Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

TIỂU LUẬN TRIET HOC MACLENIN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (103.08 KB, 12 trang )

1

TIỂU LUẬN SỐ 15
HỌC VIÊN: NGUYỄN THỊ HỒNG
LỚP CH 28: LL & PPDH BỘ MÔN ANH
MÃ SỐ HỌC VIÊN: 208140111810016
ĐỀ TÀI:“Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và và vai trò của ý thức xã hội
đối với tồn tại xã hội.”
LỜI MỞ ĐẦU
Ý thức là một trong hai phạm trù cơ bản của triết học. Nó là hình thức cao phản ánh
thực tại khách quan, hình thức mà riêng con người mới có. Ý thức xã hội thuộc lĩnh vực
tinh thần của xã hội. Đó là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn, phong phú, phức tạp, thể hiện
ở hoạt động và sinh hoạt của mỗi cá nhân cũng như toàn thể cộng đồng xã hội; đồng thời
nó cũng thường xun tác động tích cực hoặc tiêu cực đến các hoạt động đó. Tác động
của ý thức xã hội đối với con người là vô cùng to lớn.
Hiện nay nước ta đang trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước
ta đi từ một điểm xuất phát thấp, chúng ta phải làm gì để tránh nguy cơ tụt hậu so với các
nước trong khu vực và trên thế giới? Câu hỏi này đặt cho mỗi chúng ta một vấn đề đó là
sự lựa chọn bước đi và trật tự ưu tiên để phát triển kinh tế, như vậy chúng ta cần có tri
thức, vì tri thức là khoa học. Tuy nhiên chỉ chú trọng vào tri thức mà bỏ qn cơng tác văn
hóa tư tưởng thì sẽ khơng phát huy được sức mạnh của truyền thống dân tộc. Ngoài ra
nước ta đang phát triển một nền kinh tế thị trường, đất nước ngày càng mở cửa vì thế cho
nên chúng ta có cơ hội được tìm hiểu các nền văn hóa của các nước, tuy nhiên đó cũng là
một phần lý do dẫn đến những vấn đề không tốt của tâm lý xã hội của con người Việt
Nam hiện nay.
Nghiên cứu về ý thức xã hội của triết học Mác để trang bị một phương pháp luận
khoa học cần thiết để nghiên cứu, khám phá những bí ẩn trong đời sống tinh thần của con
người và xã hội. Phương pháp luận đó cũng là một trong những cơ sở lý luận khoa học
của việc xác định chiến lược xây dựng và phát triển nền tảng tinh thần của xã hội Việt
Nam trên con đường xây dựng xã hội chủ nghĩa hiện nay. Vì vậy, việc tìm hiểu các hình
thái ý thức xã hội, tồn tại xã hội là rất cần thiết nên em chọn phân tích đề tài:


“Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và và vai trò của ý thức xã hội đối với tồn tại
xã hội.”


2

NỘI DUNG
I. Khái niệm tồn tại xã hội và ý thức xã hội:
1. Tồn tại xã hội:
Khái niệm tồn tại xã hội dùng để chỉ mặt sinh hoạt vật chất và các điều kiện sinh
hoạt vật chất của xã hội - tức là các điều kiện sinh hoạt vật chất khách quan quy định sự
sinh tồn, phát triển của xã hội.
Các yếu tố tạo thành tồn tại xã hội là điều kiện tự nhiên, dân cư và phương thức sản
xuất, trong đó phương thức sản xuất, là yếu tố cơ bản nhất.
2. Ý thức xã hội:
Khái niệm ý thức xã hội dùng để chỉ mặt tinh thần của đời sống xã hội, nảy sinh từ
tồn tại xã hội và phản ánh tồn tại xã hội; bao gồm trong đó tồn bộ đời sống tư tưởng và
tâm lý xã hội, được biểu hiện phong phú trong sinh hoạt tư tưởng, văn hóa, tập quán... của
mỗi cộng đồng xã hội.
Kết cấu cơ bản của ý thức xã hội bao gồm : Tâm lý xã hội và Hệ tư tưởng xã hội.
Các hình thái cơ bản của ý thức xã hội bao gồm: Hình thái ý thức chính trị; Hình
thái ý thức pháp quyền; Hình thái ý thức đạo đức; Hình thái ý thức khoa học; Hình thái ý
thức thẩm mỹ; Hình thái ý thức tôn giáo.
II. Mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội
1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội
Trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, tồn tại xã hội mang tính thứ
nhất, là cái gốc của sự phản ánh. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng tồn tại xã
hội thế nào thì ý thức xã hội phản ánh thế ấy, đời sống tinh thần của xã hội hình thành và
phát triển trên cơ sở đời sống vật chất, do đó khơng thể tìm nguồn gốc của tư tưởng, tâm
lý xã hội trong bản thân nó mà phải tìm trong hiện thực vật chất. Ý thức xã hội là sự phản

ánh tồn tại xã hội, bị quy định bởi tồn tại xã hội, phụ thuộc vào tồn tại xã hội. Ở những
thời kỳ lịch sử khác nhau, điều kiện đời sống, vật chất khác nhau thì ý thức xã hội cũng
khác nhau.


3

Tồn tại xã hội quyết định biến đổi ý thức xã hội. Khi tồn tại xã hội nhất là PTSX
biến đổi thì ý thức xã hội cũng biến đổi theo. Sự biến đổi của ý thức xã hội là sự phản ánh
đối với sự biến đổi của tồn tại xã hội. Sự biến đổi của một thời đại nào sẽ khơng giải thích
được nếu nếu chỉ căn cứ vào ý thức của thời đại đó điều này đã được C. Mác và Ăngghen
chứng minh.
Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội được thể hiện như sau:
Tồn tại xã hội quyết định sự ra đời, bản chất của ý thức xã hội; Tồn tại xã hội quyết định
nội dung của ý thức xã hội; Tồn tại xã hội quyết định tính chất của ý thức xã hội; Tồn tại
xã hội quyết định sự biến đổi của ý thức xã hội; Phương thức sản xuất vật chất quyết định
phương thức sản xuất đời sống tinh thần của xã hội.
2. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội và vai trò của ý thức xã hội đối với
tồn tại xã hội.
2.1. Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội
Quan điểm lịch sử về nguồn gốc của ý thức xã hội cũng chỉ ra rằng tồn tại xã hội
quyết định ý thức xã hội không phải một cách giản đơn, trực tiếp mà đa dạng, phong phú
bằng nhiều hình thức đặc thù, trải qua các khâu trung gian. Không phải bất cứ tư tưởng,
quan điểm, lý luận hình thái ý thức xã hội nào cũng phản ánh rõ ràng và trực tiếp những
quan hệ kinh tế của thời đại mà chỉ xét đến cùng thì những mối quan hệ kinh được phản
ánh bằng cách này hoặc cách khắc trong tư tưởng ấy. Mặt khác sự phản ảnh của ý thức xã
hội đối với tồn tại xã hội còn bị chi phối bởi cái chủ quan của chủ thể cộng đồng phản
ánh. Vì vậy, có thể khẳng định rằng, ý thức xã hội là sự phản ánh tồn tại xã hội, bị quyết
định bởi tồn tại xã hội, nhưng ý thức xã hội có tính độc lập tương đối so với tồn tại xã hội.
Tính độc lập tương đối của ý thức xã hội thể hiện ở 5 yếu tố cơ bản sau:

2.1.1 Ý thức xã hội thường lạc hậu hơn so với tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội, do đó khi tồn tại xã hội biến đổi thì ý thức
xã hội cũng biến đổi theo. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp, sự biến đổi của
tồn tại xã hội đều ngay lập tức dẫn đến sự biến đổi của ý thức xã hội. Lịch sử xã hội cho
thấy, nhiều khi xã hội cũ đã mất đi, thậm chí mất đi rất lâu nhưng ý thức xã hội do xã hội
đó sinh ra vẫn tồn tại. Trong đó có một bộ phận ý thức xã hội không phản ánh được
những thay đổi tất yếu của tồn tại xã hội, không đáp ứng yêu cầu phát triển của tồn tại xã
hội mới.
Khuynh hướng lạc hậu cũng biểu hiện rõ trong chủ nghĩa xã hội ở việt nam hiện nay.
Nhiều hiện tượng ý thức có nguốn gốc sâu xa trong xã hội cũ vẫn tồn tại trong xã hội mới
như lối sống ăn bám, lười lao động, tệ tham nhũng, chạy chức chạy quyền….
2.1.2. Ý thức xã hội có thể vượt trước tồn tại xã hội:
Trong những điều kiện nhất định, tư tưởng của con người đặc biệt là những tư tưởng
khoa học tiên tiến có thể vượt trước sự phát triển của tồn tại xã hội, dự báo được tương lai


4

và có tác dụng tổ chức chỉ đạo hoạt đơng thực tiễn của con người, hướng hoạt động đó
vào hướng giải quyết những nhiệm vụ mới do sự phát triển chín muồi của đời sống vật
chất của xã hội đặt ra. Khi khẳng định ý thức thức xã hội thường lạc hậu hơn tồn tại xã
hội, triết học Mác – Lênin đồng thời cũng chỉ rõ rằng trong những điều kiện nhất định, tư
tưởng của con người có thể vượt trước tồn tại xã hội.
Tuy nhiên, khi nói tư tưởng tiến bộ có thể có thể vượt trước tồn tại xã hội khơng có
nghĩa là trong trường hợp này, ý thức xã hội khơng cịn bị tồn tại xã hội quyết định mà đó
là kết quả của sự phản ánh chính xác, sâu sắc tồn tại xã hội.
2.1.3.Ý thức xã hội có tính kế thừa trong sự phát triển của mình
Điều này được chứng minh rằng, lịch sử phát triển đời sống tinh thần của xã hội
những quan điểm, lý luận của mỗi thời đại không xuất hiện trên mảnh đất trống không mà
được tạo ra trên cơ sở kế thừa những vật liệu lý luận của thời đại đi trước; ý thức của mỗi

cộng đồng là kết quả phản ánh tồn tại xã hội của họ và cả ý thức xã hội của các thời đại
trước và cả những ý thức của cộng đồng khác trong quá trình giao thoa, du nhập.
Cũng do ý thức có tính kế thừa trong sự phát triển cho nên sẽ không thể giải thích
được một tư tưởng nào đó nếu chỉ thuần túy dựa vào dựa vào những quan hệ kinh tế hiện
có. Lịch sử phát triển của tư tưởng cho thấy những giai đoạn lịch sử hưng thịnh hoặc suy
tàn của triết học, văn học, nghệ thuật,... nhiều khi không phù hợp hoàn toàn với những
giai đoạn hưng thịnh hay suy tàn của kinh tế. Tính kế thừa của ý thức xã hội nó mang
những đặc trưng cơ bản như: kế thừa có tính chọn lọc, tính giai cấp, chi phối bởi lợi
ích,...Trong xã hội có giai cấp, tính kế thừa của ý thức xã hội gắn với tính chất giai cấp
của nó. Những giai cấp khác nhau kế thừa những nội dung ý thức xã hội khác nhau của
các các thời đại trước. Ngược lại những giai cấp lỗi thời và các nhà tư tưởng của nó thì
tiếp thu, khơi phục những tư tưởng, những lý thuyết xã hội phản tiến bộ của những thời
kỳ lịch sử trước.
2.1.4. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý thức xã hội
Đây là quy luật phát triển của ý thức xã hội. Sự tác động qua lại giữa các hình thái ý
thức xã hội làm cho mỗi hình thái ý thức có những mặt, những tính chất khơng thể giải
thích được một cách trực tiếp từ tồn tại xã hội.
Lịch sử phát triển của ý thức xã hội cho thấy, ở mỗi thời đại, tùy theo từng hoàn
cảnh lịch sử cụ thể có những hình thái ý thức nào đó nổi lên hành đầu và tác động mạnh
đến các hình thái ý thức xã hội khác.
Trong sự tác động qua lại lẫn nhau giữa các hình thái ý thức trong xã hội có giai cấp
thì ý thức chính trị có vai trị đặc biệt quan trọng, theo đó ý thức chính trị của giai cấp
cách mạng định hướng cho sự phát triển theo chiều hướng tiến bộ của các hình thái ý thức
khác.


5

2.1.5. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Chủ nghĩa duy vật lịch sử không những chống lại luận điểm của chủ nghĩa duy tâm

tuyệt đối hóa vai trị của ý thức xã hội mà còn bác bỏ quan điểm duy vật tầm thường, chủ
nghĩa duy vật kinh tế phủ nhận tác dụng tích cực của ý thức xã hội trong đời sống xã hội.
Điều này đã được Ăngghen khẳng định. Sự tác động trở lại của ý thức xã hội đối với tồn
tại xã hội với nhiều khuynh hướng nó có thể thúc đẩy tồn tại xã hội phát triển mang tính
tích cực, nhanh hơn và ngược lại.
2.2. Vai trị của ý thức xã hội đối với tồn tại xã hội
Mức độ ảnh hưởng của tư tưởng đối với sự phát triển của tồn tại xã hội phụ thuộc
vào những điều kiện lịch sử cụ thể; vào tính chất của các mối quan hệ kinh tế mà trên đó
tư tưởng nảy sinh; vai trò lịch sử của giai cấp mang ngọn cờ tư tưởng; vào mức độ phản
ánh đúng đắn của tư tưởng đối với các nhu cầu phát triển xã hội; vào mức độ mở rộng của
tư tưởng trong quần chúng. Cũng do đó, cần phân biệt vai trị của ý thức tư tưởng tiến bộ
và ý thứ tư tưởng phản tiến bộ đối với sự phát triển của tồn tại xã hội nói riêng và đời
sống xã hội tổng thể nói chung.
Ý thức tư tưởng tiến bộ là những quan niệm, những quan điểm có tính khoa học và
cách mạng. Tính khoa học là tính chất chân lý của quan điểm nào đó, tức là, nội dung của
nó phản ánh đúng thực tại khách quan; cịn tính cách mạng là chỉ khả năng cải tạo khách
quan nếu vận dụng nó trong thực tiễn. Đồng thời tính cách mạng của những quan niệm,
quan điểm nào đó cịn là ở chỗ nó phản ánh lợi ích của người lao động (lực lượng sản
xuất hàng đầu của mọi xã hội) và đại biểu cho xu hướng phát triển của tồn tại xã hội mới
tiến bộ hơn, đại biểu cho xu hướng phát triển mới của lịch sử xã hội.
Tuy nhiên, những tư tưởng tiến bộ, khoa học và cách mạng không phải tự nó có vai
trị tích cực đối với sự phát triển của tồn tại xã hội. Theo quan điểm duy vật biện chứng,
cơ chế hay phương thức tác động của ý thức đối với vật chất bao giờ cũng phải thơng qua
hoạt động thực tiễn của con người. Vì vậy, vai trị tích cực của ý thức tiến bộ, khoa học và
cách mạng chỉ thể hiện trong thực tế làm cải biến tồn tại xã hội một khi nó thâm nhập vào
hoạt động của đông đảo quần chúng cách mạng. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi
quần chúng có được đội tiên phong của nó đại biểu cho nó, thực hiện việc tuyên truyền tư
tưởng tiến bộ, khoa học và cách mạng vào trong quần chúng lao động, nhờ đó mà tư
tưởng ấy có thể biến thành một lực lượng vật chất làm thay đổi tồn tại xã hội cũ và sáng
tạo ra tồn tại xã hội mới.

Có sự khác nhau về phương thức tác động của tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội
đối với tồn tại xã hội. Phương thúc tác động của tâm lý xã hội đối với tồn tại xã hội
thường có tính tự phát và trực tiếp, điều đó xuất phát từ bản chất của tâm lý xã hội là trực
tiếp gắn với tất cả các cá nhân và thể hiện trực tiếp trong hoạt động của họ. Ngược lại, các
hệ tư tưởng xã hội lai thường là sản phẩm trực tiếp của các nhà tư tưởng của mỗi xã hội,


6

của mỗi thời đại nhất định, mặc dù nội dung của nó là sự phản ánh đối với tồn tại xã hội
của tồn thể cộng đồng chứ khơng phải chỉ sự phản ánh riêng của nhà tư tưởng.


7

III. Ý nghĩa phương pháp luận
Tồn tại xã hội và ý thức xã hội là hai phương diện thống nhất biên chứng của đời
sống xã hội. Cần thấy rằng, thay đổi tồn tại xã hội là điều kiện cơ bản nhất để thay đổi ý
thức xã hội, mặt khác ta cũng thấy rằng không chỉ những biến đổi trong tồn tại xã hội mới
tất yếu dẫn đến những thay đổi to lớn trong đời sống tinh thần của xã hội, mà ngược lại,
những tác động của đời sống tinh thần xã hội, với những điều kiện xác định cũng có thể
tạo ra những biến đổi mạnh mẽ, sâu sắc trong tồn tại xã hội.
Quán triệt nguyên tắc phương pháp luận đó trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta, một mặt phải coi trọng cuộc cách mạng tư tưởng văn hóa, phát huy vai
trị tác động tích cực của đời sống tinh thần xã hội đối với q trình phát triển kinh tế và
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; mặt khác phải tránh tái phạm sai lầm chủ quan
duy ý chí trong việc xây dưng văn hóa, xây dựng con người mới. Cần thấy rằng chỉ có thể
thực sự tạo dựng được đời sống tinh thần của xã hội XHCN trên cơ sở cải tạo triệt để
phương thức sinh hoạt vật chất tiểu nông truyền thống và xác lập, phát triển được phương
thức sản xuất mới trên cơ sở thực hiện thành công sự công nghiệp hóa, hiện đại hóa

IV. Sự vận dụng lý luận đó vào thực tiễn đời sống hiện nay ở Việt Nam
Nước ta đang ở trong quá trình chuyển tiếp từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện
đại và nhiều người tưởng rằng cứ tập trung sức lực vào xây dựng công nghiệp, xã hội hiện
đại sẽ hiện ra, không hiểu rằng xã hội hiện đại không chỉ bắt nguồn từ trạng thái kinh tế
mà còn là một trạng thái văn hoá và tâm lý. Do vậy nếu chúng ta không tạo ra được
những con người cá nhân ngày càng độc lập, chủ động, có đạo đức thì chưa có đủ tiền đề
để đi tới xã hội hiện đại.
Trong công cuộc đổi mới đất nước, xây dựng ý thức xã hội mới là vấn đề bức thiết.
Xây dựng ý thức xã hội mới là sự nghiệp của toàn dân, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng,
trên cơ sở xây dựng và phát triển nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, vận dụng
sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp chặt chẽ
giữa “xây” và “chống”. Xây dựng ý thức xã hội mới, chúng ta cần phải đẩy mạnh cơng
nghệ mới, văn hố mới, con người mới; khơng ngừng hoàn thiện ý thức xã hội theo hướng
khoa học, cách mạng, tiến bộ; đồng thời tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục ý
thức xã hội mới.
Trong sự phát triển của mỗi cá nhân, ngoài các yếu tố thuận về chủ thể, họ còn bị chi
phối bởi quan điểm, tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, truyền thống của cộng đồng, tức là bị
chi phối bởi ý thức xã hội. Vì vậy, khi ý thức xã hội tiến bộ, lành mạnh sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển của cá nhân và ngược lại. Bởi thế, muốn xây dựng xã hội mới,
tất yếu phải xây dựng ý thức xã hội mới và việc xây dựng ý thức xã hội mới trở thành một
nhiệm vụ của công cuộc xây dựng xã hội mới.


8

Có thể hiểu ý thức xã hội mới mà chúng ta đang xây dựng là toàn bộ quan điểm, tư
tưởng, tình cảm, tâm trạng... của xã hội mới mà hạt nhân là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước phản ánh lợi ích căn
bản của nhân dân nhằm phục vụ công cuộc xây dựng xã hội mới. Trên thực tế, ý thức xã
hội mới đó biểu hiện rất phong phú, đa dạng. Ngồi hệ tư tưởng, nó cịn được biểu hiện ra

ở tâm trạng, tình cảm, nhu cầu và cả thói quen, phong tục, tập quán của cộng đồng xã hội.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Đảng ta đã xác định: "Xã hội xã hội chủ
nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh,
công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của
lực lượng sản xuất; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải
phóng khỏi áp bức, bất cơng, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển tồn diện;
các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đồn kết, tương trợ, giúp nhau cùng
tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước
trên thế giới". Có thể nói, mơ hình xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta đã xác định đó là
định hướng có tính chiến lược trong việc xây dựng ý thức xã hội mới ở nước ta hiện nay.
Ý thức xã hội mới là cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội mới; nó khơng hình
thành một cách tự phát trong lịng xã hội cũ; nó cần được chủ động nhận thức, xây dựng,
truyền bá thành ý thức chung của con người trong xã hội mới, thành động lực tinh thần
của con người trong quá trình xây dựng xã hội mới. Vì vậy, cần xây dựng ý thức xã hội
mới đáp ứng nhu cầu phát triển đất nước trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Trước hết, đó
là tri thức, tình cảm, quyết tâm kiên định con đường xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Bên cạnh đó, cần trang bị cho con
người những tri thức mới của thời đại, tri thức về kinh tế thị trường, hội nhập quốc tế, đặc
biệt là những tri thức về khoa học và công nghệ... Đó là u cầu tiên quyết trong q trình
xây dựng xã hội ta hiện nay. Đi cùng với nó là việc bồi dưỡng lý tưởng sống, hoài bão,
ước mơ, khát vọng cống hiến, đặc biệt là đối với thế hệ trẻ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh việc
xây dựng và phát huy ý thức làm chủ trong nhân dân, bồi dưỡng và phát huy lòng yêu nước,
ý thức về dân tộc và tinh thần đoàn kết dân tộc; nâng cao ý thức phịng chống tham nhũng,
lãng phí, trước hết là trong đội ngũ cán bộ Đảng viên.
Cùng với việc xây dựng, bồi dưỡng ý thức xã hội mới, cần chống những biểu hiện
cản trở sự nghiệp xây dựng đó.
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình lâu dài, phức tạp, để có hiệu quả, chúng ta
phải thực hiện đồng bộ các giải pháp sau:



9

Thứ nhất, đẩy mạnh công cuộc xây dựng đời sống kinh tế mới, văn hoá mới, con
người mới. Nghiên cứu sự vận động của lịch sử qua các thời kỳ, C.Mác và Ph.Ăngghen
đã khái quát: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại
xã hội của họ quyết định ý thức của họ”. Ý thức xã hội mới luôn bị chi phối bởi điều kiện
sinh hoạt vật chất, điều kiện kinh tế của xã hội mới. Vì vậy, xây dựng ý thức xã hội mới
phải bắt đầu từ việc xây dựng đời sống vật chất của xã hội mới. Những biểu hiện lệch lạc
trong đời sống tinh thần ở xã hội ta thời gian qua có nguyên nhân từ những yếu kém trong
cơng tác tư tưởng, nhưng cũng có ngun nhân từ những kết quả còn rất hạn chế trong
việc xây dựng nền kinh tế mới. Bên cạnh đó, xây dựng ý thức xã hội mới cũng phụ thuộc
rất nhiều vào kết quả xây dựng nền văn hoá mới, con người mới, bởi giữa kinh tế, văn hố
và con người ln có mối liên hệ chặt chẽ, gắn bó mật thiết với nhau, chi phối và ảnh
hưởng qua lại lẫn nhau.
Thứ hai, khơng ngừng hồn thiện ý thức xã hội mới theo hướng khoa học, cách
mạng, tiến bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng xã hội mới, con người mới.
Về mặt lý luận, chúng ta cần đẩy mạnh nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, kịp
thời làm sáng tỏ những vấn đề lý luận mà cuộc sống đang đặt ra, như vấn đề phát triển
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vấn đề xây dựng Đảng cầm quyền trong
điều kiện kinh tế nhiều thành phần, vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa...
Mặt khác, chúng ta cũng cần chú trọng vấn đề kế thừa và đổi mới những giá trị
truyền thống của dân tộc. Đó khơng chỉ là sự gìn giữ, bảo lưu các giá trị truyền thống, mà
cịn tiếp thu có chọn lọc các giá trị tinh thần được du nhập từ bên ngoài. Quá trình này cần
được nhìn nhận một cách cụ thể trong điều kiện cụ thể ở nước ta hiện nay. Lòng yêu nước
nồng nàn, lòng tự hào dân tộc là những giá trị tinh thần truyền thống, song trong điều kiện
hiện nay, nó cần được thể hiện ở tinh thần cần cù, sáng tạo, ý chí quyết tâm vượt khó để
cải tạo cuộc sống, đưa đất nước thốt khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu. Tinh thần đoàn

kết dân tộc phải được thể hiện thành tinh thần đồng thuận trên cơ sở giải quyết hài hồ lợi
ích cá nhân và lợi ích cộng đồng, xố bỏ mặc cảm về thành phần, giai cấp, dân tộc, tơn
giáo vì một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng,
dân chủ, văn minh.
Thứ ba, tăng cường công tác tư tưởng phải đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, phát
huy vai trị của các phương tiện thơng tin đại chúng trong quá trình tuyên truyền, giáo dục
ý thức xã hội mới.


10

Trong công tác tư tưởng, chúng ta cần bám sát thực tiễn, lắng nghe tâm tư, nguyện
vọng và tìm ra những vướng mắc trong tư tưởng của cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp
thời giải đáp. Tăng cường vai trị của báo chí, của các phương tiện thơng tin đại chúng
khác trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, định hướng
dư luận theo chiều hướng tích cực, đồng thời phê phán những quan điểm sai trái, luận
điệu phản động. Trong công tác giáo dục, tuyên truyền chủ nghĩa Mác-Lênin, cần tiếp tục
đổi mới nội dung, phương pháp và hình thức để việc tuyên truyền, giáo dục chủ nghĩa
Mác-Lênin hiệu quả hơn.
Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo của Đảng, mở rộng dân chủ, khơi dậy tính chủ
động, tự giác của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Xây dựng ý thức xã hội mới là quá trình đấu tranh gay go, phức tạp nhằm khắc phục
những tư tưởng, tập quán lạc hậu, làm thất bại cuộc tấn công về tư tưởng của các thế lực
phản động, kế thừa những giá trị tích cực trong truyền thống và hình thành ý thức xã hội
mới. Đây là quá trình lâu dài, phức tạp, địi hỏi tính tự giác cao. Vì vậy, thơng qua chủ
trương, chính sách, Đảng cần phải khắc phục những biểu hiện của khuynh hướng coi nhẹ
vai trò của nhân tố tư tưởng, chính trị, đạo đức. Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về
chính trị, tư tưởng và tổ chức trong các cơ quan báo chí, khắc phục những biểu hiện lệch
lạc trong hoạt động báo chí, xuất bản, văn hố, văn nghệ, nhất là những biểu hiện xa rời
tơn chỉ, mục đích, chạy theo thị hiếu thấp kém... Cùng với sự lãnh đạo của Đảng, cần mở

rộng các hình thức dân chủ để nhân dân có thể tham gia vào quá trình xây dựng ý thức xã
hội mới một cách chủ động và trực tiếp.
Sự nghiệp xây dựng ý thức xã hội mới phải là quá trình tự giác, cần sự đóng góp của
tất cả mọi người, trong đó đội ngũ cán bộ, đảng viên, các chủ thể lãnh đạo, quản lý có vai
trị đặc biệt quan trọng.
Ngồi ra, về hệ tư tưởng, đó là việc tập trung khắc phục tình trạng suy thối về tư
tưởng chính trị trong một bộ phận cán bộ, đảng viên với các biểu hiện như: dao động về
lý tưởng, mục tiêu và con đường phát triển của dân tộc; phủ nhận thành quả cách mạng và
giá trị truyền thống của dân tộc; thiếu thống nhất với các quan điểm, chủ trương của
Đảng, từ đó nói và làm khơng theo đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; ý thức
mất cảnh giác trước âm mưu và thủ đoạn “diễn biến hồ bình” của các thế lực thù địch;
không kịp thời và kiên quyết phê phán, đấu tranh với những ý kiến, quan điểm sai trái...
KẾT LUẬN


11

Ý thức xã hội, đời sống tinh thần là một hiện tượng do xã hội quy định không chỉ về
cơ chế phát sinh và phát triển, mà cả về tính chất tồn tại lẫn vai trị của nó trong đời sống
xã hội. Nó là một hiện tượng của xã hội, là dạng đặc thù của thực tại. Cho nên, theo em,
ý thức xã hội, đời sống tinh thần không phải là cái chung thuần tuý, mà được thể hiện
trong một hệ thống: "Con người-hoạt động-giao tiếp-xã hội-lịch sử-ngơn ngữ-văn hố"
Tính hệ thống của ý thức xã hội, của đời sống tinh thần thể hiện trong tiến trình vận
động và phát triển của các cá nhân kế tiếp nhau qua các chế độ chính trị -xã hội và các
thời đại khác nhau trong tiến trình phát triển của lịch sử.
Thế giới vẫn tồn tại khách quan và vận động theo quy luật khách quan địi hỏi ý thức
xã hội phải có những biến đổi phù hợp với nó, tuy nhiên ý thức xã hội biến đổi theo một
chiều hướng tiêu cực sẽ kìm hãm sự phát triển của sư vật hiện tượng.
Sự phát triển xã hội khơng chỉ có đời sống vật chất, mà cịn có đời sống tinh thần.
Đó là hai mặt khơng thể thiếu và giữa chúng có sự gắn bó, tác động tương hỗ có thể làm

giàu, phong phú cho nhau và cũng có thể kìm hãm nhau trong q trình phát triển. Bên
cạnh kinh tế, văn hố ln đóng vai trị quyết định trong q trình phát triển và sự trường
tồn của mỗi quốc gia, dân tộc. Hơn nữa, từ trong bản chất, văn hoá đã mang tính nhân
văn, chứa đựng cái đúng, cái tốt, cái đẹp được cộng đồng dân tộc sáng tạo, lưu giữ, truyền
lại cho thế hệ sau thành truyền thống văn hoá, thành hồn thiêng dân tộc. Các truyền thống
này được chuyển tải vào các lĩnh vực chính trị, đạo đức, pháp luật, nghệ thuật, tơn giáo,
v.v. tạo thành mơi trường văn hố nuôi dưỡng đời sống tinh thần mỗi cá nhân và cả cộng
đồng. Trong điều kiện hiện nay, văn hố cịn đóng vai trị quan trọng trong việc điều tiết
nền kinh tế thị trường theo hướng phát triển bền vững, hạn chế bớt những mặt trái của
kinh tế thị trường. Chính vì vậy, xây dựng và phát triển nền văn hố tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc là nội dung cốt lõi trong đời sống tinh thần xã hội, là nhiệm vụ quan trọng
trong sự nghiệp xây dựng xã hội mới.


12

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Tài, Phạm Văn Sinh. 2014. Giáo trình triết học. Nhà xuất bản đại
học sư phạm
2. Nguyễn Viết Thông, Phạm Văn Sinh. 2018. Giáo trình những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác-Lênin. Nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.



×