phỏng
lại một cách khái quát, tượng trưng (hành động giả vờ). Mặt khác, trong khi
chơi, trẻ sử dụng những đồ vật, đồ chơi thay thế. Những vật thay thế này mang
tính ký hiệu tượng trưng và được trẻ sử dụng khơng theo đúng chức năng của
chúng.
Ví dụ: Ghế làm ô tô; que làm kim tiêm; khăn làm giường ... Hoặc trẻ dùng
hành động của mình để thực hiện chức năng của một vật. Ví dụ: lấy ngón tay
chọc vào cánh tay của bạn - hành động tiêm cho bệnh nhân; đưa tay lên tai hành động nghe điện thoại...
- Trị chơi ĐVTCĐ thể hiện rõ tính độc lập cao. Trên cơ sở kinh nghiệm
đã có của mình, trẻ tự nghĩ ra chủ đề chơi, nội dung chơi, tự thỏa thuận với nhau

vai chơi, tự điều hành, kiểm tra diễn biến quá trình chơi. Ở đây người lớn chỉ giữ
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
11
vai trò là người tổ chức, hướng dẫn, là “thang đỡ” giúp trẻ trong quá trình chơi
để thỏa mãn nhu cầu làm người của mình.
2.4 Cấu trúc của trị chơi đóng vai theo chủ đề:
* Chủ đề chơi: Đó là mảng hiện thực của cuộc sống sinh hoạt xung
quanh trẻ được phản ánh trong trò chơi, thường là các lĩnh vực gần gũi với kinh
nghiệm của trẻ như: chủ đề “gia đình”, “trường mẫu giáo”…
* Vai chơi: Trẻ nhập vai, ướm thử vào vị trí của người lớn và tập thể hiện
các hành động, cơng việc, cách ứng xử, đời sống tình cảm…tương ứng với vị trí
của họ trong đời sống xã hội, ví dụ: “cơ giáo”, “học sinh” trong chủ đề chơi
“dạy học”.
* Nội dung chơi: Mảng hiện thực cuộc sống xung quanh được trẻ lĩnh hội
và thể hiện nó qua việc đóng vai. Kinh nghiệm sống của trẻ càng phong phú bao
nhiêu thì nội dung chơi càng được mở rộng bấy nhiêu.
* Luật chơi: Đó là các quy định về phương thức hành động, cư xử, cách
thể hiện đời sống tình cảm…phù hợp với vai chơi, ví dụ: Bác sĩ phải biết kê đơn,
thăm khám; khám bệnh nhẹ nhàng, ân cần, nhiệt tình và cảm thơng với bệnh
nhân…. Vốn kinh nghiệm của trẻ càng phong phú bao nhiêu thì trẻ có khả năng
thể hiện luật chơi tỉ mỉ, phong phú và giống thật bấy nhiêu, hay nói cách khác,
luật chơi ở trị chơi đóng vai theo chủ đề được ẩn kín sau các vai chơi.
=> Tất cả các thành tố trên (chủ đề chơi, vai chơi, nội dung chơi, luật chơi) liên
quan mật thiết với nhau, bỗ sung và chi phối lẫn nhau. Nếu thiếu một trong các

thành tố trên thì khơng cịn là trị chơi đóng vai theo chủ đề nữa.
2.5 Điều kiện tổ chức trị chơi đóng vai theo chủ đề.
- Trẻ phải có vốn kinh nghiệm phong phú về cuộc sống xung quanh, bởi
vì trong trị chơi đóng vai trẻ phản ánh ấn tượng, hiểu biết của mình về thế giới
xung quanh.Vốn kinh nghiệm của trẻ phong phú, trẻ có cơ hội thể hiện nội dung
chơi một cách phong phú, sinh động.
- Phải có đồ chơi: Đồ chơi là phương tiện để trẻ thể hiện vai chơi, đồ chơi
cần phong phú, đa dạng, đẹp, phù hợp với đặc điểm phát triển trị chơi của trẻ,
kích thích tính chủ động, tích cực, sáng tạo của trẻ khi chơi.
- Phải có chỗ chơi hợp lý: Cần tạo cho trẻ khơng gian chơi hợp lý để trẻ
hoạt động một cách tự nhiên, thoải mái.
3. Tổ chức trị chơi đóng vai theo chủ đề cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
3.1 Đặc điểm phát triển của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
3.1.1 Đặc điểm phát triển các chức năng tâm lý của trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi.
3.1.1.1 Đặc điểm phát triển nhận thức:
* Đặc điểm phát triển tư duy:
- Ở độ tuổi MGL, tư duy trực quan – hình tượng vẫn chiếm ưu thế. Bên
cạnh đó, kiểu tư duy trực quan – sơ đồ đã xuất hiện từ cuối tuổi MGN tiếp tục
được phát triển mạnh. Dưới sự hướng dẫn của người lớn, trẻ khơng những có
khả năng đọc hiểu sơ đồ, mà cịn có thể lập và sử dụng sơ đồ khá thành thạo.
Khả năng cho phép trẻ phản ánh sự vật một cách khái quát và khách quan hơn.
- Trẻ MGL đã biết phân tích tổng hợp khơng chỉ dừng lại ở đồ vật, hình
ảnh mà ngay cả từ ngữ.
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học

12
- Tư duy của trẻ mất dần tính duy kỉ (lấy mình làm trung tâm), ngày càng
mang tính khách quan và hiện thực hơn.
- Những yếu tố của tư duy trừu tượng cũng đã xuất hiện. Nhờ sự phát
triển mạnh của ngôn ngữ, của chức năng kí hiệu tượng trương mà trẻ bước đầu
đã dựa vào các kí hiệu, từ ngữ, khái niệm đơn giản để giải quyết một số toán
thực tiễn.
- Trong tuổi mẫu giáo, kể cả tuổi MGL, hoạt động tâm lí của trẻ tỏ ra đặc
biệt nhạy cảm với những hình tượng cụ thể sinh động về sự vật hiện tượng và trẻ
tiếp thu những tri thức được biểu hiện dưới dạng trực quan hình tượng dễ dàng
hơn hết. Người lớn cần tiếp tục quan tâm phát triển tư duy trực quan hình tượng
chứ khơng nên cố gắng thúc đẩy trẻ sớm chuyển sang lĩnh hội kiểu tư duy trừu
tượng vì:
+ Bản thân việc lĩnh hội tư duy trừu tượng sẽ khơng hồn hảo nếu thiếu cơ sở
vững chắc những biểu tượng phong phú về sự vật hiện tượng do kiểu tư duy trực
quan – hình tượng mang lại.
+ Ngay cả sau khi nắm được tư duy trừu tượng thì tư duy trực quan – hình tượng
vẫn khơng mất đi ý nghĩa quan trọng của nó. Loại tư duy này cần cho mọi hoạt
động sáng tạo.
+ Trong hoàn cảnh sống và hoạt động của trẻ mẫu giáo thì những hoạt động tâm
lí được thể hiện dưới dạng hình tượng đang có điều kiện tối ưu để phát triển
mạnh nhất.
* Đặc điểm phát triển tri giác:
- Trẻ MGL bắt đầu khảo sát (bằng tay kết hợp với mắt nhìn) và mơ tả đối
tượng có trình tự và tỉ mỉ hơn. Cuối tuổi mẫu giáo một số trẻ có thể chỉ cần tri
giác bằng mắt cũng có thể mơ tả được khá đầy đủ thuộc tính của đối tượng. (Trẻ
nắm thuộc tính của đối tượng bằng hành động tri giác có tổ chức, có trình tự và
hiệu quả hơn)
- Trẻ khơng chỉ nhận biết, phân biệt chính xác các đặc điểm thuộc tính của
đối tượng thơng qua việc sử dụng các chuẩn nhận cảm cơ bản, mà trẻ còn nhận

biết được một số những biến thể của chuẩn trong tính đa dạng của nó.
- Việc tri giác tranh của trẻ có nhiều tiến bộ đáng kể. Trẻ đã có thể tri giác
tranh vẽ một cách đúng đắn.
- Trẻ có khả năng nhìn bao quát bức tranh và hiểu được nội dung một số
bức tranh có bố cục phức tạp. Trẻ cịn có thể đưa ra những lời giải thích cho nội
dung tranh theo hiểu biết và kinh nghiệm sống của trẻ.
* Đặc điểm phát triển chú ý :
- Sự chú ý trước đây nếu tập trung nhiều vào đồ vật tác động vào thị giác
thì nay ý nghĩa của âm thanh đã làm trẻ chú ý nhiều.
- Các thuộc tính của chú ý như khối lượng chú ý, sức bền của chú ý cũng
được tăng lên. Trẻ có thể chú ý có chủ định trong vòng 50 – 60’ nếu đối tượng
chú ý gây hấp dẫn đối với trẻ.
- Trẻ có thể phân phối được chú ý của mình lên 2 – 3 đối tượng cùng một
lúc, tuy nhiên thời gian phân phối chú ý chưa bền vững, dễ dao động.
- Trẻ di chyển chú ý nhanh nếu có sự hướng dẫn tốt từ người lớn.
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
13
- Sự phân tán chú ý của trẻ còn mạnh, nhiều khi trẻ không tự chủ được do
vô thức tri phối.
* Đặc điểm phát triển trí nhớ:
- Cả trí nhớ có chủ định và khơng chủ định đều được phát triển, tuy nhiên
trí nhớ khơng chủ định vẫn chiếm ưu thế.
- Trí nhớ có ý nghĩa ngày càng tăng nhanh.
- Trí nhớ ngơn ngữ tăng vời một tốc độ đơi khi cịn nhanh hơn cả trí nhớ

trực quan.
* Đặc điểm phát triển tưởng tượng:
- Do sự phát triển của tư duy, sự mở rộng vốn kinh nghiệm mà tưởng
tượng của trẻ ngày càng phát triển mạnh mẽ.
- Tưởng tượng của trẻ ngày càng ít phụ thuộc vào các đối tượng đang tri
giác, thậm chí khơng cần chỗ dựa vật chất bên ngồi mà chuyển vào trí tưởng
tượng ngầm trong óc.
- Các hình ảnh của tưởng tượng ngày càng phong phú hơn, chúng không
chỉ được tạo bởi cách kết hợp các biểu tượng trong vốn kinh nghiệm mà còn
được trẻ gán cho những thuộc tính mà chúng khơng có.
- Trong tưởng tượng của mình trẻ ngày càng tỏ rỏ tình độc lập và sáng
kiến.
- Trong độ tuổi này tưởng tượng không chủ định vẫn chiếm ưu thế.
- Ngơn ngữ có ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ.
* Đặc điểm phát triển ngôn ngữ:
Đến tuổi MGL, hầu hết trẻ em đều biết sử dụng tiếng mẹ đẻ một cách thành
thục trong sinh hoạt hằng ngày. Sự hoàn thiện tiếng mẹ đẻ ở trẻ MGL thể hiện
theo các hướng sau:
- Ngữ âm, ngữ điệu:
+ Trẻ phát âm khá chuẩn xác các âm của tiếng mẹ đẻ kể cả những âm khó như
uềnh ồng, khúc khuỷu… (do việc giao tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng; tai
âm vị được rèn luyên thường xuyên; các cơ quan phát âm đã trưởng thành).
+ Khả năng bắt chước và sử dụng các ngữ điệu khác nhau phù hợp với nội dung
lời nói, với tình huống giao tiếp ngày càng tăng.
- Vốn từ:
+ Số lượng từ đáng kể (vốn từ của trẻ khoảng 2500 – 3500 từ).
+ Thành phần từ khá phong phú, đa dạng (danh từ, động từ, tính từ, trạng từ…).
+ Một số trẻ không chỉ lĩnh hội các từ trong tiếng mẹ đẻ mà còn sáng tạo ra từ
mới.
+ Việc hiểu nghĩa của từ ngày càng chính xác hơn (do trẻ ngày càng tích lũy

nhiều biểu tượng và vốn kinh nghiệm về thế giới xung quanh, do tư duy của trẻ
ngày càng phát triển…)
+ Trẻ MGL bắt đầu để ý, nhận xét, đơi khi cịn bắt bẽ cách dùng từ của người
lớn.
- Ngữ pháp:
+ Về cơ bản trẻ đã nắm được ngữ phát tiếng mẹ đẻ.
+ Trẻ đã biết sắp xếp các từ trong câu theo đúng cấu trúc ngữ pháp tiếng mẹ đẻ.
+ Câu của trẻ ngày càng đa dạng hơn; số lượng câu phức tăng.
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
14
- Ngôn ngữ giao tiếp:
+ Ngồi ngơn ngữ tình huống, ngơn ngữ ngữ cảnh, ở độ tuổi MGL, một kiểu
ngôn ngữ khác là ngơn ngữ giải thích cũng đang phát triển. Ngơn ngữ giải thích
địi hỏi trẻ phải trình bày ý kiến của mình theo một trình tự nhất định, phải nêu
bật những điểm chủ yếu và các mối liên kết các sự vật hiên tượng một cách hợp
lí, nói các khác ngơn ngữ này u cầu phải có tính chặt chẽ và mạch lạc, nên nó
cịn gọi là ngơn ngữ mạch lạc.
+ Ngơn ngữ mạch lạc có ý nghĩa quan trọng trong việc hình thành những mối
quan hệ qua lại của trẻ với các bạn trong nhóm.
+ Ngơn ngữ mạch lạc cần được tư duy hỗ trợ, song chính ngơn ngữ mạch lạc lại
là phương tiện giúp tư duy của trẻ được phát triển đến một chất lượng mới, đó là
việc nãy sinh các yếu tố của tu duy trừu tượng – tư duy logic.
+ Ở độ tuổi này, hiện tượng nói lắp giảm dần, thậm chí biến mất.
- Về phong các ngôn ngữ: Trẻ MGL chủ yếu nắm vững phong cách sinh hoạt và

một mức độ nhất định của phong cách nghệ thuật.
Tóm lại:
- Đến tuổi MGL, ngơn ngữ của trẻ phát triển mạnh và thực sự trở thành
công cụ tư duy, phương tiện giao tiếp của trẻ với mọi người xung quanh.
- Ngôn ngữ phát triển cũng là một yếu tố giúp trẻ sẵn sàng bước vào học
tập ở lớp 1 sau này.
3.1.1.2 Đặc điểm phát triển mặt tình cảm, động cơ, ý chí và tự ý thức:
* Đặc điểm phát triển động cơ:
- Các hành vi của trẻ thường được thúc đẩy bởi một hoặc một số động cơ;
trẻ ngày càng ý thức được động cơ của hành vi.
- Các động cơ hành vi ngày càng rõ nét, ngày càng phức tạp.
- Động cơ nhận thức được phát triển mạnh ở độ tuổi này.
- Mối quan hệ phụ thuộc theo thứ bậc các động cơ ngày càng ổn định
khiến xu hướng hành vi của trẻ ngày càng rõ nét và dễ xác định hơn.
* Đặc điểm phát triển tình cảm:
- Xúc cảm, tình cảm tiếp tục được phát triển mạnh “tính hợp lí” trong tình
cảm tăng lên.
- Những biểu hiện bên ngồi của tình cảm được biến đổi một cách căn
bản. Trẻ nắm được cách thể hiện những sắc thái xúc cảm một cách tế nhị. Bước
đầu trẻ đã biết kiềm chế những biểu hiện mạnh mẽ, đột ngột.
- Xúc cảm, tình cảm ngày càng trở nên sâu sắc và ổn định hơn so với lứa
tuổi trước.
- Các tình cảm cấp cao, đặc biệt là tình cảm trí tuệ phát triển mạnh.
* Đặc điểm phát triển ý chí:
- Các hành động ý chí ngày càng bộc lộ rõ nét trong hoạt động vui chơi và
trong cuộc sống của trẻ.
- Ở tuổi MGL, số lượng các hành động ý chí tăng rõ rệt, trẻ có những biểu
hiện ý chí tương đối lâu so với độ tuổi trước.
- Tính mục đích của hành động tăng. Trẻ không chỉ biết tiếp nhận mục
đích do người khác đặt ra mà cịn tự đặt ra mục đích cho hành động của bản thân

SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
15
và có những biểu hiện cố gắng để đạt mục đích ban đầu. Tuy nhiên trẻ vẫn cần
sự hỗ trợ, động viên và khích lệ từ phía người lớn, từ bạn bè.
- Vai trị điều khiển, điều chỉnh của ngơn ngữ trong việc thực hiện hành
động ngày càng tăng. Ở độ tuổi này, khơng chỉ ngơn ngữ của người lớn mới có
tác dụng điều chỉnh hành vi của trẻ mà trẻ còn biết dùng ngôn ngữ của bản thân
để điều khiển, điều chỉnh hành động (trẻ nhủ thầm trong óc hay tự nói ra mồm
một mình những lời nói có tác dụng nhắc nhở bản thân về mục đích hay động cơ
của hành động…).
- Tính kế hoạch xuất hiện. Trẻ bắt đầu biết sắp xếp công việc và thực hiện
công việc theo kế hoạch đã xác lập.
* Đặc điểm phát triển tự ý thức:
- Tiền đề của ý thức bản ngã là việc tách mình ra khỏi người khác đã được
hình thành ở cuối tuổi nhà trẻ. Đến tuổi MGL, ý thức bản ngã được xác định rõ
ràng hơn, biểu hiện:
+ Trẻ hiểu mình là người như thế nào, có những phẩm chất gì? Vì sao mình
hành động như thế này? Mọi người có thái độ đối xử với mình ra sao?...
+ Trẻ biết tự đánh giá về bản thân (về những thành công hay thất bại, về những
ưu điểm hay hạn chế về khả năng và bất lực…của mình).
+ Ý thức về giới tính của bản thân phát triển rõ hơn. Trẻ khơng những nhận ra
mình là con trai hay con gái, mà còn biết thể hiện hành vi phù hợp giới tình.
+ Trẻ biết nhận xét, đánh giá về bản thân để đánh giá đúng đắn về bản thân, đầu
tiên trẻ MGL phải học cách đánh giá người khác và lắng nghe những người

xung quanh đánh giá mình như thế nào. Trong giai đoạn đầu, sự đánh giá của trẻ
còn phụ thuộc nhiều vào tình cảm của trẻ đối với đối tượng được đánh giá. Càng
đến cuối tuổi MGL, trẻ càng nắm được kĩ năng so sánh mình với người khác,
điều này là cơ sở để tự đánh giá đúng đắn hơn và cũng là cơ sở để trẻ noi gương
những người tốt, việc tốt.
- Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng giúp trẻ điều khiển và điều chỉnh
hành vi của mình phù hợp với những chuẩn mực và quy tắc xã hội, từ đó hành vi
của trẻ mang tính nhân cách đậm nét hơn trước.
- Ý thức bản ngã được xác định rõ ràng còn cho phép trẻ thực hiện các
hành độn một cách chú tâm hơn, nhờ đó các q trình tâm lí mang tính chủ định
rõ rệt.
- Do ý thức bản ngã được xác định rõ ràng và các q trình tâm lí chuyển
dần từ khơng chủ định sang có chủ định, làm cho các hành động ý chí của trẻ
ngày càng bộc lộ rõ.
3.1.2 Đặc điểm phát triển trị chơi đóng vai theo chủ đề của trẻ mẫu giáo 5 – 6
tuổi.
Cuối tuổi mẫu giáo nhỡ (4 - 5 tuổi), đầu tuổi mẫu giáo lớn (5 - 6 tuổi) bắt
đầu xuất hiện loại trò chơi tập thể. Sự xuất hiện trò chơi tập thể tạo khả năng
phát triển thay đổi nhanh chóng cả chủ đề, nội dung cũng như cấu trúc của trò
chơi ĐVTCĐ. Từ những chủ đề về cuộc sống đời thường ở dạng đơn giản, sơ
khai, đặc trưng của trẻ 3 - 4 tuổi đến những chủ đề phản ánh lao động sản xuất,
những sự kiện, hiện tượng xã hội khác nhau của trẻ 5 – 6 tuổi.
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
16

Nội dung trò chơi cũng được phát triển. Trong trò chơi của trẻ 5 tuổi cùng
với những hành động, các mối quan hệ, những hành vi xã hội cũng được phản
ánh. Ví dụ: “Bác sĩ không chỉ khám bệnh (nghe, cặp nhiệt độ...) mà còn quan
tâm, trò chuyện, an ủi, động viên “bệnh nhân”. “Mẹ” không chỉ cho “con” ăn,
tắm, mặc quần áo cho “con” mà còn dạy “con” học, đọc sách, kể chuyện cho
“con” nghe, đưa “con” đến “bác sĩ”...
Sự phát triển chủ đề, nội dung chơi theo các nhà tâm lý học, giáo dục học
có liên quan đến nguồn kiến thức của trẻ. Ở trẻ 5 tuổi, đa số trò chơi được xác
định bởi những ấn tượng nhận được từ sách, chuyện kể của người lớn hoặc qua
phim ảnh, truyền hình... Trong trị chơi trẻ 5 tuổi khơng chỉ phản ánh những sự
kiện mà trẻ trực tiếp tham gia mà cả những gì mà chúng quan sát được khi tham
quan, dạo chơi và sinh hoạt hàng ngày. Sự mở rộng chủ đề chơi và nội dung
chơi dẫn đến sự thay đổi hình thức và cấu trúc của trị chơi. Trẻ mẫu giáo lớn
bao giờ cũng xác định chủ đề chơi trước sau đó mới đến vai chơi. Trong cấu trúc
của trị chơi ở trẻ mẫu giáo lớn có bước chuẩn bị – thỏa thuận chơi. Lúc đầu trẻ
chỉ thỏa thuận về chủ đề chơi: “Chúng mình sẽ chơi trị chơi gì?”, thỉnh thoảng
trẻ phân chia vai chơi. Dần dần trong quá trình thỏa thuận trẻ bắt đầu bàn bạc
hướng phát triển nội dung chơi: “Đầu tiên chúng mình sẽ cho con ăn, đi dạo, sau
đó sẽ chuẩn bị đón khách” (trị chơi gia đình). Theo các nhà tâm lý học đó là
việc kế hoạch hóa đơn giản, nó tạo điều kiện mở rộng đầy đủ nội dung chơi,
phát triển mối quan hệ thực và mối quan hệ chơi, làm cho trò chơi diễn ra hấp
dẫn hơn, phong phú hơn, trẻ chơi hứng thú hơn. Nhu cầu thỏa thuận trước khi
chơi xuất hiện trong mối liên hệ với sự phát triển trò chơi. Ở trẻ nhỏ nhu cầu này
chưa có. Sự phong phú về ấn tượng, về kiến thức của trẻ 5 tuổi, sự đa dạng,
phong phú những sự kiện được phản ánh trong trị chơi địi hỏi cần phải có sự
thỏa thuận trước. Trẻ bắt đầu có kỹ năng lập kế hoạch chơi. Trẻ ở lứa tuổi này
có khả năng xác định sẽ chơi trị chơi gì? Chơi như thế nào? Và biết phân vai
chơi, thỏa thuận với nhau về kế hoạch chơi trong các trò chơi tập thể.
Trẻ 5 tuổi đòi hỏi chất lượng thực hiện kế hoạch chơi đã được thỏa thuận:
Trẻ biết bàn luận về việc phân vai chơi xuất phát từ hứng thú của các trẻ tham

gia chơi cũng như từ sự cần thiết trong nội dung chơi. Điều này biểu hiện ở chỗ:
Trẻ thích chọn các vai chơi chính, thực hiện nhiều hành động, nhưng trẻ cũng
không thờ ơ với những vai phụ cần thiết cho hoạt động chung. Trẻ sẵn sàng
đóng những vai mà trẻ khơng thích nhưng cần thiết cho trị chơi. Sự thỏa thuận
chơi địi hỏi phải có khả năng tổ chức, hiểu biết về năng lực, ý thích, nguyện
vọng của nhau và biết nhường nhịn nhau. Cho nên theo nhiều nhà quan sát
những trẻ thường chơi với nhau biết thỏa thuận sớm hơn.
Trong nhiều trường hợp trẻ 5 tuổi khi thỏa thuận cịn biết chuẩn bị mơi
trường chơi: Lựa chọn đồ chơi, làm những cái cịn thiếu, xây dựng cơng trình
cần thiết (vườn thú, công viên, bến tàu, xe...). Tất cả những kỹ năng này của trẻ
được hình thành dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Sự phát triển của trò chơi dẫn
đến sự thay đổi đòi hỏi đối với đồ chơi. Đối với trẻ ở lứa tuổi này, đồ chơi có thể
hoàn toàn khái quát và chỉ mang một số đặc điểm rõ nét xác định ý nghĩa của nó
mà có thể hành động được. Càng lớn trẻ càng đòi hỏi sự phù hợp tương ứng của
đồ chơi với ý tưởng chơi. Trẻ mẫu giáo lớn thích chơi với những đồ chơi phức
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
17
tạp gắn với vật thật hơn. Trẻ đặc biệt thích sử dụng những đồ dùng của người
lớn (quần, áo, giầy, dép, điện thoại...) trong trị chơi của mình. So với trẻ 3 - 4
tuổi, trẻ 5 tuổi sử dụng vật thay thế linh hoạt hơn và có ý thức hơn. Trẻ chọn vật
thay thế cũng xuất phát từ ý tưởng chơi.
Về vai chơi và hành động chơi: Một trong những cơ sở để trẻ đóng vai
một người lớn nào đó là việc tách ra những dấu hiệu tiêu biểu trong hoạt động
mà người đó thực hiện. Trẻ 5 tuổi nhận ra mối quan hệ qua lại với người khác:

“Cô giáo” quan tâm đến “trẻ”, khen “trẻ” hoặc phạt “trẻ”... Đối với trẻ 5 tuổi, ý
của trò chơi nằm trong những mối quan hệ phổ biến mà vai của người đó được
trẻ đóng. Trẻ lứa tuổi này có ý thức về việc lựa chọn vai chơi. Mối quan hệ giữa
trẻ và vai chơi là mối quan hệ trực tiếp. Kết quả nghiên cứu của các nhà tâm lý
học, giáo dục học khẳng định rằng việc lựa chọn cho mình một vai chơi ở trẻ 5
tuổi dựa trên ý thức về mối quan hệ giữa trẻ với người lớn mà người đó được
trẻ đóng vai: “Cháu thích đóng vai bác sĩ vì bác sĩ quan tâm, khám bệnh cho mọi
người”, “cháu thích đóng vai là cơ giáo vì mẹ cháu cũng là cơ giáo”. Trong trò
chơi ĐVTCĐ của trẻ mẫu giáo lớn những vai chơi được vạch ra rõ ràng ngay từ
lúc thỏa thuận chơi. Trẻ gọi tên mình bằng tên vai chơi. Vai chơi xác định và
dẫn dắt hành vi của trẻ trong suốt q trình trị chơi diễn ra. Như vậy logic và
tính chất của các hành động chơi được xác định bằng vai mà trẻ nhận cho mình.
Do sự phản ánh ngày càng rộng rãi và sâu sắc hơn những mối quan hệ xã hội
vào trò chơi cho nên trong các trò chơi của trẻ mẫu giáo lớn thường có số lượng
vai đông hơn.
Hành động chơi của trẻ mẫu giáo lớn trở nên phong phú hơn và được phát
triển theo một trình tự rõ ràng, tuân theo logic của cuộc sống. Việc phá vỡ logic
các hành động của vai chơi thường không được trẻ chấp nhận. Trẻ ở lứa tuổi này
rất chú ý đến chất lượng đóng vai. Khi thực hiện các quy tắc, hành vi xã hội
được phản ánh trong các vai chơi của trẻ thường so sánh với những điều xảy ra
trong thực tế. Trong quá trình chơi, trẻ thường tranh luận cái gì giống, cái gì
khơng giống thật “bác sĩ không tiêm cho bệnh nhân mà phải khám bệnh chứ”,
“kĩ sư trưởng phải gọi điện thoại đi các nơi...”Chính vì thế ở lứa tuổi này trong
quá trình chơi thường xảy ra xung đột. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến xung đột
của trẻ mẫu giáo lớn trong hoạt động vui chơi như: Do tranh chấp đồ chơi, do
không thống nhất về nội dung và cách chơi, không thống nhất về phân vai chơi,
về các thành viên tham gia chơi, về lựa chọn chủ đề chơi... nhưng nguyên nhân
do không thống nhất về nội dung chơi và cách chơi (chơi gì? Chơi như thế nào?)
chiếm tỷ lệ nhiều hơn. Điều đó càng chứng tỏ trẻ mẫu giáo lớn rất quan tâm đến
chất lượng vai đóng, nội dung của trị chơi. Thực tiễn cho thấy thì xung đột xảy

ra do khơng thống nhất về nội dung chơi và cách chơi là loại xung đột tích cực
đối với việc phát triển nhân cách của trẻ: Mở rộng, củng cố thêm vốn hiểu biết
của trẻ; rèn cho trẻ những kỹ năng ứng xử trong xã hội: Biết bảo vệ quan điểm
của mình, biết chấp nhận hay không chấp nhận ý kiến của bạn... Không chỉ như
vậy loại xung đột này nếu giáo viên trong quá trình tổ chức hướng dẫn hoạt
động chơi cho trẻ sử dụng những biện pháp thích hợp để giải quyết thì trị chơi
sẽ được tiếp tục diễn ra hứng thú hơn, nội dung phong phú hơn. Vì thế người
giáo viên cần phải quan tâm chú ý đến loại xung đột này, biến nó thành động lực
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
18
cho sự phát triển nhân cách của trẻ cũng như phát triển nội dung duy trì hứng
thú chơi cho trẻ trong suốt quá trình chơi. So với trẻ nhỏ, hành động chơi của trẻ
mẫu giáo lớn mang tính khái quát cao hơn, trẻ sử dụng nhiều đến ngôn ngữ để
biểu hiện hành động của mình.
Trên cơ sở các nhóm chơi đã được hình thành ở lứa tuổi mẫu giáo nhỡ,
các nhóm chơi của trẻ mẫu giáo lớn ổn định hơn, bền vững hơn, số lượng trẻ
đông hơn. Dần dần ở trẻ xuất hiện các trò chơi tập thể theo một chủ đề chung.
Những trị chơi dạng này có thể kéo dài vài giờ thậm chí vài ngày. Việc phát
triển những trị chơi tập thể làm cho mối quan hệ thực và mối quan hệ trong trò
chơi đa dạng hơn và mở rộng hơn, trẻ dễ hòa nhập trong trò chơi hơn. Trẻ chủ
động tích cực hơn trong các trị chơi tập thể.
Trong khi chơi trò chơi ĐVTCĐ trẻ mẫu giáo lớn đã biết thiết lập những
mối quan hệ rộng rãi và phong phú với các bạn cùng chơi. Việc chơi trong nhóm
bạn bè là một nhu cầu cấp thiết của trẻ. Điều này có thể giải thích để thỏa mãn

nhu cầu được sống và hoạt động như người lớn trong các trò chơi ĐVTCĐ bắt
buộc trẻ phải phối hợp với nhau giữa các thành viên cùng chơi để phản ánh cuộc
sống của người lớn với các mối quan hệ đa dạng giữa con người với con người.
Mặt khác theo các nhà tâm lý học, trẻ mẫu giáo lớn nhu cầu giao tiếp với bạn bè
đang ở thời kỳ phát triển rất mạnh. Trẻ cảm thấy rất khổ sở khi khơng có bạn
chơi. Trẻ tìm đến nhau trong trị chơi thiết lập mối quan hệ thực và quan hệ chơi.
Từ đó “xã hội trẻ em” được hình thành. Đây thực sự là “xã hội trẻ em” bởi vì nó
khơng phải là một xã hội ổn định, xã hội này hợp rồi lại tan, tan rồi lại hợp rất
linh hoạt, thực và chơi, chơi và thực đan xen nhau, hòa quyện vào nhau tạo
thành nét hết sức độc đáo đặc trưng của lứa tuổi này. Chính những mối quan hệ
xã hội đầu tiên trong nhóm bạn bè có ý nghĩa quan trọng đối với việc hình thành
nhân cách của trẻ.
Trong mối quan hệ của trẻ mẫu giáo lớn trong quá trình chơi dễ dàng
nhận thấy sự phân hóa rõ rệt vị trí của các thành viên trong mỗi nhóm chơi. Mỗi
trẻ có một vị trí nhất định và thường xuất hiện một hoặc hai trẻ đóng vai trị “thủ
lĩnh”. Những trẻ này thường năng động nảy sinh nhiều sáng kiến trong quá trình
chơi cũng như có khả năng tổ chức tham gia tích cực vào việc phân vai chơi,
thỏa thuận nội dung chơi, chuẩn bị sắp xếp môi trường chơi, điều khiển chỉ đạo
quán xuyến nhóm chơi của mình. Theo các nhà nghiên cứu về trò chơi của trẻ
mẫu giáo lớn, trong chừng mực nhất định tính chất của các mối quan hệ trong
nhóm chơi phụ thuộc vào các trẻ này. Nếu “thủ lĩnh” là những đứa trẻ có uy tín
biết nhiều, biết tính đến nguyện vọng ý thích của các bạn thì nhóm chơi phát
triển tốt. Nếu “thủ lĩnh” là những đứa trẻ thích ra lệnh áp đặt thì bầu khơng khí
trong nhóm chơi sẽ không thuận lợi, dễ xảy ra xung đột. Ở trẻ mẫu giáo lớn,
“thủ lĩnh” chỉ xuất hiện trong một nhóm chơi cụ thể, trẻ chưa có khả năng làm
“thủ lĩnh” tập hợp nhiều nhóm chơi trong một buổi chơi. Mối liên kết giữa các
nhóm chơi thường diễn ra tự phát theo nội dung của trị chơi. Ví dụ: “Mẹ” (trong
nhóm chơi “gia đình”) đưa “con” đi khám bệnh (trong nhóm chơi “bác sĩ”), “bác
sĩ” đi ăn trưa (trong nhóm chơi “cửa hàng ăn”)... Việc xuất hiện “thủ lĩnh” trong
nhóm chơi cũng như sự tuân thủ những gì đã thỏa thuận của các thành viên tham

SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học
19
gia chơi chứng tỏ trẻ mẫu giáo lớn trong nhiều trường hợp có thể tự tổ chức, tự
điều khiển được trị chơi khơng cần sư tác động trực tiếp của người lớn.
Với những đặc điểm trình bày ở trên cho thấy trị chơi ĐVTCĐ ở trẻ mẫu
giáo lớn đã được hoàn thiện và trở thành một hoạt động độc lập sáng tạo, thông
qua đó các q trình tâm lý và những phẩm chất nhân cách cũng như các dạng
hoạt động khác của trẻ được hình thành và phát triển.
3.2 Phương pháp hướng dẫn trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi chơi trò chơi đóng vai
theo chủ đề.
Trẻ mẫu giáo lớn đã có kỹ năng tổ chức trò chơi. Trẻ chơi độc lập và sáng
tạo hơn. Nội dung chơi của trẻ phong phú, phản ánh cuộc sống sinh hoạt và giao
lưu của người lớn xung quanh một cách tỉ mỉ, chi tiết và giống thật hơn. Giai
đoạn đầu tuổi mẫu giáo lớn, trẻ chơi theo tập thể nhỏ trên cơ sở liên kết các
nhóm chơi bền vững đã có ở lớp mẫu giáo nhỡ. Sau đó các tập thể chơi nhỏ liên
kết lại thành tập thể chơi lớn.
Đây là giai đoạn phát triển nhất của trò chơi ĐVTCĐ. Lúc này trẻ đã biết
chơi trong tập thể, tự thảo luận bàn bạc tổ chức chơi. Trẻ biết phục tùng những
quy định của tập thể, biết sử dụng nhiều đồ chơi và đồ dùng thay thế.
Xuất phát từ những đặc điểm trên, giáo viên tổ chức hướng dẫn trò chơi
ĐVTCĐ cho trẻ phù hợp với yêu cầu lứa tuổi. Việc tổ chức trò chơi ĐVTCĐ
được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Thỏa thuận trước khi chơi. Xuất phát từ đặc điểm chơi của trẻ
giai đoạn này là trẻ đã chơi theo tập thể mà giáo viên tổ chức cho trẻ bàn bạc

dưới hình thức tập thể. Cho trẻ bàn về chủ đề chơi, nội dung chơi, phân vai chơi,
tổ chức chơi bằng cách đưa ra các câu hỏi thăm dò ý đồ của trẻ. Giáo viên gợi ý
cho trẻ thiết lập mối quan hệ giữa các vai chơi, các tập thể chơi nhỏ để phục vụ
cho chủ đề chơi chung. Sau khi bàn bạc xong, cơ tổ chức để trẻ tìm bạn chơi và
về góc chơi để thực hiện ý đồ chơi của mình.
Bước 2: Hướng dẫn quá trình chơi.
- Trẻ ở lứa tuổi này đã có khả năng tự tổ chức trị chơi (với những chủ đề
chơi trẻ đã biết) nên giáo viên không cần tham gia trực tiếp vào quá trình chơi
của trẻ. Cô bao quát theo dõi ý đồ chơi để kịp thời giúp đỡ trẻ khi cần. Ví dụ: Cơ
gợi ý cho trẻ thiết lập mối quan hệ giữa các nhóm chơi; gợi ý cho trẻ mở rộng
nội dung chơi; gợi ý cho trẻ chọn đồ chơi thay thế để thực hiện ý đồ chơi. Tùy
thuộc vào hoàn cảnh cụ thể mà cô lựa chọn cách tác động cho phù hợp, cốt là để
thỏa mãn nhu cầu chơi của trẻ trên cơ sở tôn trọng ý kiến của trẻ. Tuyệt đối cơ
khơng can thiệp thơ bạo vào trị chơi bắt trẻ chơi theo ý đồ của mình.
- Đối với chủ đề mới lạ, cơ có thể đóng vai trị hướng dẫn trẻ chơi (đóng
vai người điều khiển trị chơi) để tổ chức trò chơi. Khi trẻ chơi quen với chủ đề
mới thì cơ khuyến khích trẻ tự tổ chức điều khiển buổi chơi. Khi đó cơ chỉ đóng
vai trị cố vấn giúp đỡ trẻ khi cần thiết.
- Trẻ mẫu giáo lớn có kinh nghiệm phong phú hơn nên trẻ phản ánh cuộc
sống của người lớn vào trò chơi cũng phong phú hơn nhiều. Vì thế để thỏa mãn
nhu cầu chơi của trẻ, cô giáo cần phải chuẩn bị đầy đủ, đa dạng các loại đồ chơi
khác nhau. Đồ chơi phải thay đổi hoặc bổ sung cho phù hợp với từng chủ đề
chơi mà trẻ chọn, tránh tình trạng chủ đề chơi nào trẻ cũng sử dụng chừng ấy đồ
SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net


Báo cáo kết quả nghiên cứu khoa học

20
chơi, như thế sẽ không thể đáp ứng cho trẻ tái tạo cuộc sống của người lớn gắn
với từng mảng riêng lẻ. Ngoài những đồ chơi có sẵn, cơ giáo cần làm thêm các
đồ chơi và có thể hướng dẫn trẻ cùng làm, như thế trẻ sẽ chơi hứng thú hơn.
- Cô theo dõi quá trình chơi của trẻ, tránh tình trạng chuyên mơn hóa
trong việc trẻ nhận đóng một vai nhất định. Để phát huy vai trò giáo dục của trò
chơi ĐVTCĐ, cô giáo nên luôn đổi vai chơi cho trẻ, cứ như vậy thì trẻ mới có
điều kiện đặt mình vào vị trí của người khác, trẻ mới hình thành hành vi xã hội
của bản thân mình.
Bước 3: Nhận xét sau khi chơi.
- Cô gợi ý cho trẻ tự nhận xét dưới hình thức tập thể. Cho trẻ tự nhận xét
về mình và nhận xét bạn căn cứ vào việc thực hiện vai chơi mà trẻ nhận, vào
mối quan hệ và sự phối hợp giữa các vai chơi.
- Cô hướng dẫn trẻ nhận xét trị chơi, tránh tình trạng để trẻ chỉ trích lẫn
nhau làm mất hứng thú chơi của trẻ.
- Cô hướng dẫn trẻ cất đồ chơi đúng nơi quy định và chuyển hoạt động
một cách nhẹ nhàng, linh hoạt.
4. Một số yêu cầu đối với giáo viên khi tổ chức trị chơi đóng vai theo chủ đề
cho trẻ mẩu giáo:
Để việc tổ chức TCĐVTCĐ đạt được kết quả giáo viên cần đảm bảo một
số yêu cầu sau:
- Giáo viên phải đảm bảo tính hứng thú, tự nguyện, tích cực của trẻ khi
chơi.
- Giáo viên cần chú ý việc giúp trẻ nhận vai chơi, phân vai chơi, cách thể
hiện hành động chơi của vai và biết thiết lập những mối quan hệ tốt đẹp với bạn
bè trong khi tham gia trò chơi.
- Giáo viên cần cung cấp đồ dùng – đồ chơi phong phú, đa dạng cho trẻ,
cần chú ý tạo mơi trường chơi để trẻ có thể tích cực hoạt động và phát huy sáng
kiến trong môi trường hoạt động đó.
- Giáo viên phải quan tâm theo dõi, nắm bắt nhu cầu, khả năng chơi, ý đồ

chơi của trẻ để có biện pháp gợi ý, hướng dẫn phù hợp sao cho trò chơi của trẻ
được phát triển và trẻ được thỏa mãn nhu cầu vui chơi.

* KẾT LUẬN:

TCĐVTCĐ có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc hình thành và phát triển
tâm lý và nhân cách cho trẻ mẫu giáo. Do vậy, TCĐVTCĐ được tổ chức thường
xuyên trong hoạt động góc. Khi tham gia vào TCĐVTCĐ trẻ được sống trong
một xã hội thu nhỏ, được thỏa mãn nhu cầu muốn làm người lớn của mình, đồng
thời được hình thành và phát triển tâm lý và nhân cách một cách toàn diện. Để
nâng cao chất lượng tổ chức TCĐVTCĐ trong hoạt động góc thì giáo viên phải
nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của TCĐVTCĐ đối với trẻ mẫu giáo, phải hiểu
được đặc điểm tâm lý của trẻ 5 – 6 tuổi để từ đó thực hiện tốt khâu chuẩn bị và
tiến hành tổ chức. Làm như vậy thì việc tổ chức TCĐVTCĐ mới đạt được hiệu
quả cao.

SV: Hồ Thị Kiều Oanh

GVHD: Lê Thị Hiền
SangKienKinhNghiem.net



×