HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH
VIỆN XÂY DỰNG ĐẢNG
TIỂU LUẬN
(Điều kiện)
MÔN: KHOA HỌC TỔ CHỨC TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG
ĐỀ TÀI:
KHÁI LUẬN VỀ TỔ CHỨC VÀ KHOA HỌC TỔ CHỨC, VẬN DỤNG
VÀO VIỆC KIỆN TOÀN TỔ CHỨC CÁN BỘ CỦA HỆ THỐNG
CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA
Họ và tên học viên: Lê …………………
Mã số học viên: MP22 ………………
Lớp: Cao học XDĐ&CQNN, hệ …………………….
ST – 202…
i
MỤC LỤC
*
MỞ ĐẦU........................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.................................................................................1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu..........................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.......................................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..........................................2
6. Kết cấu tiểu luận..................................................................................2
NỘI DUNG.....................................................................................................3
CHƯƠNG 1. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ KHOA HỌC TỔ
CHỨC.............................................................................................................3
1.1. Khái luận chung về tổ chức..............................................................3
1.2. Khoa học tổ chức..............................................................................13
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG KHOA HỌC TỔ CHỨC TRONG VIỆC KIỆN
TOÀN TỔ CHỨC CÁN BỘ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC
TA....................................................................................................................17
2.1. Một số vấn đề đặt ra trong vận dụng khoa học tổ chức vào kiện tồn
hệ thống chính trị ở nước ta.....................................................................17
2.2. Quan điểm của Đảng về vận dụng khoa học tổ chức trong kiện tồn
tổ chức cán bộ của hệ thống chính trị ở nước ta......................................21
KẾT LUẬN....................................................................................................30
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................32
1
MỞ ĐẦU
*
1. Lý do chọn đề tài
Từ khi xuất hiện con người đã sống quần cư, có sự bố trí sắp xếp trong nội
bộ nhằm hướng đến mục tiêu chung với hiệu quả cao nhất. Đó chính là hình
thức sơ khai của tổ chức. Trải qua nhiều chế độ với nhiều hình thái kinh tế - xã
hội khác nhau, con người đã thiết lập nên nhiều tổ chức với các mức độ và trình
độ khác nhau, mà cao nhất là các kiểu nhà nước. Tuy nhiên chưa có một lý
thuyết hay học thuyết nào nghiên cứu và khái quát thành khoa học của các hình
thức tổ chức đó để gọi tên thành một môn hoa học là khoa học tổ chức. Phải đến
đầu thế kỷ XX, khi F.Taylor công bố tác phẩm “Những nguyên lý quản lý khoa
học” thì khoa học tổ chức mới thực sự được hình thành với tư cách là một ngành
khoa học độc lập.
Kể từ đó, khoa học tổ chức đã có những đóng góp tích cực, đem lại nhiều
thành tựu phục vụ đời sống của nhân loại. Con người từ khi xuất hiện đến nay
“không ngừng nghiên cứu để hồn thiện tổ chức của mình và dần dần xây dựng
thành lý luận về tổ chức và hình thành khoa học tổ chức hay tổ chức học”.
Ở Việt Nam, khoa học tổ chức với tư cách là một ngành khoa học độc lập
và được đưa vào nghiên cứu giảng dạy ở các trường đại học còn khá mới mẻ.
Kiến thức về khoa học tổ chức không chỉ cần thiết đối với đội ngũ cán bộ chủ
chốt làm cơng tác quản lý lãnh đạo mà cịn là kiến thức chun mơn có tính chất
nghiệp vụ, chun ngành đối với những cán bộ làm công tác tổ chức. Một trong
những nhiệm vụ trọng tâm để thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 khóa VIII của
Đảng về chiến lược cán bộ là: tập trung đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao phẩm
chất chính trị, trình độ kiến thức và năng lực tổ chức cho đội ngũ cán bộ làm
công tác tổ chức; đào tạo cán bộ dự bị để xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế
cận các cấp của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân. Việc đào tạo nguồn
nhân lực trong lĩnh vực khoa học tổ chức, đáp ứng yêu cầu của xã hội là rất quan
trọng.
2
Xuất phát từ vai trò quan trọng như trên cùng với nhiệm vụ học tập môn
Khoa học tổ chức trong xây dựng Đảng, người viết lựa chọn đề tài “Khái luận
về tổ chức và khoa học tổ chức, vận dụng vào việc kiện toàn tổ chức cán bộ
của hệ thống chính trị nước ta” để làm bài tiểu luận điều kiện.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Đề tài làm rõ những lý thuyết và vận dụng cơ bản về tổ chức và khoa học
tổ chức trong việc kiện toàn hệ thống chính trị nước ta.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là lý thuyết và thực về tổ chức và khoa
học tổ chức trong hệ thống chính trị nước ta.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là những cơ sở lý luận về bộ môn khoa học
tổ chức, liên hệ khoa học tổ chức trong kiện toan tổ chức cán bộ ở nước ta.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài dưa trên cơ sở lý luận là phương pháp luận duy vật biện chứng của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, chủ trương,
chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về tổ chức và khoa học tổ chức.
Bên cạnh đó đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như phân
tích, thống kê, tổng hợp….
5. Ý nghĩa của đề tài
Việc nghiên cứu đề tài giúp người học nắm rõ hơn các vấn đề lý thuyết
cũng như lý luận của Đảng ta về khoa học tổ chức, có thể hiểu rõ quan điểm,
chủ trương, đường lối của đang trong việc tổ chức của hệ thống chính trị, tổ
chức trong xây dựng Đảng. Từ đó có thể vận dụng kiến thức đã học vào thực
tiễn của đơn vị công tác.
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận được kết cấu thành 2 chương.
3
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI LUẬN CHUNG VỀ TỔ CHỨC VÀ KHOA HỌC
TỔ CHỨC
1.1. Khái luận chung về tổ chức
1.1.1. Quan niệm về tổ chức
Thuật ngữ “Tổ chức” được nhiều ngành khoa học, qua nhiều giai đoạn sử
dụng với ý nghĩa không giống nhau:
- Khái niệm tổ chức theo tiếng Hy Lạp cổ là organon nghĩa là công cụ,
phương tiện. Như vậy, theo nghĩa gốc tổ chức là công cụ, phương tiện để đạt tới
mục tiêu. Theo góc độ này, khái niệm tổ chức đồng nghĩa với khái niệm tổ chức
theo nghĩa danh từ trong tiếng Việt.
- Triết học định nghĩa “Tổ chức, nói rộng là cơ cấu tồn tại của sự vật. Sự
vật khơng thể tồn tại mà khơng có một hình thức liên kết nhất định các yếu tố
thuộc nội dung. Tổ chức vì vậy là thuộc tính của bản thân các sự vật”. Theo đó,
tổ chức là thuộc tính của sự vật, nói cách khác sự vật ln tồn tại dưới dạng tổ
chức nhất định.
- Y học cho rằng trong sinh vật đơn bào, các tế bào đơn lẻ thực hiện tất cả
các chức năng sống, nó hoạt động một cách độc lập. Tuy nhiên, sinh vật đa bào
(nhiều bào) có mức độ khác nhau của tổ chức cơ thể của chúng. Các tế bào cá
nhân có thể thực hiện chức năng cụ thể và cũng làm việc cùng nhau vì lợi ích
của tồn bộ cơ thể. Các tế bào trở nên phụ thuộc vào nhau. Từ quan niệm của y
học cho thấy tổ chức chỉ có ở sinh vật đa bào, các tế bào phụ thuộc vào nhau vì
lợi ích của tồn bộ.
- Nhân loại học khẳng định từ khi xuất hiện loài người, tổ chức xã hội loài
người cũng đồng thời xuất hiện. Tổ chức ấy khơng ngừng hồn thiện và phát
triển cùng với sự phát triển của nhân loại. Theo nghĩa hẹp đó, tổ chức là một tập
thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm
đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó. Như vậy, tổ chức là tập thể, có mục
tiêu, nhiệm vụ chung.
4
Ngay trong những chuyên ngành khoa học có giao thoa về đối tượng, phạm
vi nghiên cứu cũng có những cách tiếp cận, cắt nghĩa khác nhau về “Tổ chức”,
cụ thể là:
- Theo Chester I. Barnard, thì tổ chức là một hệ thống những hoạt động hay
nỗ lực của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý thức. Như
vậy theo lý thuyết quản trị công, để hình thành tổ chức phải có từ hai người trở
lên (điều kiện về chủ thể) và các hoạt động của họ được kết hợp với nhau một
cách có ý thức. Quản trị công nhấn mạnh đến hai yếu tố là chủ thể và nguyên tắc
hoạt động của tổ chức (sự kết hợp có ý thức của các chủ thể) khi nhận thức về
khái niệm tổ chức.
- Trong tác phẩm “Những nguyên lý của công tác tổ chức” xuất bản năm
1922, tác giả P.M. Kécgientxép cho rằng: “Tổ chức nghĩa là liên hiệp nhiều
người để thực hiện một công tác nhất định. Chúng ta cũng có thể gọi bản thân
hình thức liên hiệp đó là một tổ chức”.
- Theo Chesley Irving Barnard, nhà khoa học về quản lý và là nhà doanh
nghiệp người Mỹ đưa ra quan điểm: Tổ chức là một hệ thống những hoạt động
hay nỗ lực của hai hay nhiều người được kết hợp với nhau một cách có ý thức
nhằm hồn thành mục tiêu chung.
- Nhà nghiên cứu về tổ chức người Nhật Bản, ông Mitơkazu lại cho rằng:
“Nói tới tổ chức là nói tới một hệ thống hợp lý tập hợp từ hai người trở lên để
phát huy đến mức cao nhất năng lực tương hỗ nhằm đạt được mục tiêu và mục
tiêu chung”.
- Theo Gunter Buschges, nhà nghiên cứu về xã hội học người Đức trong tác
phẩm Nhập mơn xã hội học tổ chức, thì: “Tổ chức là dấu hiệu đặc trưng và yếu
tố cấu thành một xã hội công nghiệp và dịch vụ hiện đại”.
- Theo Luật học (khoa học luật dân sự) gọi tổ chức là pháp nhân để phân
biệt với thể nhân (con người) là các chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Theo
quy định tại Điều 84 Bộ luật Dân sự thì một tổ chức được cơng nhận là pháp
nhân khi có đủ các điều kiện sau: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm
5
bằng tài sản đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc
lập. Luật học nhấn mạnh đến các điều kiện thành lập tổ chức và các yêu cầu đảm
bảo hoạt động của tổ chức;
- Khoa học tổ chức và quản lý định nghĩa tổ chức với ý nghĩa hẹp là “tập
thể của con người tập hợp nhau lại để thực hiện một nhiệm vụ chung hoặc nhằm
đạt tới một mục tiêu xác định của tập thể đó” 3. Quan niệm về tổ chức theo Khoa
học tổ chức và quản lý có nhiều điểm tương đồng với Luật học, Quản trị công ở
chỗ đều xác định tổ chức thuộc về con người, là của con người trong xã hội; vì
là tổ chức của con người, có các hoạt động chung do vậy mục tiêu của tổ chức là
một trong những điều kiện quan trọng, không thể thiếu của tổ chức;
- Trong cuốn “Sổ tay nghiệp vụ cán bộ làm công tác tổ chức nhà nước”
định nghĩa: “Tổ chức là một đơn vị xã hội, được điều phối một cách có ý thức,
có phạm vi tương đối rõ ràng, hoạt động nhằm đạt được một hoặc nhiều mục
tiêu chung (của tổ chức). Quan niệm của những người làm cơng tác tổ chức nhà
nước có nhiều điểm tương đồng với khoa học quản lý, luật học trong đó nhấn
mạnh tới mục tiêu chung, nguyên tắc hoạt động của tổ chức (điều phối một cách
có ý thức). Điểm mới quan trọng của quan niệm này về tổ chức thể hiện ở ý nói
về phạm vi của tổ chức, mỗi tổ chức có phạm vi hoạt động khác nhau phụ thuộc
vào các yếu tố chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu, nguồn lực của tổ chức
đó. Các yếu tố này là những điều kiện của tổ chức.
- Trên phương diện ngơn ngữ: Tuỳ theo ngữ cảnh, tính chất, u cầu, mục
đích… có thể sử dụng các thuật ngữ: cơ quan, đơn vị, pháp nhân, công ty, hội…
thay thế thuật ngữ tổ chức. Sự đa dạng trên phương diện ngôn ngữ còn thể hiện
ở việc thuật ngữ tổ chức được dùng với các chức năng khác nhau như: là danh
từ, là động từ, là tính từ (tiếng Anh Organization là danh từ, khác với Organize
là động từ, khác với Constitutive là tính từ).
Như vậy, các quan niệm đều thống nhất tổ chức là một tập hợp của ít nhất
hai cá nhân trở lên và đều hướng đến mục tiêu chung. Tổ chức được coi là một
thực thể xã hội đặc biệt và đây chính là nét đặc trưng cơ bản để phân biệt với các
tổ chức tự nhiên. Yếu tố liên kết, gắn bó các cá nhân lại với nhau chính là mục
6
tiêu chung; khi tham gia vào tổ chức các cá nhân có thể theo đuổi những mục
tiêu khác nhau nhưng họ có điểm chung là cùng hướng đến mục tiêu chung.
Nếu nhất thiết phải đưa ra một định nghĩa về tổ chức thì đó là tập hợp của
con người trong xã hội có phạm vi, chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, cơ cấu
xác định; được hình thành và hoạt động theo những nguyên tắc nhất định phù
hợp với quy định pháp luật nhằm gắn kết con người với nhau bởi những mục
đích xác định và hành động để đạt đến mục tiêu chung.
1.1.2. Phân loại tổ chức
1.1.2.1. Phân loại theo mục tiêu hoạt động
Mục tiêu hoạt động của tổ chức là những điều cần đạt đến thơng qua q
trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức (tức là thông qua hoạt động của
tổ chức). Lý thuyết về tổ chức cho thấy có nhiều cách khác nhau trong xác định
mục tiêu hoạt động của tổ chức và mục tiêu hoạt động của tổ chức không phải là
bất biến (tức là có thể điều chỉnh, bổ sung). Mục tiêu hoạt động là một trong số
những căn cứ để phân loại tổ chức, cụ thể là:
- Căn cứ vào mục tiêu lợi nhuận có thể phân loại tổ chức thành hai nhóm là
các tổ chức hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận (cơng ty, tổng cơng ty, tập đồn
kinh tế…) và các tổ chức hoạt động khơng vì mục tiêu lợi nhuận (cơ quan nhà
nước, tổ chức hành chính, các hội, tổ chức phi chính phủ…);
- Căn cứ vào mục tiêu ngắn hạn, trung hạn, dài hạn của thời gian thực hiện
nhiệm vụ có thể phân loại tổ chức thành các nhóm như:
+ Tổ chức được lập ra để thực hiện mục tiêu ngắn hạn (ban bầu cử, ban
kiểm phiếu; tổ hoặc ban thư thư ký kỳ họp, đại hội…);
+ Tổ chức được lập ra để thực hiện mục tiêu trung hạn (các tiểu ban chuẩn
bị văn kiện Đại hội của Đảng; các ban soạn thảo, tổ biên tập xây dựng mới, sửa
đổi, bổ sung văn bản quy phạm pháp luật, đề án của trung ương…);
+ Tổ chức được lập ra để thực hiện mục tiêu dài hạn (các tổ chức nghiên
cứu chiến lược, nghiên cứu cơ bản).
- Theo mục tiêu hoạt động cịn có thể phân loại tổ chức thành các nhóm
như:
7
+ Các tổ chức được thành lập với mục tiêu giúp người đứng đầu cơ quan
hành chính nhà nước thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước.
+ Các tổ chức được thành lập với mục tiêu cung cấp dịch vụ công, phục vụ
quản lý nhà nước.
1.1.2.2. Phân loại theo ngành, lĩnh vực hoạt động
Phân loại tổ chức theo ngành, lĩnh vực hoạt động là cách phân loại dựa trên
hoạt động chuyên môn của các tổ chức. Theo cách phân loại này ta có các tổ
chức thuộc các ngành, lĩnh vực khác nhau như: quốc phòng; an ninh; ngoại giao;
công thương; xây dựng; y tế; giáo dục; lao động, thương binh, xã hội; khoa học,
công nghệ… Phân loại tổ chức theo ngành có ưu điểm là giúp ta thấy được cơ
cấu ngành, lĩnh vực trong tổ chức bộ máy nhà nước (đơn ngành; đa ngành, đa
lĩnh vực).
1.1.2.3. Phân loại theo quy mô của tổ chức
Quy mô thực chất là mức độ rộng lớn của tổ chức. Với ý nghĩa như vậy độ
rộng lớn của tổ chức được xem xét trên hai phương diện chính là phạm vi hoạt
động của tổ chức và thẩm quyền của tổ chức. Căn cứ vào quy mơ của tổ chức có
thể phân loại tổ chức thành các nhóm như:
- Các tổ chức có phạm vi hoạt động rộng (toàn quốc; trong nước, quốc tế),
các tổ chức có phạm vi hoạt động hẹp (trong phạm vi tỉnh, huyện, xã…);
- Các tổ chức có thẩm quyền chung (Chính phủ, Ủy ban nhân dân các cấp;
các cơ quan này theo quy định của Hiến pháp có thẩm quyền giải quyết những
vấn đề thuộc các lĩnh vực khác nhau, các đối tượng khác nhau);
- Các tổ chức có thẩm quyền chun mơn, hoạt động khơng vượt ngồi giới
hạn phạm vi thẩm quyền chuyên môn đã được pháp luật quy định.
1.1.2.4. Phân loại tổ chức theo các tiêu chí khác
Ngồi các tiêu chí phân loại tổ chức như đã nêu ở trên, cịn có những phân
loại tổ chức theo các tiêu chí khác như:
- Căn cứ theo nguyên tắc tổ chức và giải quyết cơng việc có thể phân tổ
chức thành hai loại:
8
+ Tổ chức hoạt động theo chế độ tập thể lãnh đạo (ví dụ: các tổ chức chấp
hành - hành chính ở các đại phương);
+ Tổ chức hoạt động theo chế độ thủ trưởng (ví dụ: các tổ chức thực hiện
nhiệm vụ điều tra thuộc các bộ, tổng cục);
+ Tổ chức hoạt động theo chế độ chuyên viên kết hợp với chế độ thủ
trưởng (ví dụ: các vụ của các bộ).
- Căn cứ vào quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ
chức bộ máy, biên chế và tài chính có thể phân loại tổ chức cụ thể như sau: tổ
chức tự bảo đảm chi phí hoạt động; tổ chức tự bảo đảm một phần chi phí hoạt
động; tổ chức do ngân sách nhà nước bảo đảm tồn bộ chi phí hoạt động5.
1.1.3. Các đặc trưng cơ bản của tổ chức
1.1.3.1. Mục tiêu của tổ chức
- Như đã nêu ở trên, mục tiêu của tổ chức là những điều tổ chức cần đạt
đến thông qua hoạt động của tổ chức (quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn
của tổ chức). Liên quan đến quan niệm, nhận thức về mục tiêu của tổ chức có
một số vấn đề cần chú ý là:
+ Đã có khơng ít những tranh luận trên diễn đàn trong nước và quốc tế của
các nhà nghiên cứu, quản lý, điều hành các tổ chức (chủ yếu là các doanh
nghiệp) về vấn đề xác định mục tiêu của tổ chức. Đa số cho rằng mục tiêu của tổ
chức là điều tổ chức cần đạt đến, nhưng cũng có khơng ít các ý kiến cho rằng
mục tiêu của tổ chức là điều tổ chức mong muốn đạt đến, thậm chí một số rất ít
các ý kiến cho rằng mục tiêu của tổ chức là điều tổ chức hy vọng đạt đến trong
tương lai.
+ Không phải bất kỳ ai trong tổ chức cũng đều là người có đủ khả năng, có
thể xác lập được mục tiêu của tổ chức. Nói cách khác chỉ có những người có tầm
nhìn, trí tuệ, năng lực mới có khả năng xác lập được mục tiêu của tổ chức.
Thông thường việc xác lập mục tiêu của tổ chức thuộc về người lãnh đạo, quản
lý, sáng lập tổ chức;
9
+ Khơng tổ chức nào có thể duy trì hoạt động nếu lãnh đạo, quản lý không
đặt ra các mục tiêu để hướng đến. Mục tiêu có ý nghĩa vơ cùng lớn đối với việc
định hướng cho hoạt động của tổ chức.
+ Mục tiêu của tổ chức không bất biến mà có thể được điều chỉnh, bổ sung
tùy thuộc và sự phát triển về quy mơ, tính chất của tổ chức và các điều kiện, yêu
cầu khách quan.
+ Người lãnh đạo, quản lý tổ chức khơng chỉ có vai trị quan trọng trong
việc xác định mục tiêu mà cịn có vai trò to lớn trong việc tổ chức, động viên
nhân lực của tổ chức mình hành động đạt đến mục tiêu đã đặt ra.
- Khi đặt mục tiêu cho tổ chức cần đảm bảo các nguyên tắc sau: mục tiêu
nên thực tế và có khả năng đạt tới được; chúng nên cải thiện mọi mặt của tổ
chức (đạo đức, tài chính...); mọi nhân viên đều có thể tham gia vào q trình
thực hiện mục tiêu; có thể tạo ra được một chương trình phát triển nhằm đạt
được mỗi mục tiêu.
- Lý thuyết về thiết lập mục tiêu của Locke cho thấy mục tiêu càng cụ thể
và khó khăn thì năng lực và kết quả thực hiện thường tốt hơn nhiều so với các
mục tiêu mơ hồ hoặc dễ dàng.
1.1.3.2. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
- Chức năng của tổ chức được hiểu là những phương diện hoạt động chủ
yếu của tổ chức.
- Chức năng của tổ chức được cụ thể hoá thành các nhiệm vụ, quyền hạn
(bao gồm cả nhiệm vụ, quyền hạn của người đứng đầu).
- Chức năng, nhiệm vụ là điều kiện để tổ chức lại, giải thể tổ chức. Khoản
2, 3 Điều 3 Nghị định số 55/2012/NĐ-CP ngày 28/6/2012 của Chính phủ quy
định về thành lập, tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập quy định cụ thể
đơn vị sự nghiệp công lập được tổ chức lại khi có điều chỉnh về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và giải thể khi khơng cịn chức năng, nhiệm vụ.
Chức năng, nhiệm vụ là dấu hiệu đặc thù của tổ chức vì mỗi tổ chức có
chức năng, nhiệm vụ cụ thể riêng, không trùng lắp với các tổ chức khác tuy cùng
loại hình.
10
1.1.3.3. Cơ cấu tổ chức
- Quan niệm về cơ cấu tổ chức:
+ Cơ cấu tổ chức là hình thức tồn tại của tổ chức, biểu thị việc sắp xếp theo
trật tự nào đó của mỗi bộ phận của tổ chức cùng các mối quan hệ giữa chúng.
+ Cơ cấu tổ chức bộ máy: Là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên
hệ và quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chun mơn hố và có những trách
nhiệm, quyền hạn nhất định, được bố trí theo từng cấp nhằm bảo đảm thực hiện
các chức năng quản lý và phục vụ mục đích chung đã xác định của tổ chức.
- Ý nghĩa của cơ cấu tổ chức đối với tổ chức:
+ Đây là hình thức phân cơng lao động trong trong tổ chức;
+ Cơ cấu tổ chức có tác động đến quá trình hoạt động của hệ thống quản lý;
+ Cơ cấu tổ chức một mặt phản ánh tính chất, nhiệm vụ, chức năng của tổ
chức, mặt khác nó tác động trở lại đối với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ
và cao hơn là phát triển tổ chức.
- Những yêu cầu đối với việc xây dựng cơ cấu tổ chức:
+ Tính tối ưu. Giữa các khâu và các cấp quản lý đều thiết lập những mối
liên hệ hợp lý với số lượng cấp quản lý ít nhất. Cho nên, cơ cấu tổ chức quản lý
mang tính năng động cao, luôn đi sát và phục vụ việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của tổ chức;
+ Tính linh hoạt. Cơ cấu tổ chức phải có khả năng thích ứng nhanh, linh
hoạt với bất kỳ tình huống nào xảy ra trong tổ chức cũng như ngồi mơi trường;
+ Tính tin cậy. Cơ cấu tổ chức phải đảm bảo tính chính xác của tất cả các
thơng tin được sử dụng và nhờ đó bảo đảm sự phối hợp tốt nhất các hoạt động
và nhiệm vụ của tất cả các bộ phận trong tổ chức;
+ Tính kinh tế. Cơ cấu phải sử dụng chi phí quản trị đạt hiệu quả cao nhất.
Tiêu chuẩn xem xét mối quan hệ này là mối tương quan giữa chi phí dự định bỏ
ra và kết quả sẽ thu về.
- Những nhân tố ảnh hưởng. Khi hoàn thiện cơ cấu tổ chức quản lý, chẳng
những phải xuất phát từ những yêu cầu đã xét ở trên, mà điều quan trọng và khó
khăn nhất là phải quán triệt những yêu cầu đó vào những điều kiện, tình huống
11
cụ thể. Nói cách khác là cần tính đến những nhân tố ảnh hưởng trực tiếp và gián
tiếp của việc hình thành, phát triển và hồn thiện cơ cấu tổ chức. Có thể xác định
các yếu tố ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức như sau: tính chất và đặc điểm hoạt
động của tổ chức; trình độ kiến thức, kỹ năng của đội ngũ nhân lực quản lý, hiệu
suất lao động của họ; quan hệ phụ thuộc giữa số lượng người bị lãnh đạo và khả
năng kiểm tra của lãnh đạo đối với những hoạt động của những người cấp dưới;
tình trạng và trình độ phát triển của cơng nghệ phục vụ hoạt động của tổ chức;
trình độ cơ giới hoá và tự động hoá các hoạt động quản trị, mức độ chun mơn
hố và tập trung hố các hoạt động quản trị; chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ
quản lý. Tất cả những yếu tố trên đều ảnh hưởng đến thành phần và nội dung
những chức năng mà thơng qua chúng có ảnh hưởng đến cơ cấu tổ chức.
1.1.3.4. Quyền lực của tổ chức
- Nhận thức về quyền lực của tổ chức
+ Quyền lực của tổ chức được xen xét trên hai phương diện là thẩm quyền
của tổ chức và các điều kiện đảm bảo cho các quyết định của tổ chức (bao gồm
cả của các cá nhân có thẩm quyền trong tổ chức đó) được thực thi. Đây là hai
nội dung, hai mặt căn bản cần được xem xét đồng thời, với ý nghĩa quan trọng
như nhau khi bàn về quyền lực của tổ chức.
+ Có nhiều cách tiếp cận khác nhau khi bàn về thẩm quyền của các tổ chức,
nhất là các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Tiếp cận theo hướng cấu trúc của quyền lực nhà nước bao gồm ba nhánh là
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, theo đó có các cơ quan nhà nước là Quốc
hội, Chính phủ, Tịa án, mỗi cơ quan đảm nhiệm một nhánh quyền lực nhà nước
và đấy là quyền lực của các tổ chức đó;
Tiếp cận theo hướng thẩm quyền chung và thẩm quyền theo ngành, lĩnh
vực ta có cơ quan nhà nước có thẩm quyền chung là Chính phủ, Ủy ban nhân
dân; cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo ngành, lĩnh vực là các bộ, cơ quan
ngang bộ, các sở…;
Tiếp cận theo vị trí, chức năng của các tổ chức ta có một số dạng như:
Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất, Chính phủ là cơ quan hành chính cao
12
nhất; Quốc hội, Hội đồng nhân dân là cơ quan đại biểu; Chính phủ, Ủy ban nhân
dân các cấp là cơ quan hành chính nhà nước; các vụ là tổ chức có chức năng
tham mưu; các đơn vị sự nghiệp công lập là các tổ chức thực hiện cung ứng dịnh
vụ công, phục vụ quản lý nhà nước.
+ Cơ sở, căn cứ hình thành quyền lực của tổ chức được tiếp cận nghiên cứu
với các giác độ khác nhau theo đó có những lý giải tương thích.
+ Các điều kiện đảm bảo cho quyền lực của tổ chức cũng bao gồm nhiều
nhóm như: điều kiện về pháp lý (tổ chức được quyền ban hành loại văn bản gì,
hiệu lực về thời gian, không gian, đối tượng áp dụng); điều kiện về nhân lực;
điều kiện về cơ sở vất chất; điều kiện về tài chính, kinh phí hoạt động…
- Một số nguyên tắc tổ chức thực hiện quyền lực của tổ chức bao gồm: tập
quyền; phân quyền; tản quyền; phân cấp; ủy quyền.
1.1.3.5. Nguồn lực của tổ chức
Có nhiều các nội dung khác nhau trong nguồn lực của tổ chức, tuy nhiên có
thể đề cập đến ba nhóm nguồn lực là:
- Nguồn lực con người. Là nguồn lực đặc biệt không thể thiếu, nó quyết
định tới sự thành bại của tổ chức. Quá trình tồn tại cũng như sự phát triển của
nguồn nhân lực không chỉ chịu sự tác động của biến động tự nhiên (sinh, chết..)
và biến động cơ học (di dân) mà còn chịu sự ảnh hưởng của hệ thống các qui
luật: qui luật cung cầu, qui luật cạnh tranh… Nguồn lực con người được xem xét
trên hai khía cạnh chính là số lượng và chất lượng nguồn nhân lực.
- Nguồn lực cơng nghệ. Ngày nay, cơng nghệ có vai trò quan trọng trong
phát triển tổ chức, gắn liền với phát triển tổ chức, thúc đẩy sự phát triển tổ chức;
bất kỳ tổ chức nào cũng phải sử dụng công nghệ và coi trọng ứng dụng công
nghệ phục vụ hoạt động của tổ chức. Vì vậy, cùng với các yếu tố đã nêu ở trên
như mục tiêu; chức năng, nhiệm vụ; cơ cấu; quyền lực thì nguồn lực cơng nghệ
được xem xét với vai trò là một trong số các nội dung cấu thành của nguồn lực
tổ chức với vai trò, ý nghĩa là đặc trưng cơ bản của tổ chức. Không chỉ là một
trong số các nội dung cấu thành của nguồn lực tổ chức mà trong chừng mực nào
đó nguồn lực cơng nghệ, cụ thể là ứng dụng tiến bộ của công nghệ vào hoạt
13
động của tổ chức được xem như một dấu hiệu đặc trưng để phân biệt sự vận
hành, phương thức quản lý, hoạt động của tổ chức.
- Nguồn lực tài chính. Nguồn lực tài chính là điều kiện khơng thể thiếu để
duy trì, phát triển tổ chức. Theo quy định của một số văn bản thì nguồn lực tài
chính là dấu hiệu để phân biệt một số tổ chức như: đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm
chi phí hoạt động; đơn vị sự nghiệp tự bảo đảm một phần chi phí hoạt động; đơn
vị sự nghiệp do ngân sách nhà nước bảo đảm tồn bộ chi phí hoạt động.
1.1.3.6. Mơi trường hoạt động của tổ chức
Theo lý thuyết của Quản trị học thì có khá nhiều các nội dung khác nhau
cần được đề cập khi bàn về môi trường của tổ chức như: khái niệm, các yếu tố,
các thành tố trong nhóm các yếu tố (ví dụ: bàn đến yếu tố vĩ mô trong môi
trường tổ chức, quản trị học đề cập đến các thành tố như môi trường quốc tế,
môi trường cơng nghệ, mơi trường văn hóa, mơi trường xã hội)… Tuy nhiên
trong giới hạn thời lượng của bài viết chỉ đề cập sơ bộ đến một số nội dung như:
- Môi trường chung (trong nước, quốc tế, khu vực);
- Mơi trường bên ngồi (thị trường lao động, đối tác, đối tượng phục vụ…);
- Môi trường bên trong của tổ chức (nhân viên, văn hóa tổ chức, quản trị tổ
chức…).
Trên đây là một số nội dung có tính lý luận về tổ chức, từ các nội dung này
có thể cụ thể hóa để nghiên cứu, nhận thức sâu sắc hơn về tổ chức hành chính,
đơn vị sự nghiệp cơng lập từ đó đưa ra các đề xuất, kiến nghị góp phần hoàn
thiện các quy định của pháp luật về hai loại hình tổ chức này.
1.2. Khoa học tổ chức
1.2.1. Quan niệm về khoa học tổ chức
Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng sự vật, quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy. Nói cách khác khoa học là hệ thống các tri thức chân
thực được khái quát từ thực tiễn và được thực tiễn kiểm nghiệm. Khoa học mang
lại những hiểu biết về bản chất của mọi hiện tượng, quá trình trong tự nhiên, xã
hội dưới dạng trừu tượng logic. Nó giữ một vị trí đặc biệt quan trọng trong hoạt
động lịch sử - xã hội, là cơ sở hình thành thế giới quan xã hội của con người,
14
một trong các công cụ chủ yếu để nhận thức thế giới khách quan. Khoa học ngày
nay đã trở thành nguồn lực quan trọng của lực lượng sản xuất mỗi quốc gia, mỗi
dân tộc. Không phải ngẫu nhiên các nước trên thế giới đều quan tâm đến phát
triển khoa học, coi khoa học là “quốc sách”, là nền tảng để xây dựng và phát
triển đất nước.
Trong các lĩnh vực khoa học, thì khoa học xã hội ln được đề cao vì là
một ngành khoa học nghiên cứu các quy luật hình thành, phát triển của xã hội và
con người, của mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với
môi trường tự nhiên và xã hội. Với chức năng nghiên cứu cơ bản và toàn diện về
xã hội và con người, khoa học xã hội cung cấp các luận cứ khoa học cho việc
hoạch định đường lối, chính sách phát triển và bảo vệ đất nước của mỗi quốc
gia. Ở nước ta hiện nay, khoa học xã hội và nhân văn có nhiệm vụ “tập trung
nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới đất nước và dự báo xu
hướng phát triển, cung cấp luận cứ làm rõ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam, phục vụ xây dựng đường lối, chính sách phát triển và bảo vệ đất nước
trong giai đoạn mới. Chú trọng các nghiên cứu về mô hình và chiến lược phát
triển, hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xu thế
phát triển của xã hội, văn hóa, dân tộc, tơn giáo và con người Việt Nam”.
Như vậy, chức năng, nhiệm vụ của khoa học xã hội là rất rộng, bao hàm
chức năng, nhiệm vụ của nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau, trong đó có khoa
học tổ chức. Nói cách khác, khoa học tổ chức hay tổ chức học là nhánh, là lĩnh
vực nghiên cứu cụ thể của khoa học xã hội.
Theo đó, khoa học tổ chức là một ngành khoa học nghiên cứu về tổ chức,
các quy luật hình thành, phát triển và triệt tiêu một tổ chức nhất định. Khoa học
tổ chức với nghĩa hẹp là môn khoa học nghiên cứu những quy luật, nguyên tắc,
chức năng, cơ cấu, cơ chế vận hành của tổ chức và các điều kiện cần thiết để tổ
chức hoạt động có hiệu quả nhất. Đây là ngành khoa học thuộc lĩnh vực khoa
học xã hội, có tính chất tổng hợp và có mối liên hệ chặt chẽ với các ngành khoa
học xã hội khác như chính trị học, triết học, kinh tế - chính trị học, luật học,
hành chính học, xã hội học, khoa học quản lý...
15
1.2.2. Vai trò của khoa học tổ chức
Ngày nay trong bối cảnh bùng nổ thông tin, thế giới đang trong quá trình
hội nhập, các quy luật nội tại của khoa học trong đó có khoa học tổ chức lại càng
phát triển. Khoa học tổ chức cung cấp cơ sở lý luận, thực tiễn về tổ chức và hoạt
động của các tổ chức nhà nước, các tổ chức xã hội và các tổ chức kinh tế.
Khoa học tổ chức có vai trò to lớn đối với hoạt động của con người và xã
hội, cung cấp cho con người và xã hội những luận cứ khoa học để thực hiện các
mục tiêu đã đặt ra. Khoa học tổ chức quyết định hiệu lực, hiệu quả của quản lý,
cung cấp cho nhà quản lý cơ sở khoa học xác định chức năng, cơ cấu tổ chức,
mối quan hệ về quyền và trách nhiệm giữa các bộ phận trong cơ cấu tổ chức đó;
đồng thời, cung cấp cho nhà quản lý cơ sở lý luận và thực tiễn tuyển dụng, quản
lý, sử dụng, trọng dụng, phát huy tối đa sức mạnh và trí tuệ của con người với
tính chất là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của tổ chức.
Công tác tổ chức hiểu một cách cụ thể là lĩnh vực hoạt động có chức năng
thành lập các đơn vị cần thiết (cơ cấu tổ chức cần thiết), theo yêu cầu công tác,
xác lập mối quan hệ về nghiệp vụ và quyền hành giữa các cá nhân, đơn vị trong
cơ quan, nhằm thiết lập một môi trường hoạt động thuận lợi để đạt mục tiêu
chung của cơ quan. Chức năng tổ chức là chức năng quan trọng trong hoạt động
quản trị, nhằm thiết lập một hệ thống các vị trí cho mỗi cá nhân và bộ phận phối
hợp với nhau để thực hiện mục tiêu chiến lược của cơ quan, tổ chức. Công tác tổ
chức bao gồm các nhiệm vụ: xác định mục tiêu, chiến lược của tổ chức; xác định
cơ cấu bộ máy tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ giữa
các đơn vị cấu thành tổ chức, thiết kế tổ chức; xác định, tuyển chọn và quản trị
nguồn nhân lực trong tổ chức; xác định cơ chế, phương pháp vận hành của tổ
chức; tổ chức khoa học lao động trong tổ chức; bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ thuật
duy trì sự tồn tại và phát triển của tổ chức; duy trì truyền thống lịch sử, văn hóa
của tổ chức; cải cách, hồn thiện tổ chức.v.v... Trong những nhiệm vụ của công
tác tổ chức, nhiệm vụ quan trọng nhất là đảm bảo nguồn nhân lực (biên chế) cho
hoạt động của tổ chức. Công tác tổ chức chỉ có thể làm tốt khi dựa trên những
16
quy luật, quan điểm, nguyên tắc, yêu cầu và những thành tựu của khoa học tổ
chức.
Khoa học tổ chức có vị trí, vai trị quan trọng trong tổ chức và hoạt động
của nhà nước thể hiện qua công tác tổ chức nhà nước. Đây là lĩnh vực hoạt động
có ý nghĩa chính trị, pháp lý, khoa học và thực tiễn to lớn trong hoạt động của
nhà nước, thể hiện ở việc nghiên cứu, vận dụng những thành tựu của khoa học tổ
chức vào việc xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Công tác tổ chức nhà nước có nhiệm vụ áp dụng những quy luật, nguyên
tắc và khoa học tổ chức vào việc nghiên cứu đề ra mơ hình tổ chức bộ máy nhà
nước tối ưu, phân định, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế
quản lý và điều hành bộ máy nhà nước; nghiên cứu xây dựng, quản lý và sử
dụng có hiệu quả đội ngũ cán bộ, cơng chức, viên chức làm việc trong bộ máy
nhà nước; nghiên cứu bảo đảm ngân sách - tài chính và các điều kiện, cơ sở vật
chất, kỹ thuật cho các hoạt động của bộ máy nhà nước.v.v…
17
CHƯƠNG 2. VẬN DỤNG KHOA HỌC TỔ CHỨC TRONG VIỆC KIỆN
TỒN TỔ CHỨC CÁN BỘ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ Ở NƯỚC TA
2.1. Một số vấn đề đặt ra trong vận dụng khoa học tổ chức vào kiện
toàn hệ thống chính trị ở nước ta
Ở Việt Nam hiện nay, vấn đề nghiên cứu về khoa học tổ chức với tư cách là
một công cụ, phương tiện đặc biệt của nhà quản lý càng trở nên cần thiết. Đây
cũng là vấn đề luôn được Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm. Hiện nay, mặc
dù có nhiều trường đại học, học viện, viện đang nghiên cứu, giảng dạy về tổ
chức, nhưng cách tiếp cận của các đơn vị đào tạo vẫn chưa thống nhất, các nội
dung nghiên cứu chưa bao trùm hết những vấn đề của tổ chức. Khi xem xét tổ
chức là một công cụ, phương tiện của nhà quản lý ở nước ta cần tập trung
nghiên cứu vào các vấn đề quan trọng sau:
Một là, các quy luật của tổ chức.
Quy luật của tổ chức mang tính nền tảng và định hướng cho suốt quá trình
hình thành, xây dựng, hoạt động và phát triển tổ chức. Các nhà nghiên cứu về tổ
chức đã chỉ ra 5 quy luật chung của tổ chức, bao gồm:
- Quy luật mục tiêu rõ ràng và tính hiệu quả của tổ chức: Mọi tổ chức đều
có mục tiêu, vì mục tiêu mà tổ chức mới hình thành, việc hình thành tổ chức xét
đến cùng là vì mục tiêu và hướng đến mục tiêu. Từ mục tiêu sẽ định hướng chi
phối đến các yếu tố khác của tổ chức như cơ cấu, chức năng, nhiệm vụ các bộ
phận, tuyển chọn con người…
Quá trình hoạt động của tổ chức còn phải quan tâm đến hiệu quả của tổ
chức. Việc đạt được mục tiêu đề ra của tổ chức mới chỉ là sự thành công bước
đầu, cịn tổ chức có tồn tại được hay khơng phụ thuộc vào tính hiệu quả của q
trình hoạt động của tổ chức. Khi tổ chức đạt được mục tiêu đề ra nhưng lại sử
dụng quá nhiều nguồn lực, chi phí q cao thì cũng khơng được coi là hiệu quả.
Sự hiệu quả của tổ chức cần được xem xét giữa các chi phí đầu vào và các sản
phẩm đầu ra. Do đó, việc thiết kế vận hành các tổ chức cần quan tâm đến tính
hiệu quả chứ khơng chỉ quan tâm đến việc bằng mọi cách đạt được mục tiêu.
18
- Quy luật hệ thống của tổ chức: Bản thân tổ chức là một hệ thống nên luôn
luôn phải được nhìn nhận là một thể thống nhất. Khơng nên nhìn nhận, xem xét
tổ chức là sự lắp ghép đơn thuần, cơ học. Các bộ phận tạo nên tổ chức có mối
quan hệ hữu cơ, tác động qua lại, phụ thuộc lẫn nhau; sự thay đổi, biến động của
bộ phận này ảnh hưởng đến bộ phận khác và ảnh hưởng chung đến q trình vận
hành của tổ chức. Do đó, việc chia tách, sáp nhập giữa các bộ phận, giữa các cơ
quan tổ chức cần được nhìn nhận, đánh giá dưới góc độ của hệ thống.
- Quy luật đồng nhất và đặc thù của tổ chức: mỗi tổ chức là một thực thể
riêng với tên gọi, chức năng, cơ cấu tổ chức riêng; nhưng trong mỗi tổ chức lại
có những đặc điểm, dấu ấn chung của tổ chức. Tính chung, tính đồng nhất sẽ tạo
cho tổ chức sự ổn định, vững bền. Tuy nhiên, nếu chỉ có sự đồng nhất, sự ổn
định tổ chức sẽ trì trệ, do đó trong tổ chức phải có những nét đặc thù, riêng biệt
để phân biệt giữa tổ chức này với tổ chức khác. Đặc thù này là cơ sở, là động lực
cho tổ chức phát triển. Việc nghiên cứu để chỉ ra những nét chung và nét riêng
của mỗi tổ chức là rất quan trọng, địi hỏi mỗi tổ chức phải có ý thức xây dựng
nét văn hóa đặc thù của tổ chức mình trên cơ sở những đặc điểm chung.
- Quy luật vận động khơng ngừng và vận động theo quy trình của tổ
chức: Tổ chức là một thực thể sống luôn vận động, khi tổ chức còn vận động
nghĩa là còn tồn tại, khi không vận động nghĩa là tổ chức đã chết. Sự vận động
của tổ chức được thể hiện ở sự vào - ra của tổ chức, bằng các hoạt động bên
trong của tổ chức.
Sự vận động này được thực hiện theo một quy trình, một trật tự nhất định.
Yếu tố tạo nên sự vận động theo quy trình đó là những nội quy, quy chế, những
thiết chế mà các nhà quản lý đặt ra. Do đó, việc xây dựng nội quy quy chế, điều
lệ của tổ chức có ý nghĩa rất quan trọng, nó khơng đơn thuần là một thủ tục hành
chính như một số người vẫn quan niệm.
- Quy luật tự điều chỉnh: Tổ chức là một cơ thể sống, việc tự điều chỉnh để
thích ứng là một hoạt động tất yếu. Trong quá trình hoạt động, tổ chức ln chịu
sự tác động của mơi trường bên ngồi và bên trong, yếu tố môi trường luôn biến
động và thay đổi, do đó việc tổ chức tự điều chỉnh, tự đổi mới là rất cần thiết.
19
Một tổ chức khơng có khả năng điều chỉnh hay điều chỉnh chậm sẽ rất khó tồn
tại. Sự điều chỉnh, đổi mới của tổ chức không phải là sự phá bỏ hoàn toàn để xây
dựng tổ chức mới mà là sự thay đổi trong cơ cấu, quy mô, cách bố trí sắp xếp tổ
chức… xét đến cùng là thay đổi trong tư duy, hành vi của đội ngũ nhân lực mà
trước hết là đội ngũ những nhà quản lý.
Hai là, vấn đề con người trong tổ chức.
Con người là một trong bốn yếu tố tạo nên tổ chức (nhân lực, vật lực, tài
lực và tin lực) và nguồn lực này được xác định là trung tâm của tổ chức. Con
người trong tổ chức được nghiên cứu ở nhiều góc độ khác nhau như tuyển dụng,
đào tạo, bồi dưỡng, tạo động lực, bố trí sắp xếp… Trong bối cảnh hiện nay, vị trí
và vai trị của con người trong tổ chức ngày càng trở nên quan trọng, đây là nhân
tố quyết định tạo nên sự thành công hay thất bại của tổ chức.
Ba là, vấn đề quyền lực và xung đột trong tổ chức.
Quyền lực và xung đột là một vấn đề tồn tại tất yếu trong tổ chức, thu hút
sự quan tâm chú ý ở các mức độ khác nhau của mọi cá nhân, từ người nhân viên
cho đến nhà quản lý. Các cá nhân đều muốn dùng quyền lực cá nhân hay quyền
lực địa vị để gây ảnh hưởng đến người khác nhằm các mục đích khác nhau. Nếu
việc sử dụng quyền lực hợp lý, phù hợp và phục vụ cho cơng việc, vì lợi ích của
tổ chức thì sẽ đem lại lợi ích và hiệu quả cao; ngược lại, nếu sử dụng quyền lực
vào mục đích tư lợi thì sẽ gây nguy hại cho tổ chức. Hiện nay việc phân quyền,
phân chia quyền trong tổ chức như thế nào ln là vấn đề được quan tâm và khó
xác định. Nếu giao quyền lực quá nhiều cho một cá nhân hay một vị trí nào đó,
sẽ dễ dẫn đến độc đốn, chun quyền; nhưng nếu giao q ít quyền lực sẽ gây
khó khăn trong q trình quản lý.
Trong mỗi tổ chức đều tồn tại các xung đột, chúng có thể bộc lộ ra bên
ngồi nhưng cũng có thể tồn tại một cách âm ỉ, tiềm ẩn. Nhìn chung, xung đột
ln gây ra khó khăn, bất ổn trong tổ chức, nhưng không phải lúc nào cũng gây
hại cho tổ chức. “Mâu thuẫn là động lực cho sự phát triển”, những xung đột sẽ
làm cho tổ chức cũng như nhà quản lý nhìn nhận lại chính mình, làm cho các cá
nhân bộc lộ rõ hơn bản chất của mình. Trong quản lý xung đột quan trọng nhất
20
là khả năng kiểm soát được xung đột, hướng xung đột theo hướng của nhà quản
lý. Trong các tổ chức tồn tại nhiều xung đột tiềm ẩn do quá trình giao lưu, tồn
cầu hóa diễn ra mạnh mẽ, tạo nên những sự khác biệt. Việc tìm ra nguyên nhân
và cách thức quản lý, kiểm soát xung đột trong tổ chức cần được tập trung
nghiên cứu để hạn chế những mặt tiêu cực và phát huy những lợi ích của xung
đột.
Bốn là, vấn đề thiết kế xây dựng tổ chức.
Tổ chức là một công cụ, phương tiện của nhà quản lý nên việc thiết kế, xây
dựng cơng cụ này có ý nghĩa quan trọng trong việc đạt được mục tiêu. Yêu cầu
chung của việc thiết kế xây dựng tổ chức cần gọn nhẹ, khoa học, hoạt động hiệu
quả nhưng cũng phải linh hoạt tự điều chỉnh khi môi trường thay đổi. Đối với
các tổ chức hiện nay, nhất là những tổ chức tư, việc thiết kế xây dựng còn nặng
về cảm tính, theo sở thích cá nhân của người xây dựng nó, chưa mang tính khoa
học và theo ngun lý cụ thể nào. Hiện nay, đã hình thành những mơ hình tổ
chức khác nhau như cơ cấu trực tuyến, cơ cấu chức năng, cơ cấu trực tuyến chức năng, cơ cấu trực tuyến - tham mưu, cơ cấu ma trận… Việc lựa chọn cơ
cấu tổ chức nào để thiết kế, xây dựng phải căn cứ vào mục tiêu, nguồn lực của tổ
chức. Nghiên cứu về các mơ hình cơ cấu tổ chức ở Việt Nam hiện nay là rất cần
thiết vì điều kiện kinh tế, lịch sử, văn hóa, xã hội của nước ta có những nét đặc
trưng riêng nên cần có các mơ hình cơ cấu tổ chức vừa mang những đặc điểm
chung, vừa mang những nét đặc trưng riêng cho phù hợp.
Năm là, vấn đề bố trí sắp xếp trong tổ chức.
Bố trí cơng việc, khơng gian làm việc, đặc biệt là bố trí sắp xếp con người
hợp lý, đúng người đúng việc là một trong những yêu cầu đảm bảo tính hiệu quả
trong q trình hoạt động của tổ chức. Việc bố trí sắp xếp hợp lý sẽ phát huy
năng lực, sở trường của các cá nhân, ngược lại sẽ gây ra sự lãng phí, đồng thời
cũng là mầm mống phát sinh những xung đột. Do đó, việc nghiên cứu để bố trí
sắp xếp trong tổ chức sao cho hợp lý là điều rất cần thiết, đây cũng là một trong
những nội dung quan trọng của khoa học tổ chức.
21
2.2. Quan điểm của Đảng về vận dụng khoa học tổ chức trong kiện
toàn tổ chức cán bộ của hệ thống chính trị ở nước ta
Nghiên cứu và vận dụng khoa học tổ chức nói chung và khoa học tổ chức,
cán bộ trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức bộ máy của tồn hệ
thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả có ý nghĩa to
lớn.
Đại hội XII của Đảng xác định 6 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó có hai
nhiệm vụ về xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị. Để thực hiện những
nhiệm vụ đó, ngay từ đầu nhiệm kỳ, Ban Chấp hành Trung ương đã cụ thể hoá
thành 3 đề án trong Chương trình làm việc tồn khóa để trình các Hội nghị
Trung ương khóa XII. Một trong ba đề án đó là “Tiếp tục đổi mới phương thức
lãnh đạo của Đảng, gắn với xây dựng tổ chức bộ máy của tồn hệ thống chính trị
tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham
nhũng, lãng phí, quan liêu”. Đề án này đã được trình và thơng qua tại Hội nghị
Trung ương 6 Khóa XII, cụ thể hóa với Nghị quyết số 18 “Một số vấn đề về tiếp
tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động
hiệu lực, hiệu quả” ngày 25-10-2017.
Đảng chỉ rõ những khuyết điểm về tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị
hiện nay, như: mơ hình tổng thể; nhận thức, ý thức trách nhiệm của một số cấp
ủy, tổ chức đảng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt và tổ chức thực
hiện; công tác quản lý tổ chức bộ máy và biên chế; cơ chế, chính sách; cơng tác
kiểm tra, thanh tra, giám sát... Nguyên nhân của tình trạng này là: “Công tác
tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về tổ chức bộ máy của hệ thống chính
trị chưa được coi trọng và chưa được tiến hành một cách căn cơ, bài bản, thiết
thực; công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, khen thưởng chưa kịp thời”.
Hội nghị Trung ương 9 khóa X năm 2009 của Đảng đã nhấn mạnh nhiệm
vụ “Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học, xây dựng tổ chức và con người
làm công tác tổ chức, cán bộ” nhưng đến nay vẫn chưa chuyển biến. Khoa học
tổ chức vẫn chưa thực sự được coi trọng và chưa đóng góp đáng kể vào cơng tác
kiện tồn tổ chức bộ máy của cả hệ thống chính trị.
22
Điều đó đặt ra yêu cầu nghiên cứu và vận dụng khoa học tổ chức nói chung
và khoa học tổ chức, cán bộ trong công tác xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức bộ
máy của tồn hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu
quả. Việc nghiên cứu và vận dụng khoa học tổ chức trong đổi mới, sắp xếp tổ
chức bộ máy của hệ thống chính trị hiện nay cần chú ý một số nội dung sau:
Thứ nhất, về sứ mệnh của tổ chức.
Mỗi tổ chức đều hướng tới thực hiện một chức năng xã hội nhất định.
Khơng có mục tiêu, sứ mệnh, mọi tổ chức đều khơng có lý do tồn tại. Tổ chức là
do con người đặt ra nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, đáp ứng lợi ích thiết
thực cho con người. Đó là yếu tố liên kết các thành viên của tổ chức và là lý do
ra đời, tồn tại của mỗi tổ chức.
Xác định mục tiêu liên tục của tổ chức là cơng việc khó khăn, phức tạp, địi
hỏi người lãnh đạo phải tổng kết lý luận và thực tiễn và dự báo tương lai. Đồng
thời, phải hiểu sâu sắc mục tiêu của hệ thống để xác định mục tiêu của tổ chức
mình cho phù hợp, vừa sức và phải lựa chọn được mục tiêu ưu tiên.
Tuân thủ quy luật này địi hỏi phải có sự thống nhất về nhận thức. Để xác
định hiệu quả của tổ chức, phải xác định được ba yếu tố: yếu tố đầu vào; yếu tố
quản lý vận hành và yếu tố kết quả của tổ chức. Sự chênh lệch giữa yếu tố kết
quả và yếu tố đầu vào là hiệu quả.Mục tiêu rõ ràng và tính hiệu quả là quy luật
khách quan quyết địnhsự tồn tạicủa tổ chức, quy địnhcấu trúc và phương thức
hoạt động của tổ chức.
Bất kỳ tổ chức nào cũng tồn tại và phát triển trong một không gian và thời
gian xác định, trong điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội nhất định. Nhờ có yếu tố
khơng gian, thời gian mà người ta xác định được quy mơ, tính chất phát triển
của tổ chức, cũng như quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của tổ chức đối với xã hội.
Mặt khác, nhờ có yếu tố khơng gian, thời gian mà xác định được tính tương
thích hay khơng tương thích của một tổ chức xã hội nào đó với các điều kiện
kinh tế - xã hội mà tổ chức đó lệ thuộc vào. Như vậy, tổ chức nào cũng có q
trình ra đời, phát triển và tiêu vong hay gọi là “vòng đời của tổ chức”. Tính ổn
định và phát triển là yêu cầu tất yếu để tổ chức thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ.
23
Một tổ chức mà không ổn định và phát triển thì hoạt động khơng có hiệu quả.
Mặt khác, sau khi tổ chức đã hình thành và hoạt động ổn định thì ln xuất hiện
tính ỳ, xu hướng bảo thủ, khơng dễ thay đổi.
Tuân thủ quy luậtnày đòi hỏi việc xây dựng, điều khiển tổ chức phải bảo
đảm tính ổn định, tránh vội vàng, hấp tấp, thay đổi tổ chức khi chưa nghiên cứu
đầy đủ các vấn đề và điều kiện chưa chín muồi. Đồng thời, phải chú ý khắc phục
xu hướng bảo thủ, trì trệ, khép kín của tổ chức.
Hồn cảnh khách quan luôn biến đổi, nhiệm vụ của tổ chức có sự vận động
phát triển địi hỏi tổ chức phải đổi mới, hồn thiện là lẽ tự nhiên. Vì vậy, việc
củng cố, kiện toàn tổ chức là biện pháp được vận dụng phổ biến trong thực tiễn.
Bất kỳ một tổ chức nào, sau một thời gian hoạt động đều bộc lộ những điểm
mạnh, điểm yếu, những mặt hợp lý và bất hợp lý, đòi hỏi phải được củng cố,
kiện tồn để thực hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ. Đó là: bố trí sắp xếp lại các bộ
phận, điều chỉnh nhân sự, đổi mới trang thiết bị, phương tiện làm việc; thay đổi
phương thức hoạt động, đề xuất các quy định mới, bổ sung quy định cũ hay
chuyển đổi tính chất, nội dung hoạt động, bổ sung nhiệm vụ mới cho tổ chức.
Ví dụ, trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Mặt trận Tổ quốccó sứ
mệnh đồn kết các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong và ngoài nước cho dù có lợi
ích khác nhau nhưng cùng chung ý chí giành độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo
của Đảng. Nhưng trong thời bình, hội nhập, nhất là trong chế độ một đảng cầm
quyền, vai trò của Mặt trận Tổ quốc có sự thay đổi. Bên cạnh việc bảo vệ lợi ích,
nhất là lợi ích kinh tế - xã hội của mọi giai cấp, tầng lớp và đoàn kết các dân
tộc, tơn giáo cịn có vai trị quan trọng và cần thiết nữa là phản biện các chính
sách đối với Đảng cầm quyền và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Các ban chỉ đạo Trung ươngđược lập ra trong thời điểm tình hình an ninh
trật tự những vùng Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam bộ diễn biến phức tạp, kinh
tế, xã hội chậm phát triển; hệ thống chính trị cấp cơ sở quan liêu, yếu kém; công
tác tuyên truyền nâng cao nhận thức chính trị thiếu hiệu quả; các thủ đoạn tuyên
truyền kích động của các thế lực thù địch... Khi đã hoàn thành sứ mệnh, việc