Tải bản đầy đủ (.pdf) (231 trang)

Lịch sử triết học tây phương (trung cổ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 231 trang )

LỊCH SỬ TRIẾT HỌC TÂY
PHƯƠNG
Thời Trung Cổ (bản giản lược)

Giuse Nguyễn Trọng Viễn
2022


LỰA CHỌN HƯỚNG LÀM VIỆC
1. Vấn Đề Triết Học
1.1 Việc Học Triết
Việc học triết trong chương trình đào tạo linh mục ln là
một vấn đề cần thiết1; trong đó, phần lịch sử triết học được
nhắc nhủ đặc biệt2. Điều này khơng phải là khơng có lý do :
• Trong lịch sử Giáo Hội, Việc diễn tả tư tưởng thần
học vẫn luôn phải dùng đến những hạn từ, những
quan điểm triết học. Hơn nữa, mỗi một nền thần học
hay một quan điểm thần học thường dựa trên một hệ
thống, một quan niệm triết học nào đó.
• Mặt khác, triết học, hay nói rộng hơn, tư tưởng thực
sự vẫn chi phối thế giới, vẫn là nền tảng sâu xa của
một phong cách sống, một não trạng, và là nguồn gốc
của nhiều vấn đề lớn trong xã hội con người. Muốn
hiểu được thế giới và muốn rao giảng Tin Mừng cho
thế giới đó, người Kitơ hữu khơng thể nào khơng biết
đến triết học.
• Mơn Lịch sử triết học chẳng những có thể giúp cho
chúng ta hiểu được các trào lưu, các lập trường triết
1

Xc. Ratio fundamentalis institutionis sacerdotalis, số XI ; Tông Huấn


"CÁC MỤC TỬ", số 52; Xc: Phần phụ lục : Những chỉ dẫn của Giáo Hội về
môn triết.
2 Vat. II, ĐT 15a; Ratio fund. số XI.


học cách đúng đắn; giúp hiểu được các giáo phụ và
thần học Kitơ giáo; mà cịn giúp cho những giải đáp
của mình khơng trở thành q ngây ngơ.
Nói chung, triết học được coi như khuôn mẫu tiêu biểu của
sự khôn ngoan nhân loại. Sự khôn ngoan này, đối với người
Kitô hữu, tuy có nhiều khi bộc lộ ra trong thế đối nghịch với
sự khôn ngoan của Thiên Chúa; nhưng, tự bản chất, nó vẫn
là "sự khơn ngoan thuộc về Thiên Chúa". Người Kitô hữu
trưởng thành phải nhận ra được sự khơn ngoan này thuộc về
chương trình Sáng Tạo và cần làm cho sự khơn ngoan đó lại
thực sự trở thành nẻo đường đưa đến sự Khơn Ngoan Đích
Thực và Trọn Vẹn, là chính Đức Kitơ và ơn Cứu Độ của
Ngài, bằng một nỗ lực nỗ lực "hội nhập văn hóa" hiểu theo
nghĩa rộng rãi nhất3. Bởi vì, đối với người Kitô hữu, cho dù
dấn thân vào lãnh vực nào đi nữa, sự khơn ngoan đích thực
khơng thể là gì khác hơn Chính Đức Kitơ. Nói cách khác,
cho dù có bị coi thường dưới mắt những người "duy lý",
chúng ta không có cách nào làm nhẹ đi điều Thánh Augustin
đã nói : "...chỉ có triết lý Kitơ giáo là triết lý đích thực, nếu
quả thật từ ngữ này có nghĩa là sự nhiệt thành hoặc tình u
đối với sự khơn ngoan"4.
3

Xc: Vat.II ĐT 15a,b ; Tông Huấn Các Mục Tử, số 55, b,c.


4 Contra Julianum, lib. 4,no.72, PL 44,774; trích lại trong Philippe Delhaye,

Philosophie Chrétienne au Moyen Age, Je sais - Je crois, p. 13; Xc. Vat.II
ĐT 15a,b ; Tông Huấn Các Mục Tử, số 55, b,c.


Như thế, triết lý không phải chỉ là một phương pháp để phân
tích và trình bày thần học; và triết lý cũng không phải chỉ là
một sự khôn ngoan để hiểu biết "đời người và người đời".
Thái độ thứ nhất dễ đưa tới cái nhìn giản lược về con người;
thái độ thứ hai thì lại khơng thể tạo nên một sự thống nhất
của một con người có niềm Tin, với một ý hướng duy nhất
trên con đường tìm giải đáp cho vận mệnh của mình.
Sự nhìn nhận này chắc chắn phải đưa tới một cách thức suy
tư, phán đoán, cảm nhận... riêng biệt của người Kitô hữu đối
với triết học. Như thế, tuy đã có nhiều cách thức đã được đề
nghị5 để nghiên cứu lịch sử triết học Tây Phương mà mỗi
cách thức đều có sở trường, sở đoản; cách thức của người
Kitô hữu trước vấn đề triết học không thể là gì khác hơn sự
đối chiếu giữa triết học và niềm Tin, để nhận ra và đi vào
lịch sử cứu độ vẫn đang "trở nên trọn vẹn" trong lòng thế
giới hôm nay, như Lời Chúa đã hứa trong Tin Mừng Gioan
:

5

Như Henry Gouhier, trích lại trong Regards sur la Philosophie
contemporaine, Casterman 1957, 2è Edit., pp. 15-18. Hoặc : Denis Huisman,
Guide de l' Etudiant en Philosophie, Presses Universitaires de France, 1956,
Chap. IV, pp. 103-113.



"Thầy cịn nhiều điều phải nói với anh em. Nhưng
bây giờ anh em khơng có sức chịu nổi. Khi nào Thần
Khí Chân Lý đến, Người sẽ dẫn anh em tới Chân Lý
tồn Diện, Người sẽ khơng tự nói điều gì, nhưng tất
cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại, và loan
báo cho anh em biết những điều sẽ xẩy đến. Người sẽ
tơn vinh Thầy, vì Người sẽ lấy những gì của Thầy và
loan báo cho anh em. Mọi sự Chúa Cha có đều là của
Thầy. Vì thế, Thầy đã nói : Người lấy những gì của
Thầy và loan báo cho anh em".
(Ga 16,12-15)
1.2. Triết Học Tây Phương
Khoảng vài chục năm nay, người ta nói đến một thứ "phá
sản của tư tưởng Tây Phương"6. Nhiều người cho rằng phải
quay về với những ý niệm, những lối nhìn của Đơng Phương
như là phương thuốc duy nhất để vượt qua cơn khủng hoảng
tư tưởng của thế giới. Mặt khác, trong Giáo Hội Công Giáo,
nhiều người thấy rằng triết học tây phương chẳng những
không thể diễn tả hết thực tại Đức Tin, nhưng cịn có nhiều
điều trái ngược với nền tảng sâu xa của Đức Tin nữa.
Những điều đó khơng phải là khơng đúng. Tuy nhiên, việc
nhìn lại khoa triết lý tây phương trong viễn tượng thần học
6 Xc. Lê Tôn Nghiêm, Heidegger trước sự phá sản của tư tưởng Tây Phương,

Lá Bối 1970.


Kitô giáo không phải chỉ là một thứ bảo thủ hay "sính hàng

ngoại", nhưng nó là "vấn đề lịch sử"; nghĩa là dù sao đi nữa,
từ khởi đầu Kitô giáo cho đến nay, nền thần học Kitô giáo
vẫn chấp nhận nền tảng triết lý đó trong những nét căn bản.
Mặt khác, theo Renan, nền văn minh Tây Phương được dựa
trên hai cột trụ :
- Văn Minh Hy-La : mang lại những nền tảng đầu tiên của
lý trí, áp dụng trong nghệ thuật, văn chương, khoa học và
triết học.
- Tinh thần Do Thái-Kitô giáo : mang lại niềm tin tôn giáo.
Hai nguồn cội đó có khá nhiều điểm khác nhau, nhiều khi
trái ngược nhau. Thế mà chúng lại thường được trộn lẫn với
nhau, nhiều khi ngay trong một hệ thống triết lý hoặc thần
học7. Nếu chúng ta nhìn ra được những nét riêng của mỗi
nguồn ảnh hưởng và biện phân được những đường nét đó
trong các hệ thống triết lý vốn có liên can mật thiết đến thần
học Kitơ giáo, thì cơ may để tìm về gần hơn với thực tại cứu
độ có lẽ sẽ gia tăng hơn nhiều.
Một vài nhận định trên đưa chúng ta đến cách thức nghiên
cứu môn lịch sử triết học tây phương trong mối tương quan
7 Adolf

Harnack (1851-1930), trong cuốn Manuel d' Histoire du Dogme, đã
coi tín điều Kitơ giáo như hậu quả của một tiến trình hy- lạp-hóa sứ điệp
Kitơ Giáo. Xc Rosino Gibellini, Panorama de la Théologie au XX è. S.,
Edition du Cerf, Paris 1994, p.11.


với ơn gọi Kitô hữu (dĩ nhiên cũng bao hàm ơn gọi làm
người) và trong tương quan với sứ vụ của những người
"mục tử". Cách thức này rất dễ đưa đến những cái nhìn giáo

điều, hẹp hịi, đơn giản hóa vấn đề. Tuy thế, nó "thật" hơn;
"thật" trong thân phận con người, vì con người, trong tính
cách giới hạn căn bản của mình, ln phải khởi hành trong
sự can đảm dám liều; "thật" trong thực tế cuộc sống, vì
người ta khơng thể nào khởi đầu một hành trình mà khơng
có một "niềm tin" nào đó; và "thật" với chính mình, vì chúng
ta khơng thể nào tạm "cho vào trong ngoặc" niềm Tin của
mình. Chúng ta trân trọng đón nhận những lời tố cáo nói
trên như là một sự cảnh giác quí báu, để đừng dễ dãi lấy
niềm Tin che lấp thực tại. Niềm Tin đích thực phải thúc bách
chúng ta ln cố gắng tìm hiều sâu sắc hơn "huyền nhiệm
con người", chứ khơng phải cản trở con đường đó. Những
nhận định trên cũng đưa tới một số vấn đề cần phải làm sáng
tỏ :
• Kitơ giáo và thách đố của sự khơn ngoan.
• Vai trị của mỗi loại "tinh thần", "não trạng", của HyLa và Do Thái-Kitô giáo.


2. Kitô Giáo và Thách Đố của sự Khôn Ngoan Nhân
Loại8
Với tư cách là một Kitô hữu, vấn đề vai trò của triết học
được đặt ra giống hệt như dân Israel xưa và giống như thời
đầu của Kitô giáo : vừa như một thách đố, vừa như một hồng
ân.
Dân Israel vừa cố gắng tin vào Thiên Chúa lại vừa bị quyến
rũ bởi nền văn minh của các dân tộc chung quanh. Cám dỗ
về sự khôn ngoan của "nhân loại" như thế hình như là một
đường căn bản trong dịng lịch sử ơn Cứu Độ.
Cũng như dân Israel xưa, Giáo Hội sơ khai gồm phần lớn là
những người bị loại ra bên lề xã hội, bị loại trừ khỏi con

đường giải thốt bằng triết lý khơn ngoan của người Hy Lạp
(Xc.1Cr 1,26 tt).
Và cũng như dân Israel, người Kitô hữu thời sơ khai gặp
phải cũng gặp phải những thách đố của sự khôn ngoan hết
sức gay gắt; chúng ta nên đọc lại một lần nữa bản văn 1Cr
1,17-25 để thấy rõ tính chất "quan trọng" và "ác liệt" của
thách đố này.
Thật ra, triết học, là một giá trị "nhân bản" mà đời sống Đức
Tin đích thực phải giúp cho tăng triển hơn chứ khơng phải

8

Xc. Giáo trình Triết Học Nhập Mơn, Nguyễn Trọng Viễn.


xóa bỏ đi cách dễ dàng9. Bởi vì, niềm tin vào Thiên Chúa
chẳng những không loại bỏ niềm tin vào con người, mà lại
càng củng cố hơn nữa niềm tin đó. Tuy nhiên, nếu niềm tin
căn bản được đặt nơi Thiên Chúa, thì trước hết người ta phải
nhìn nhận sự bất lực căn bản của con người. Như thế, người
tín hữu khơng thể đặt niềm tin căn bản của mình vào một ai
khác, một giải pháp nào khác hơn chính Thiên Chúa và kế
hoạch cứu độ của Ngài.
Vấn đề nằm ở chỗ làm cách nào niềm tin Kitơ Giáo hồn
tồn có thể và phải dung hợp với những nỗ lực của con
người. Ở đây, ta thấy được nét độc đáo của độc đáo của mạc
khải Kitơ giáo, đó là tính cách "bao dung", trong đó Thiên
Chúa sử dụng con người khơng phải như một dụng cụ hồn
tồn thụ động, hồn tồn ù lì, nhưng như những "dụng cụ có
suy tư". Thiên Chúa khơng đọc chính tả cho thánh ký hay

cho Giáo Hội để xác định một các cứng ngắt chân lý mặc
khải, nhưng Ngài sử dụng, thánh hóa, chuẩn y khả năng của
con người để truyền thông Sứ Điệp của Ngài. Khơng có mặc
khải ở những nơi mà, cách này cách khác, khơng dính dáng,
khơng có lịng tha thiết với cuộc sống, khơng gắn bó với vận
mạng của con người (Xc. Kh 3,15-16).
Hơn nữa, nét riêng biệt của niềm tin Kitơ giáo là vai trị của
Chúa Thánh Thần, Đấng làm cho những chân lý mặc khải
9

Xc Vatican II, MV s.21c; s.34 c.


của Thiên Chúa trở thành chân lý của cuộc sống thực. Vai
trò của Chúa Thánh Thần trong dòng lịch sử ơn Cứu độ làm
cho "Thiên Chúa trọn vẹn là Thiên Chúa" và "con người
trọn vẹn là con người"; làm cho chân lý vừa ln vĩnh cửu,
vừa ln có một "sử tính"; làm cho sự sống của Thiên Chúa
"nhập thể" trọn vẹn vào cuộc sống con người, và nỗ lực của
con người trọn trẹn có thể trở nên siêu nhiên.
3. Não Trạng Do Thái - Kitô Giáo và não trạng Hy Lạp
Chúng ta ghi nhận một vài nét chủ đạo và cố gắng nhìn ra
điều này trong tư tưởng của các triết gia.
3.1. Ảnh hưởng chính của Do Thái-Kitơ Giáo
3.1.1 Ý tưởng "sáng tạo vũ trụ từ hư vô"
Với người Do Thái, vũ trụ khơng vĩnh cửu, ý tưởng này
hồn tồn xa lạ với tư tưởng Hy Lạp. Tư tưởng Do Thái, với
niềm Tin về Thiên Chúa sáng tạo và hoàn tất lịch sử trong
ngày Cánh Chung đã tạo nên khái niệm thời gian diễn tiến
theo đường thẳng, có khởi đầu và kết thúc. Vũ trụ chẳng

những lệ thuộc hoàn toàn vào Thiên Chúa và Ngài không lệ
thuộc hay bị điều kiện hóa do một ai khác. Người Hy Lạp
khơng biết đến sáng tạo nên cũng khơng có một quan niệm
về lịch sử đúng nghĩa. Người Hy Lạp quan niệm thời gian
đi theo đường vịng trịn; do đó, lịch sử khơng có tính chất
của một biến cố có tầm quan trọng khơng thể thay thế dịng
thời gian.


3.1.2 Ý tưởng về tính cách cá vị (personnalité) của
Thượng Đế
Người Sê-mít quan niệm Thiên Chúa có tính cách cá vị, có
quyết định, có tự do và có mối tương quan với con người
sống động. Nói tới tính cách cá vị là nói tới một nguyên lý
hoạt động bằng tự do, có lý trí và ý muốn. Trong khi người
Hy lạp thì coi Thần Thánh chỉ như một sự tự hiểu biết chính
mình, khơng biết đến ai khác; và được bộc lộ trong luật lệ
của thành bang.
Về bản chất con người cũng thế, người Israel không biết đến
não bộ như người Hy Lạp; trọng tâm của con người nằm
trong trái tim, bao gồm trí nhớ, "trí hiểu" và lịng muốn; và
trái tim là để đi đến một cách "biết" mang tính cách tương
quan ngơi vị. Trong khi đó, người Hy Lạp coi Thần Linh
như một sự khôn ngoan, "giản lược" vào luật lệ của thiên
nhiên hay của thành bang; do đó, điều cần thiết căn bản của
con người là "hiểu biết".
Do đó, đối với người Do Thái, con người là thụ tạo của
Thiên Chúa và được kêu gọi sống trong những mối tương
quan ngơi vị. Nét căn bản để hồn thành vận mạng con
người không phải là hiểu biết các định luật trong thiên nhiên

như người Hy Lạp, mà là hướng mở với một tha-thể, chính
yếu là đời sống thân tình với Thiên Chúa. Quan niệm đó làm
cho đời sống của người Do Thái được đặt trong khuôn khổ
sự trung tín với lời giao ước.… Trong khi đó, người Hy Lạp


đề cao sự hiểu biết thần minh, hiểu biết “qui luật của thần
minh, biểu lộ trong qui luật của thiên nhiên; do đó, yếu tố
quan trọng nhất trong đời sống con người là sự khơn ngoan
của lý trí.
3.2. Đóng góp của Hy Lạp
3.2.1 Thiết tha với tính cách khoa học
Trước tiên, người Hy Lạp là những người sáng tạo ra khoa
học, gồm những khoa học trừu tượng, tạo nên những đường
nét căn bản cho suy tư của người tây phương như toán học;
và những khoa học áp dụng, giúp tăng tiến rất nhanh khả
năng của nhân loại như y học, thiên nhiên học, sinh vật học.
Chính người Hy Lạp đã biết thay thế những ghi nhận đơn
giản của các dân tộc khác, chỉ hoàn toàn do kinh nghiệm,
bằng những nguyên tắc phổ quát, dựa trên những con số,
những hình dáng chung nhất, để có thể áp dụng cho nhiều
sự kiện riêng lẻ.
3.2.2 Siêu hình học tự nhiên
Người Hy Lạp đã sáng tạo ra khoa "siêu hình học tự nhiên",
tức là một cách thức, thuần túy bằng lý trí, để khám phá ra,
đằng sau những dáng vẻ bên ngoài của sự vật, những điều
bất biến và phổ quát. Đó là một "con mắt tinh thần" biết nhìn
thấy những cơ cấu nền tảng "siêu hình", nâng đỡ những sự
vật khả giác hữu hình.



3.2.3 Khoa triết học
Sau cùng, người Hy Lạp là những người đã sáng tạo ra văn
phạm, luận lý, biện chứng, triết học; mang lại cho khoa học
một dụng dụ phân tích độc đáo; hình thành một thứ ngơn
ngữ chính xác, uyển chuyển, giúp ích rất nhiều cho các ngơn
ngữ tây phương hiện nay. Chúng ta có thể kể một vài từ ngữ
và ý niệm thuần túy Hy lạp đã trở thành những yếu tố căn
bản trong ngôn ngữ và tư duy của người tây phương như :
"vô hạn", "tất yếu", "bản thể", "hữu thể", "nguyên lý", "thiên
nhiên", "mục đích", "trật tự", "chất thể", "mô thể".....
4. Một số khác biệt căn bản
Trong lịch sử, người ta còn kể ra những khác biệt như sau:
4.1 Người Hy Lạp coi cái hoàn hảo là cái đã hồn thành;
ngược lại, cái gì chưa hồn thành thì khiếm khuyết. Giá trị
này đã trái ngược lại hồn tồn với tư tưởng Do Thái Kitơ
giáo. Trong đức Tin, truyền thống Do Thái Kitô giáo mở
hướng đến siêu việt, coi Thiên Chúa là Đấng khơng có giới
hạn, vơ cùng. Lối nhìn đó đưa con người vào một nẻo đường
chỉ có thể hồn thành được nơi Thiên Chúa.
4.2 Theo Kinh Thánh, con người làm chủ và cao trọng hơn
thiên nhiên; chứ khơng phải con người bó buộc tn theo
các định luật tất định của thiên nhiên như trong tư tưởng Hy
Lạp. Nhưng việc làm chủ thiên nhiên này không nằm riêng
biệt mà là sứ mệnh của con người đối với Thiên Chúa.


4.3 Người Israel không phân biệt rõ ràng hai phần hồn xác
trong con người như người Hy Lạp. Quan điểm Kinh Thánh
nhìn con người như một tồn thể, thể hiện ra trong từng khía

cạnh, nhưng vẫn thuộc về một tồn thể. Thí dụ: "thân xác"
diễn tả tính mỏng dịn, sự giới hạn của tồn thể con người;
"thân xác" khơng đối lập với "linh hồn", nhưng đối lập với
"thần khí".
4.4 Mầu nhiệm tội lỗi được nói tới ngay trong khởi đầu của
lịch sử nhân loại, cho thấy một sự xao xuyến căn bản nào
đó trong thân phận con người. Con người trong viễn tượng
Kinh Thánh khơng có một sự lạc quan tự nhiên như các
phương thức triết lý luân lý của người Hy Lạp. Chẳng hạn
lập trường của Socrate là: không ai làm điều xấu một cách
cố tình; cịn thánh Phaolơ nói trong thư Roma là: "Sự thiện
tơi muốn thì tơi không làm, nhưng sự ác tôi không muốn tôi
lại cứ làm" (Rm 7,19).
4.5 Cái nhìn của Kinh Thánh mang tính cách cụ thể. Trong
Kinh Thánh, ta chỉ thấy kể một chuỗi các hành động, hầu
như khơng có từ ngữ trừu tượng. Để nói về "sự hiểu biết"
như người Hy Lạp, người Do Thái nói "mở tai", hoặc từ
"biết" được hiểu là cả một mối liên hệ thân quen. Thiên
Chúa của Dân Israen cũng không phải là do từ suy tư mà
khám phá ra như với người Hy Lạp, nhưng do kinh nghiệm
hành động của Thiên Chúa trong lịch sử.
***


Những đường nét đó khơng chỉ là những sự kiện quá khứ,
nhưng vẫn còn những ảnh hưởng sâu đậm, cách này cách
khác, trong những suy tư triết học cũng như trong tâm thức
của con người Tây Phương. Quả thật, người Tây Phương là
những người con thiêng liêng của Kitô giáo và là những
người con tinh thần của đất nước Hy lạp.

Kết
Với hướng làm việc riêng, chúng ta sẽ luôn đối chiếu những
suy tư triết học Hy La với những chân lý đức Tin Kitơ giáo,
điều đó có thể giúp chúng ta nhận ra những đường nét riêng
biệt và độc đáo của Kitơ giáo…
Với người Kitơ hữu, triết lý khơng có chức năng giải quyết
vận mạng con người; vì điều đó chỉ có nơi Ơn Cứu Độ của
Đức Giêsu mà thơi. Nhưng triết lý thực sự lợi ích, xét như
là một cách thức nhìn, là một phương tiện để soi xét cuộc
đời, để thấy rõ những tầng sâu trong cuộc sống và những gì
bao quanh cuộc sống của con người. Như thế, triết lý giúp
ta thấy những nét đẹp tiềm ẩn của cuộc đời và đồng thời
cũng phải cho thấy những bế tắc căn bản của vận mạng con
người. Người Kitô hữu trưởng thành không sợ triết học, mà
cũng không thể mê say triết học như là triết học; bởi vì triết
học chỉ có thể là nẻo đường hướng tới chân lý, chứ khơng
phải là chính chân lý.


Có thể, chính khi triết lý tự nhận thấy giới hạn của mình và
giúp nhìn ra sự bất lực căn bản của con người thì triết lý lại
làm trọn vẹn hơn sứ mạng của Người Chỉ Đường.


Bài Đọc Thêm
1/ Đức Gioan-Phaolô II, Tông Huấn "Các Mục Tử", ban
hành ngày 25-3-1992 :
"Học hỏi triết lý là một yếu tố nền tảng của việc huấn
luyện trí thức. Việc học hỏi này đưa đến sự hiểu biết
và giải thích sâu xa hơn về ngôi vị, về tự do, về các

mối tương quan của họ với thế giới và với Thiên
Chúa. Việc này hết sức cấp thiết, trước hết, do mối
liên hệ giữa các vấn đề triết lý và các mầu nhiệm cứu
độ, được nghiên cứu trong thần học, theo ánh sáng
Đức Tin, nhưng cũng do hoàn cảnh khá phổ biến của
nền văn hóa hiện nay, trong đó thuyết chủ quan được
đề cao như thước đo và tiêu chuẩn của chân lý. Khi
đó, chỉ có một nền triết lý lành mạnh mới có thể giúp
các ứng sinh linh mục phát triển ý thức phản tỉnh về
mối tương quan có tính cách xây dựng giữa lý trí con
người và chân lý, một chân lý được mặc khải trọn vẹn
cho ta qua Đức Giêsu Kitơ".
(...) "Đức Giáo Hồng Phaolơ VI nói : "Đức Kitô đã
nên người đồng thời với một số người, và đã tự bộc
lộ trong ngôn ngữ của họ. Trung thành với Đức
Giêsu tức là làm thế nào để Người tiếp tục là một
người đồng thời với chúng ta" ( số 52).
2/ Vatican II nhìn về lịch sử nhân loại


"Nhân loại ngày nay đang sống vào một giai đoạn
mới trong lịch sử của mình. Đó là giai đoạn chất
chứa những đổi thay sâu xa và mau chóng đang dần
dần lan rộng tới toàn thể hoàn cầu. Những thay đổi
do óc thông minh và nỗ lực sáng tạo của con người
khơi dậy, đang trở lại ảnh hưởng trên chính con
người, trên những phán đoán và ước vọng cá nhân
hay tập thể con người, trên cách suy tư và hành động
đối với sự vật cũng như con người. Như vậy, chúng
ta có thể nói đến sự biến đổi đích thực về mặt xã hội

cũng như văn hóa; sự biến đổi này đang lan tràn tới
cả đời sống tôn giáo".
"Cũng như trong bất cứ cơn khủng hoảng tăng
trưởng nào, sự biến đổi này kéo theo những khó khăn
khơng nhỏ. Chẳng hạn như đang khi bành trướng
q rộng quyền lực của mình, khơng phải lúc nào con
người cũng có thể bắt nó phục vụ mình. Cố gắng đi
sâu hơn vào thâm tâm mình, con người nhiều khi lại
tỏ ra hoang mang hơn về chính mình. Dị dẫm tìm
hiểu rõ hơn những luật lệ đời sống xã hội, con người
lại do dự không dám định đoạt hướng đi cho mình".


(...) "Do những hoàn cảnh phức tạp như thế chi phối,
rất nhiều người đương thời thấy khó lịng có thể nhận
chân được những giá trị trường cửu và đồng thời
cũng khó mà hịa hợp những giá trị ấy cho đúng với
những phát minh gần đây. Do đó, bị lay động giữa
hy vọng và âu lo, băn khoăn về sự xoay chuyển của
thế giới đang thách đố và thúc bách con người tìm
câu giải đáp".
(...) "Chính lịch sử đang biến chuyển q nhanh đến
nỗi từng cá nhân riêng rẽ khó lịng theo kịp. Vận
mạng cộng đoàn nhân loại trở nên một và khơng cịn
phân ra nhiều thứ lịch sử tách biệt nhau nữa. Như
vậy, từ một quan niệm tĩnh về vũ trụ, nhân loại đã
bước sang một quan niệm động và tiến hóa hơn; do
đó phát sinh những vấn đề hết sức phức tạp mới mẻ,
địi phải có những phân tích và tổng hợp mới".
(Vatican II, MV. 5-6)



Bài 1

KHÁI LƯỢC VỀ THỜI KỲ TRIẾT HỌC
TRUNG CỔ
1. Tên Gọi
Tùy theo quan điểm của sử gia, người ta gọi thời kỳ triết học
này với những danh hiệu như sau :
* Triết học Kitô giáo;
* Triết học thời Trung Cổ.
* Triết học Kinh Viện.
1.1. Triết học Kitô-giáo
Tên gọi này nhằm phân biệt với thời kỳ triết học Thượng
Cổ, được gọi là thời kỳ "triết học ngoại giáo". Xét riêng tên
gọi này10, ta thấy nó hàm hồ; vì tuy thời hồng kim của giai
đoạn này chính là thời của các triết gia Kitô giáo, nhưng
không thể dể dàng bỏ đi sự đóng góp của các triết gia Ả Rập
để dẫn đến thời hồng kim đó.

10

Lưu ý rằng, trong thời Trung Cổ, từ "triết gia" (philosophes) hầu như chỉ
được dùng để chỉ các nhà tư tưởng thời Thượng Cổ; còn từ "triết học"
(philosophie) lại được hiểu theo một nghĩa rất rộng, tương đương với các từ
"Khôn ngoan", "hiểu biết", "cách sống", "thế giới quan". Như thế, người ta
đã có thể dùng từ ngữ "triết học Kitô giáo" để chỉ một "sự khôn ngoan", một
"cách thức sống" của người Kitô hữu. Xc Delhaye, Sđd, trang 12.



Đúng hơn, có thể gọi thời kỳ này là thời kỳ triết học về tơn
giáo, vì nét chính yếu trong đó là nỗ lực muốn dung hịa
giữa niềm tin và lý trí. Ta có thể dùng tên gọi "triết học Kitô
giáo" cho riêng giai đoạn triết học Kinh Viện mà thơi.
Tên gọi "triết học Kitơ giáo" cịn bị đặt thành vấn đề, vì
theo một số học giả11, một triết gia đích thực khơng thể chấp
nhận trước một kết luận trên nẻo đường tìm kiếm của mình,
cho dù kết luận đó phát xuất từ niềm tin.
Đây là một phê bình có vẻ "nặng ký" và có tính triết lý. Tuy
nhiên, cũng chính vì muốn nại đến nét chính yếu của tinh

11Chẳng

hạn : M. Nédoncelle, trong Encyclopédie du Catholique du XX è
S, bài "Existe-t-il une philosophie chrétienne", diễn tả lập trường đó như sau
: "Nếu một triết gia là người Kitô giáo, thì ơng ta khơng có gì phải hổ thẹn
cả. Nhưng nếu ơng được nghe người ta hỏi : 'Vậy thì ông có một triết học
Kitô giáo' (hay hơn nữa một triết học "Cơng Giáo","Tin Lành". . .) thì có lẽ
ơng khơng được hãnh diện bao nhiêu mà có khi cịn rất bực tức là khác. Vì
hỏi như thế, người ta có ý tun bố hay nói với ơng hơn kém rằng : "Ơng
khơng phải là một triết gia theo nghĩa chính xác, vì ơng phải kêu gọi tới tơn
giáo của ông để làm sức mạnh cho những lý lẽ của ông. Vậy thưa ông, đó
chỉ là những tự phụ của ông; như thế có lẽ ông đã thiếu sự chuyên môn hay
thiếu khả năng".
Tuy nhiên, Nédoncelle đật vấn đề : "Nhận xét trên đây đã hiển nhiên và theo
đó, vấn đề đã được đặt xong"...."Không, sự việc không quá giản dị như thế
đâu. Trái lại nó cịn phức tạp là khác, nếu người ta biết suy nghĩ một chút"
(Trích lại trong Lê tôn Nghiêm, Lịch Sử Triết Hõc Tây Phương, Quyển 2,
Trung Tâm Sản Xuất Học Liệu, Bộ Văn hóa Giáo Dục và Thánh Niên,
trang112-114).



thấn triết lý như vậy mà lý lẽ này làm nẩy sinh nhiều tranh
luận và ta thấy cịn có nhiều điều phải làm cho sáng tỏ hơn.
Đồng ý rằng triết lý là "đi tìm", và tìm đến những nguyên
do cuối cùng của sự vật. Tuy nhiên, trong thực tế của cuộc
sống, người ta khơng bao giờ có thể tạm ngưng sống, hoặc
sống nháp để chờ cho đến khi đã tìm ra trọn vẹn nguyên do
cuối cùng của cuộc sống. Do đó, cuộc sống là một sự dấn
thân "liều lĩnh" và ln giả định một "niềm tin" nào đó có
trước, cho dù đó là niềm tin của triết lý, tơn giáo hay của
một thói quen mơ hồ nào đó. Ngay cả thái độ xác tín về tinh
thần "triết lý như một cuộc lên đường tìm kiếm", thái độ đó
cũng là một niềm tin giả định trước. Như thế, vấn đề đích
thực khơng cịn phải là có hay khơng có một niềm tin giả
định trước, mà là vấn đề niềm tin đó hoặc đã chi phối một
cách độc đoán, hoặc hướng dẫn một cách tự do; niềm tin đó
là một sự áp đặt hay là một chọn lựa tự nguyện; niềm tin đó
khơi gợi cho nẻo đường tìm kiếm hay bịt hết mọi nẻo đường
trong một khn khổ đóng kín. Nói như thế khơng có nghĩa
là niềm tin Kitơ giáo, trong thực tế lịch sử, khơng bao giờ
mang tính chất "độc đốn", "áp đặt", "đóng kín"; nhưng để
ta thử hỏi liệu những tính chất đó có phải là bản chất cố hữu
của niềm tin Kitơ giáo khơng12. Nói theo kiểu M. Maritain,
niềm tin chỉ là một tiêu chuẩn ngoại tại (critère extrinsèque)
của triết lý đích thực; hoặc như Blondel, triết học Kitơ giáo
12Xc.

Nguyễn Trọng Viễn, Triết Học Nhập Môn, trang 168-169.



là một thứ triết học ý thức về sự thiếu thốn của mình và
hướng mở tới mặc khải13.
Lối phê bình như trên, thật ra, khơng có ý nghĩa bao nhiêu
trong vấn đề "lịch sử triết học", (nhưng lại là vấn đề thực sự
có ý nghĩa trong phần triết học nhập mơn). Vì trong thực tế,
cho dù có phê bình thế nào đối với các "triết gia Kitô giáo",
người ta vẫn không thể nào loại bỏ một thánh Thomas,
chẳng hạn, ra khỏi bất cứ một giáo trình nào về lịch sử triết
học tây phương.
Tuy nhiên, nếu như chúng ta khơng hồn tồn đồng ý với lý
lẽ phê bình thứ hai này, thì khơng có nghĩa là ta khơng đồng
ý với kết luận của nó. Có lẽ, tính cách đơn sơ nhưng "liêm
chính" của lý lẽ thứ nhất đủ để chúng ta không nên dùng
danh xưng "triết học kitô giáo" cho thời kỳ này.
1.2. Triết học Kinh Viện
Danh xưng này lại mắc phải một khó khăn khác, vì nó qui
tất cả một thời kỳ triết học rộng lớn vào duy một giai đoạn,
cho dù đó là thời hồng kim. Dù sao, danh xưng này cịn ít
tinh thần tự mãn về tơn giáo như danh xưng trước. Ta có thể
tạm chấp nhận danh xưng này, xét vì giai đoạn đi trước thời
"hồng kim" cũng có thể được coi như giai đoạn chuẩn bị,
và thực sự cũng manh nha một thái độ kinh viện rồi.

13Xc.

Philippe Delhaye, Sđd, trang 12.


1.3. Triết học Trung Cổ

Danh xưng này phân chia lịch sử triết học theo tiêu chuẩn
của khoa sử học. Điều này khơng hồn tồn chính xác; vì
những diễn biến của triết học trong giai đoạn "sử học" này
chỉ có thể hiểu được với sự xuất hiện của Kitô giáo cũng
như với "triết học" của các giáo phụ.
Mặt khác, tên gọi "Trung cổ" (media aetas) là do những nhà
trí thức thời cận đại đặt ra với ý nghĩa xấu; họ coi đây chỉ là
một giai đoạn chuyển tiếp, khơng có giá trị gì. Tuy nhiên,
càng ngày người ta càng nhận ra những gía trị đích thực và
khơng phải là giá trị nhỏ của thời kỳ này14
Dù sao, tên gọi "trung cổ" đã trở thành phổ biến; và chúng
ta tạm chấp nhận trong tính cách tương đối của nó.
2. Thời kỳ
2.1. Khởi đầu
Như đã nói, ta chỉ có thể hiểu được tinh thần và các học
thuyết của thời kỳ triết học này với biến cố Kitô giáo. Biến
cố này, cùng với việc hình thành một "xã hội Kitơ giáo" tại
14

Chateaubriand (1768-1848) đã bắt đầu biết thán phục kiểu thánh đường
gothique mà chỉ trước đó một thời gian người ta cho là mọi rợ; Victor Hugo
(1802-1885), cùng trào lưu lãng mạn, đã tỏ ra có thiện cảm với thời kỳ này;
từ thế kỷ XIX có nhiều nhà nghiên cứu càng ngày càng tìm thấy những lý
do để thán phục thời kỳ này hơn; Verlaine gọi là thời kỳ "vĩ đại và tinh tế".
Xc. Jean Thoraval, Les Grandes Étapes de la civilisation francaise, p10.


Châu Âu, làm nên một sự thay đổi lớn trong tâm thức con
người tây phương.
Về thời kỳ "Trung Cổ" theo sử học, người ta có thể kể nhiều

cột mốc khởi đầu khác nhau, tùy theo nhận định của mỗi sử
gia :
- 395 : Năm hoàng đế Roma Théodore I qua đời, sau đó đế
quốc phân chia cho hai thái tử làm vua bên Đông và bên
Tây. Đế quốc Roma bất đầu tan rã vì những cuộc xâm lăng
của "man dân".
- 529 : Năm hồng đế Julien ra lệnh đóng cửa trường triết
học cuối cùng của người Hy Lạp ở Athènes.
- 476 : Odoacri lật đổ Romulo Augustus và lên chiếm ngai,
với danh hiệu Rex Gentium. Lịch sử bắt đầu bước vào một
khúc quanh mới.
2.2. Phân chia
2.2.1. Thế kỷ 1 - 5, Giai đoạn khởi đầu
Giai đoạn này khởi đầu với biến cố Kitô giáo và triết học
các giáo phụ. Khởi từ Đức Giêsu Nagiareth, tinh thần Kitô
giáo trở thành một trong hai cột trụ chính của nền văn minh
tây phương15, chẳng những như một truyền thống "tư
tưởng", có nguồn gốc xa xơi trong tinh thần sémitique và

15

Gồm Văn Hóa Hy-La và tôn giáo Kitô.


×