nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 2/2003
27
ThS. Lê Vơng Long *
1. Vị trí quan hệ pháp luật trong cơ
chế điều chỉnh pháp luật và trong đời sống
thực tiễn
Vai trò của quan hệ pháp luật trong cơ
chế điều chỉnh pháp luật có ý nghĩa rất quan
trọng. Do cơ chế điều chỉnh pháp luật có
nhiều yếu tố đợc hình thành ở nhiều giai
đoạn nên sự tơng tác của quan hệ pháp luật
với các yếu tố khác cũng nh vai trò của
quan hệ pháp luật ở các giai đoạn có những
đặc điểm riêng biệt.
Trớc hết, muốn điều chỉnh pháp luật,
Nhà nớc cần đa ra các quy phạm pháp luật
để mô hình hoá hành vi của chủ thể. Các quy
phạm pháp luật đó cần đợc hiện thực hoá
bằng hành vi của chủ thể thông qua quan hệ
pháp luật cụ thể. Nh vậy, trong mối quan hệ
giữa quy phạm pháp luật với hành vi thực tế
của chủ thể, quan hệ pháp luật là khâu trung
gian, là cầu nối giữa hai yếu tố đó với nhau.
Nhờ thông qua quan hệ pháp luật mà các mô
thức hành vi đợc xây dựng trong quy phạm
có điều kiện chuyển hoá thành quyền và
nghĩa vụ pháp lí thực tế của chủ thể gắn với
điều kiện, dự liệu đ nêu ở phần giả định.
Nh vậy, ở khả năng này, quy phạm pháp
luật đợc chủ thể nhận thức trực tiếp và thực
hiện thông qua quan hệ pháp luật.
Cũng có ý kiến cho rằng trong một số
trờng hợp, giữa quy phạm pháp luật với
quan hệ pháp luật cần có văn bản áp dụng
pháp luật làm khâu trung gian. Chẳng hạn,
trờng hợp Nhà nớc xác nhận sự kiện nào
đó là căn cứ để phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể thì văn
bản áp dụng pháp luật đó đóng vai trò trung
gian giữa quy phạm pháp luật với quan hệ
pháp luật. ở đây, văn bản áp dụng pháp luật
đợc ban hành không làm nhiệm vụ cá biệt
hoá quyền, nghĩa vụ đối với chủ thể mà làm
nhiệm vụ xác nhận sự kiện thực tế có ý nghĩa
pháp lí làm căn cứ phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Đơng nhiên hoạt động áp dụng pháp luật đó
lại làm xuất hiện quan hệ pháp luật cụ thể
khác. Tuy nhiên, ý kiến trên không phải hoàn
toàn đợc thống nhất khi không ít ngời cho
rằng văn bản xuất hiện giữa quy phạm pháp
luật với quan hệ pháp luật phải là văn bản cá
biệt mới mang tính chính xác và toàn diện
hơn.
(1)
Mặt khác, văn bản đó cũng có thể làm
nhiệm vụ cá biệt hoá quyền, nghĩa vụ đối với
chủ thể ngay cả khi nó không là văn bản áp
dụng pháp luật. Chẳng hạn, pháp luật quy
định về quyền thừa kế theo di chúc nhng
các bên thừa kế muốn thực hiện thừa kế thì
cần xuất trình di chúc của ngời để lại tài
sản. Vì vậy, nếu không xuất trình đợc di
chúc và không thoả thuận đợc về việc phân
* Giảng viên chính Khoa hành chính - nhà nớc
Trờng đại học luật Hà Nội
nghiên cứu - trao đổi
28 Tạp chí luật học số 2/2003
chia tài sản thì quan hệ thừa kế đó phát sinh
theo pháp luật. Việc văn bản cá biệt xuất
hiện giữa quy phạm pháp luật với quan hệ
pháp luật với tính chất trung gian cũng đúng
với cả trờng hợp chấm dứt một số loại quan
hệ pháp luật trên thực tế. Ví dụ, pháp luật
quy định về li hôn nhng quan hệ pháp luật
hôn nhân chỉ có thể chấm dứt nếu có đơn xin
li hôn của vợ hoặc chồng và bản án của toà
án có hiệu lực.
Ngoài ra, trong trờng hợp chủ thể có
vi phạm pháp luật, quan hệ pháp luật lại
tiếp tục xuất hiện thông qua hoạt động cá
biệt hoá chế tài pháp luật nhằm buộc chủ
thể gánh chịu những biện pháp trừng phạt
nhất định.
Việc xác định vị trí của quan hệ pháp
luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật sẽ
chính xác và đầy đủ hơn nếu xem xét quan
hệ pháp luật ở sự thống nhất giữa hình thức
pháp lí với nội dung thực tế. Hiểu theo nghĩa
này, vị trí của quan hệ pháp luật đợc lí giải
nh một mắt xích, một khâu giữa quy phạm
pháp luật và quan hệ x hội thực tế do quy
phạm pháp luật điều chỉnh. Vị trí của quan
hệ pháp luật bị quy định trớc hết ở nội dung
quan hệ x hội thực tế đợc quy phạm pháp
luật tơng ứng điều chỉnh. Quan hệ x hội lại
rất đa dạng, từng loại quan hệ có đặc thù
riêng vì vậy việc tạo nên vị trí của quan hệ
pháp luật lại nằm ở chiều sâu của quan hệ x
hội. Bản thân tính chất của các quan hệ x
hội xác định khả năng chi tiết hóa ở mức độ
lớn hay nhỏ trong dạng thức quan hệ pháp
luật gì. Chẳng hạn những quan hệ về tố tụng
đòi hỏi phải đợc chi tiết hoá một cách đầy
đủ hơn. Do các quan hệ thủ tục (quan hệ
hình thức) đòi hỏi phải chính xác mới bảo
đảm tính đúng đắn cho quan hệ nội dung nên
việc pháp luật quy định cụ thể và chặt chẽ là
hết sức cần thiết. Nh vậy, trong một số lĩnh
vực quan hệ pháp luật, việc điều chỉnh một
cách chi tiết, tỉ mỉ đợc quyết định bởi bản
thân tính chất của các quan hệ x hội cụ thể.
2. Vai trò của quan hệ pháp luật trong
cơ chế điều chỉnh pháp luật và trong đời
sống thực tiễn
Vai trò của quan hệ pháp luật thể hiện
qua vị trí và sự tơng tác với nhiều yếu tố
khác trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. Đợc
nhận diện là hình thức đặc thù của quá trình
thực hiện pháp luật, quan hệ pháp luật có
những vai trò cơ bản sau:
a. Quan hệ pháp luật là yếu tố hiện thực
hoá nội dung, yêu cầu của quá trình điều
chỉnh pháp luật
Điều chỉnh pháp luật là quá trình Nhà
nớc sử dụng pháp luật để tác động vào hành
vi của chủ thể theo những mục đích nhất
định. Cơ chế điều chỉnh pháp luật không thể
thiếu quan hệ pháp luật với tính cách là yếu
tố hiện thực hoá nội dung, yêu cầu của quá
trình điều chỉnh pháp luật. Việc ban hành
quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ x
hội đ làm cho quan hệ x hội mang tính
pháp lí, nghĩa là tạo ra cho các bên tham gia
quan hệ đó các quyền và nghĩa vụ pháp lí.
Nội dung của quy phạm thể hiện rõ nội
dung, yêu cầu và mục đích của quá trình
điều chỉnh. Với tính cách là hình thức đặc
thù của việc thực hiện quy phạm pháp luật,
quan hệ pháp luật có vai trò làm cho nội
dung quy phạm có tính thực tế. Thông qua
hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí
của chủ thể quan hệ pháp luật, các quy định
pháp luật đi vào đời sống hiện thực. Nh vậy,
trong đa số trờng hợp nếu không thông qua
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 2/2003
29
quan hệ pháp luật thì nội dung quy phạm
pháp luật không có điều kiện để hiện thực
hoá bằng hành vi của chủ thể. Điều này có
nghĩa là nội dung, yêu cầu đặt ra của quá
trình điều chỉnh bằng pháp luật không có
tính khả thi trong đời sống x hội. Điều
chỉnh pháp luật mới chỉ dừng lại ở mức tác
động đến ý thức chủ thể mà thôi. Nhìn chung
nội dung điều chỉnh pháp luật thể hiện ở ba
khả năng: Cho phép, bắt buộc hoặc cấm đoán
đối với chủ thể. Các mô thức hành vi đợc
xây dựng trong quy phạm thể hiện ở ba khả
năng đó không phải hoàn toàn và lúc nào
cũng đặt ra nhu cầu đợc hiện thực hoá
thông qua quan hệ pháp luật.
- Trờng hợp nội dung điều chỉnh pháp
luật mang tính bắt buộc có thể diễn ra dới
hai khả năng: Hoặc là buộc chủ thể phải xác
lập hành vi mới hoặc buộc hành vi đ thiết
lập trong quan hệ pháp luật phải đảm bảo
những yêu cầu nhất định. Đối với khả năng
thứ nhất, chủ thể không đợc từ chối mà phải
chủ động thực hiện bảo đảm tính hợp pháp
cả về nội dung, hình thức vì đó là nghĩa vụ
pháp lí. Việc thi hành pháp luật của chủ thể
sẽ làm nảy sinh quan hệ pháp luật trên thực
tế. Đối với khả năng thứ hai thì vai trò của
quan hệ pháp luật đ đợc nhận diện, nghĩa
là nội dung điều chỉnh pháp luật đ đợc
hiện thực hoá thông qua quan hệ pháp luật.
Nh vậy đối với hai khả năng trên, quan hệ
pháp luật có vai trò khác nhau một cách căn
bản trong việc hiện thực hoá nội dung, yêu
cầu điều chỉnh pháp luật.
- Trờng hợp nội dung điều chỉnh pháp
luật cho phép: ở dạng này pháp luật không
đặt ra yêu cầu bắt buộc, do đó chủ thể có thể
thực hiện nội dung pháp luật cho phép hoặc
không thực hiện. Nếu chủ thể từ chối quyền
của mình thì quan hệ pháp luật cụ thể không
xuất hiện. Nhng nếu chủ thể thực hiện
quyền đợc pháp luật cho phép thì thờng
phải thông qua quan hệ pháp luật. Nhìn
chung việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của
chủ thể ở đây có thể xảy ra hai khả năng là
bảo đảm tính hợp pháp hành vi hoặc là vi
phạm pháp luật. Trờng hợp vi phạm pháp
luật thì quan hệ pháp luật lại phát sinh với
vai trò cụ thể hoá chế tài pháp luật nhằm áp
dụng biện pháp cỡng chế nhất định đối với
chủ thể vi phạm.
- Trờng hợp nội dung điều chỉnh pháp
luật mang tính cấm đoán: Điều chỉnh pháp
luật ngoài khả năng cho phép, bắt buộc còn
có dạng cấm đoán đối với chủ thể trong
những điều kiện cụ thể. Chẳng hạn Cha mẹ
không đợc phân biệt đối xử giữa các con,
ngợc đi, hành hạ, xúc phạm con; không
đợc lạm dụng sức lao động của con cha
thành niên; không đợc xúi giục, ép buộc
con làm những việc trái pháp luật, trái đạo
đức x hội (Điều 34 Luật hôn nhân và gia
đình). Việc xây dựng quy phạm pháp luật
không cho phép chủ thể tiến hành những
hành vi nhất định để đảm bảo sự an toàn các
quan hệ x hội là cần thiết. Tuy nhiên, ở đây
có hai ý kiến trái ngợc nhau: ý kiến thứ
nhất cho rằng trờng hợp điều chỉnh này
không đòi hỏi chủ thể thực hiện bằng hành vi
nên không hình thành quan hệ pháp luật. Nội
dung quy định pháp luật trở thành yêu cầu
đối với chủ thể khi thực hiện quyền, nghĩa vụ
trong quan hệ pháp luật khác. ý kiến thứ hai
lại khẳng định: Việc chủ thể không vi phạm
các nội dung cấm đoán đó cũng là thực hiện
pháp luật. Việc thực hiện này bằng hình thức
nghiên cứu - trao đổi
30 Tạp chí luật học số 2/2003
không hành động hợp pháp.
(2)
Trờng hợp có
vi phạm pháp luật thì quan hệ pháp luật mới
đợc xuất hiện trong quá trình các cơ quan
nhà nớc có thẩm quyền giải quyết vi phạm
đó. Thông qua quá trình xử lí vi phạm, quan
hệ pháp luật đ gián tiếp hình thành chức
năng, vai trò là đăng tải loại mô thức hành vi
mà pháp luật cấm đoán đến với các chủ thể.
Điều này đ đem lại sự hiểu biết pháp luật
nhất định từ thực tế cho mọi chủ thể. Chính
vì vậy, hoạt động xét xử lu động của toà án
ngoài mục đích giải quyết vụ việc cụ thể còn
là hoạt động giáo dục pháp luật có tính thực
tế và hiệu quả.
Bên cạnh việc hiện thực hoá nội dung
quy phạm pháp luật bằng cách chuyển hoá
mô thức hành vi chung thành mô thức cụ thể,
quan hệ pháp luật còn chuyển hoá các yêu
cầu đặt ra đối với chủ thể nhằm bảo đảm tính
hợp pháp của hành vi và sự phù hợp giữa
hành vi pháp luật với hành vi x hội khác.
b. Quan hệ pháp luật có vai trò định
hớng, hỗ trợ việc xác lập trật tự và bảo đảm
cho sự vận động và phát triển của các quan
hệ x hội
Cơ chế điều chỉnh pháp luật không tồn
tại ngoài cơ chế điều chỉnh x hội. Trong quá
trình tác động tới các quan hệ x hội, các yếu
tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật cần tìm ra
sự tơng hợp với các phơng tiện điều chỉnh
khác nhằm nâng cao vai trò định hớng các
hoạt động x hội.
Thông qua sự tồn tại, vận động của quan
hệ pháp luật, các quan hệ x hội khác cũng
có thể đợc bảo vệ khỏi bị xâm hại và phát
huy đợc giá trị x hội đích thực của mình.
Vì vậy, ghi nhận các nguyên tắc pháp lí cơ
bản nhằm định hớng cho việc thiết lập các
quan hệ pháp luật có vai trò tích cực là sự đòi
hỏi quan trọng không chỉ bảo vệ chính hệ
thống quan hệ pháp luật mà còn bảo vệ cả hệ
thống quan hệ x hội nói chung. Chẳng hạn:
Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân
sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn
trọng và phát huy phong tục, tập quán,
truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết,
tơng thân tơng ái, mỗi ngời vì cộng đồng,
cộng đồng vì mỗi ngời và các giá trị đạo
đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống
trên đất Việt Nam (Điều 4 Luật hôn nhân
và gia đình). Nhà nớc cũng có thể đa ra
những cấm đoán đối với những hoạt động có
khả năng trực tiếp làm nguy hại hệ thống
quan hệ x hội truyền thống. Ví dụ: Cấm
kinh doanh các ngành, nghề gây phơng hại
đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn x
hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức,
thuần phong mĩ tục Việt Nam và sức khoẻ
nhân dân (Điều 6 Luật doanh nghiệp).
Trong đời sống thực tiễn, các mô thức
hành vi hợp pháp, tích cực có khả năng phổ
biến hơn nếu đợc x hội ghi nhận một cách
tích cực về hiệu quả thực hiện quyền, nghĩa
vụ từ quan hệ pháp luật cụ thể. Ngợc lại,
các mô thức hành vi bất hợp pháp có khả
năng bị thu hẹp khi có nhiều ngời xa lánh,
phản đối. Điều này đòi hỏi nội dung của điều
chỉnh pháp luật không thể thiếu nội dung
giáo dục nhận thức về các mô thức hành vi
pháp luật (bao gồm cả hành vi hợp pháp và
bất hợp pháp) trong thực tiễn. Chẳng hạn,
việc xét xử lu động của toà án không chỉ
nói lên tính nghiêm minh của pháp luật, tính
quyền lực của Nhà nớc mà còn hàm chứa ý
nghĩa này. Mặt khác, trong các yếu tố kích
thích sự hình thành và đảm bảo thực hiện các
quan hệ pháp luật thì việc xây dựng những
quy phạm chuẩn mực, có kĩ thuật cao, phù
nghiên cứu - trao đổi
Tạp chí luật học số 2/2003
31
hợp với nhu cầu khách quan là rất quan
trọng. Điều căn bản là tạo ra đợc sự tơng
thích về các chuẩn mực x hội - pháp luật để
tạo ra sự tơng hợp về nội dung giữa quan hệ
x hội và quan hệ pháp luật trong quá trình
điều chỉnh. Sự hài hoà giữa mô thức hành vi
pháp luật và mô thức hành vi x hội chỉ có
thể đạt đợc khi có sự gắn bó tơng hỗ giữa
quy phạm pháp luật và các quy phạm x hội
khác. Chỉ có nh vậy mới có thể nói tới vai
trò tích cực của pháp luật, quan hệ pháp luật
trong việc thúc đẩy quá trình phát triển của
hệ thống quan hệ x hội. Nhìn chung, ở đây
chúng ta đang xem xét quan hệ pháp luật
trong động thái tích cực, nghĩa là những
quan hệ pháp luật hình thành, vận động một
cách hợp pháp và có giá trị hữu ích. Thực tế
cũng có những quan hệ pháp luật đợc hình
thành nhng do vi phạm quy định pháp luật
về thủ tục, hình thức nên vai trò của nó chỉ
đợc thừa nhận từ góc độ x hội, còn góc độ
pháp lí lại đợc thừa nhận muộn hơn hoặc bị
đánh giá ngợc lại. Chẳng hạn, việc toà án
thừa nhận quan hệ hôn nhân thực tế hoặc
truy nhận cha cho con ngoài giá thú.
Tóm lại, cơ chế điều chỉnh pháp luật bao
gồm cả cơ chế xây dựng pháp luật, cơ chế
thực hiện, áp dụng pháp luật và cơ chế bảo
vệ pháp luật. Việc hình thành các quan hệ
pháp luật trong mỗi loại hình cơ chế đó có
nhiệm vụ cụ thể và vai trò khác nhau nhất
định. Để phát triển quan hệ pháp luật, về mặt
lí luận và thực tế không chỉ xem xét vai trò
tích cực, giá trị hữu ích mà cần thiết phải
xem xét cả mặt phản tác dụng của nó đối với
các nhân tố khác để có đợc các biện pháp
xử lí phù hợp.
Để kích thích, hỗ trợ và bảo vệ sự phát
triển của các quan hệ x hội, ngoài vị trí là
mắt xích trong cơ chế điều chỉnh pháp luật,
quan hệ pháp luật còn đợc nhận diện nh là
phơng tiện của việc điều chỉnh pháp luật,
phơng tiện tác động đến các quan hệ x hội
có tính cách độc lập. Nh vậy ở đây, quan hệ
pháp luật đợc xem xét tách rời khỏi nội
dung thực tế, nó chỉ đợc coi nh tổng thể
các quyền và nghĩa vụ gắn với tình huống đ
quy định. Chúng ta có thể thấy sự khác biệt
nhất định giữa "hoạt động" của quy phạm
pháp luật với tính cách là quy định chung với
việc thực hiện nó trong các quan hệ cụ thể.
Xét từ góc độ cụ thể, vai trò của quan hệ
pháp luật phụ thuộc vị trí của nó trong từng
giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật
cũng nh loại quan hệ pháp luật thực tế đó.
Mặc dù nằm trong cơ chế điều chỉnh pháp
luật nhng cũng có thể tách biệt quan hệ
pháp luật với các yếu tố khác để nhận diện
đợc vai trò của nó đợc sâu sắc và đầy đủ
hơn. Xem xét vai trò quan hệ pháp luật từ
thực tế phải gắn liền từng quan hệ thực tế có
chủ thể, quyền, nghĩa vụ cụ thể. Chẳng hạn,
quan hệ pháp luật phát sinh từ việc đăng kí
tạm trú, tạm vắng của phờng A có ý nghĩa
gì trong việc quản lí hành chính, hộ tịch ở
địa phơng đó.
Cũng có khi quan hệ pháp luật trong thực
tế là sự kiện pháp lí có liên quan đang đợc
các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, vì vậy
quan hệ này có thể phủ định quan hệ kia.
Việc nhận diện vai trò cụ thể của quan hệ
pháp luật trong trờng hợp này có phần phức
tạp hơn. Chẳng hạn, trong trờng hợp bản án
giám đốc thẩm huỷ án đ phát sinh hiệu lực
(có thể là án sơ thẩm hoặc phúc thẩm) để xét
xử lại theo thủ tục sơ thẩm ban đầu thì một
số quan hệ pháp luật phát sinh trong giai
đoạn điều tra, truy tố và xét xử trớc đó bị
nghiên cứu - trao đổi
32 Tạp chí luật học số 2/2003
huỷ bỏ. Cũng có khi quan hệ pháp luật trớc
trở thành điều kiện, sự kiện pháp lí cho việc
hình thành quan hệ pháp luật sau, do đó vai
trò của mỗi loại quan hệ pháp luật cụ thể ở
đây hoàn toàn khác nhau.
c. Quan hệ pháp luật là cơ sở thực tế để
nhận thức giá trị x hội và kiểm nghiệm tính
đúng đắn của pháp luật
Có thể nói, giá trị của pháp luật thể hiện
trớc hết và cơ bản nhất khi nó trở thành
công cụ điều chỉnh, trật tự hoá các quan hệ
x hội. Vì thế giá trị lớn nhất của pháp luật
chính là giá trị điều chỉnh và bảo vệ các quan
hệ x hội. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ
x hội, điều chỉnh hành vi của các chủ thể
theo định hớng, mục tiêu nhất định trên cơ
sở tác động tới ý thức của chủ thể. Để hình
thành giá trị đó, ngoài những thuộc tính vốn
có của pháp luật thì những quy tắc khách
quan của cách xử sự hợp lí và các yêu cầu
điều chỉnh bằng pháp luật phải đợc hiện
thực hoá thông qua hành vi của chủ thể trong
các quan hệ pháp luật cụ thể. Nh vậy, quan
hệ pháp luật là cơ sở để nhận thức giá trị x
hội của pháp luật. Đời sống pháp lí là nơi mà
pháp luật phát huy giá trị đích thực của mình
thông qua hệ thống quan hệ pháp luật cụ thể.
Tính đúng đắn của pháp luật đợc thể
hiện trớc hết ở việc xác định chính xác đối
tợng điều chỉnh và sự phù hợp về mức độ
điều chỉnh, tác động. Nhng cơ bản và quyết
định vẫn phải xem xét hiệu quả pháp luật
trên thực tế. Việc xem xét hiệu quả pháp luật
trên thực tế chỉ có thể thực hiện đợc khi gắn
với hành vi pháp lí, với quan hệ pháp luật cụ
thể. Trớc mỗi loại quan hệ pháp luật cụ thể,
tuỳ thuộc mức độ nhận thức và góc độ quan
sát, thông thờng có hai khả năng đem lại:
Một là, chủ thể sẽ xem xét nội dung quan hệ
pháp luật đó nhằm giải đáp cho những vớng
mắc của mình, loại bỏ những cơ sở hành vi
có thể dẫn đến trái pháp luật hoặc tìm kiếm
các khả năng tơng tự để thiết lập, tham gia
quan hệ pháp luật. Đây là cách nhận thức,
hiểu biết pháp luật phù hợp với nhiều đối
tợng và càng cần thiết hơn khi cho rằng
pháp luật ít đi vào đời sống thực tế và ít phát
huy giá trị trên thực tế. Tuy nhiên cách nhận
thức này mang tính cục bộ, thụ động và
thờng phiến diện. Hai là, khả năng chủ thể
nhận thức cao hơn, toàn diện hơn bằng việc
đối chiếu nội dung quan hệ pháp luật cụ thể
với nội dung các quy định của pháp luật có
liên quan. Khả năng này đem lại sự kiểm
nghiệm về tính đúng đắn, mức độ hiện thực
của pháp luật và sự phù hợp giữa pháp luật
với điều kiện thực tế. Mặc dù trong xây dựng
pháp luật, ngời ta đ cố gắng khái quát nhu
cầu thực tế để đa ra những mô thức hành vi
pháp luật thích hợp nhng không phải là
không có những lỗ hổng, mâu thuẫn và bất
cập. Do đó, việc xem xét thực trạng quan hệ
pháp luật là một biện pháp góp phần kiểm tra
giá trị thực tế của pháp luật. Nh vậy, quan
hệ pháp luật trở thành thớc đo, cơ sở đánh
giá chất lợng của hoạt động xây dựng pháp
luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật. Đây là vai trò, chức năng của quan
hệ pháp luật cần phải đợc coi trọng về mặt
thực tiễn. Đồng thời trong khoa học, việc
nghiên cứu các mối quan hệ bên ngoài của
hệ thống pháp luật đòi hỏi phải xem xét mối
quan hệ, sự tơng tác hữu cơ với quan hệ
pháp luật./.
(1). ở đây quan niệm văn bản cá biệt rộng hơn văn
bản áp dụng pháp luật (văn bản áp dụng pháp luật chỉ
là của một loại văn bản cá biệt).
(2). Đây là vấn đề phức tạp trong nhận thức luận, do
khuôn khổ bài viết có hạn, tác giả xin trao đổi ở phần sau.