Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Những đổi mới cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (105.75 KB, 14 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH DOANH VÀ CÔNG NGHỆ HÀ NỘI

TIỂU LUẬN
CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Chủ đề 17:
Những đổi mới cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường và ảnh
hưởng của nó trong q trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
hiện nay.

Giảng viên hướng dẫn

:

Họ và tên

:

Lớp

:

Mã sinh viên

:


MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Sau 30 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng , bằng sự nỗ lực sáng tạo


của quần chúng , các nghành, các cấp, chúng ta đã vượt qua được khủng hoảng, đạt
được những thành tựu to lớn và rất quan trọng trong hoạt động thực tiễn trên nhiều
lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế tăng trưởng nhanh, chính trị ổn định, mở rộng
quan hệ kinh tế đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tận dụng nguồn
vốn và công nghệ, phát huy nội lực đất nước, đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại
hoá, bộ mặt kinh tế-xã hội thay da đổi thịt từng ngày, đời sống đại bộ phận nhân
dân được cải thiện rõ nét. Trong quá trình đổi mới, một trong những vấn đề tư duy
lý luận cốt lõi thuộc về đường lối là sự chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan
liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với mong muốn tìm hiểu các vấn đề khi xây dựng và phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như: vì sao chúng ta phải phát
triển kinh tế thị trường, xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, mục đích phát
triển kinh tế thị trường là gì, những ảnh hưởng, thành tựu và hạn chế của kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta... Vì vậy em đã chọn đề tài 17:
“Những đổi mới cơ chế kinh tế, xây dựng nền kinh tế thị trường và ảnh hưởng
của nó trong q trình xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay”.

3


NỘI DUNG
1. Đổi mới kinh tế ở Việt Nam là quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa.
1.1.

Sự đổi mới kinh tế ở Việt Nam.

1.1.1. Quá trình đổi mới kinh tế ở Việt Nam.
Đại hội lần thứ VI của Đảng được đánh dấu như một cái mốc quan trọng trong
việc chuyển đổi cơ chế. Trên cơ sở phê phán một cách nghiêm khắc cơ chế tập

trung quan liêu bao cấp mà nguồn gốc từ kinh tế hiện vật và những hậu quả của nó,
nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường (KTTT). Tổng kết hai năm thực hiện Đại
hội VI nền kinh tế phát triển, khắc phục được suy thoái, nền kinh tế xã hội đã có
những thay đổi căn bản, đó là những căn cứ để đẩy tới một bước cao hơn. Đại hội
lần thứ VII của Đảng nhất quán chuyển sang kinh tế thị trường với những quan
điểm khá triệt để: chấp nhận thị trường một cách cơ bản; tổng thể lâu dài, một thị
trường thống nhất thơng suốt hồ nhập với thị trường thế giới, thị trường là đối
tượng quản lý của Nhà nước.
Thực tế những năm qua ở nước ta đã chứng tỏ quá trình chuyển sang kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa là quá trình đổi mới tất yếu, tiến độ, nhưng
cũng là quá trình phức tạp lâu dài. Đó là q trình cách mạng khởi đầu bằng ý
nguyện của quần chúng, được Đảng nắm bắt, tổng kết, định hướng bằng cơ chế,
chính sách, là sự dũng cảm nhìn thẳng vào những sai lầm, khuyết điểm từ mơ hình
cũ với những quan điểm giản đơn từ đó quyết tâm đổi mới, coi đổi mới là vấn đề
sống còn của dân tộc, chấp nhận kinh tế thị trường bằng lý trí, tình cảm, bằng sự tìm

4


tòi thử nghiệm từ cuộc sống mà cách đây vài chục năm trong tư duy kinh tế còn là
cuộc đấu tranh gay gắt.
Những chuyển đổi đó thực sự tạo ra bước ngoặt kinh tế. Chỉ một thời gian
ngắn, đất nước có nhiều thay đổi. Bước đầu tình trạng suy thối dần dần được khắc
phục. Cuộc khủng hoảng kéo dài từ cuối thập kỷ 70 và gay gắt vào những năm 80
khi lạm phát ở mức cao. Song nhờ có sự cố gắng của tồn Đảng, tồn dân nền kinh
tế khơng những đứng vững mà còn tạo được những tiến bộ vượt bậc, đạt tốc độ
tăng trưởng khá liên tục. Tổng sản phẩm trong nước năm 1994 tăng 8,5%/năm,
trong đó sản xuất công nghiệp tăng 13%, sản xuất nông nghiệp tăng 45%, kim
ngạch xuất khẩu tăng 20,8%, lạm phát giảm dần thu hút được vốn đầu tư nước
ngoài với số vốn đăng ký 10 tỷ USD. Nền kinh tế bước đầu đã có tích luỹ nội bộ,

xuất khẩu và nhập khẩu đã lấy lại thế cân bằng, dần dần biết phát huy và tận dụng
được lợi thế so sánh trong quan hệ kinh tế quốc tế. Thành tựu nổi bật nhất trong
thời gian đó là sản phẩm nơng nghiệp phát triển, từ chỗ thiếu lương thực triền
miên, đến nay chúng ta đã có khả năng tự túc phần nào dự trữ và xuất khẩu.
1.1.2. Đổi mới nền kinh tế ở Việt Nam thành nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Do nước ta là nước XHCN nên khi đổi mới nền kinh tế thì đi theo nền KTTT
theo định hướng XHCN. KTTT theo định hướng XHCN là một khái niệm kép.
Định hướng theo nghĩa danh từ là nền kinh tế thị trường vận động và trong nó hàm
chứa và bị chi phối bởi tính chất XHCN. Và theo nghĩa động từ là tiến trình chế
định nền kinh tế thị trường theo nguyên tắc XHCN nhằm phục vụ CNXH.
Tổng hồ các nghĩa đó, KTTT theo định hướng XHCN ở Việt Nam là một
kiểu tổ chức nền kinh tế vừa dựa trên những nguyên tắc và qui luật của KTTT vừa

5


dựa trên và được dẫn dắt, chi phối bởi các nguyên tắc và bản chất CNXH, thể hiện
ba mặt sở hữu, tổ chức quản lý và phân phối.
1.2. Thế nào là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Lịch sử nhân loại đã chứng kiến nhiều mô hình kinh tế khác nhau. Mỗi mơ
hình đó là sản phẩm của trình độ nhận thức nhất định trong những điều kiện lịch sử
cụ thể. Nghiên cứu một cách nghiêm túc các mơ hình đó, cùng với thời gian và
kinh nghiệm thực tế chúng ta đã rút ra cho mình một cách nhìn đúng đắn hơn và
một sự lựa chọn thực tế hơn. Đó là chúng ta đã kịp thời chuyển sang nền KTTT
định hướng XHCN.
Trước tiên cần phải tìm hiểu khái niệm KTTT. Kinh tế thị trường được hiểu là
một kiểu kinh tế xã hội mà trong đó sản xuất và tái sản xuất xã hội gắn chặt với thị
trường, tức là gắn chặt với quan hệ hàng hoá, tiền tệ, với quan hệ cung - cầu. Trong
nền KTTT nét biểu hiện có tính chất bề mặt của đời sống xã hội là quan hệ hàng

hoá. Mọi hoạt động xã hội đều phải tính đến quan hệ hàng hố hay ít nhất thì cũng
phải sử dụng các quan hệ hàng hoá như là mắt, khâu trung gian.
Nền KTTT từ khi mới ra đời cho đến nay đã trải qua các giai đoạn khác nhau,
mỗi giai đoạn đều có đặc điểm riêng. Trong các giai đoạn đó đã từng có các nền
KTTT theo định hướng này hay theo định hướng khác. Đến bây giờ khi nước ta đổi
mới, nền kinh tế nước ta đã xác định được một định hướng đúng đắn cho nền
KTTT đó là định hướng XHCN.
KTTT định hướng XHCN theo quan điểm của Đảng ta là nền kinh tế hàng
hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước
theo định hướng XHCN. Về bản chất khác với KTTT tư bản chủ nghĩa, nền KTTT
định hướng XHCN là một nền kinh tế vì nhân dân, phục vụ nhân dân, lấy đời sống
nhân dân, công bằng xã hội làm mục tiêu để tăng trưởng kinh tế.
6


Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần tạo tiền đề để khắc phục trình trạng độc
quyền, tạo ra quan hệ cạnh tranh, động lực quan trọng thúc đẩy cải tiến kỹ thuật,
phát triển lực lượng sản xuất.
1.2.1. Ưu điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đảng ta đã xác định rõ vai trò của KTTT: cơ chế thị trường đã phát huy tác
dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội, nó chẳng những khơng đối lập
mà cịn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất
nước theo con đường XHCN.
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phát huy tính tích cực,
chủ động, sáng tạo của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội. Nhà nước quản lý
bằng chính sách, pháp luật, chiến lược, quy hoạch; sử dụng cơ chế thị trường để
giải phóng sức sản xuất. Nhà nước ban hành các văn bản quy phạm pháp luật nhằm
định hướng và tạo môi trường pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế và
các chủ thể kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa,
khơng phải thị trường điều tiết hồn tồn mà cịn có sự điều chỉnh, quản lý của Nhà

nước để đạt các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ, gắn phát
triển kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, khắc phục những bất cập,
khuyết tật của cơ chế thị trường.
1.2.2. Những hạn chế và khuyết điểm của kinh tế thị trường.
Kinh tế thị trường tuy có nhiều điểm mạnh nhưng bản thân nó vốn có những
giới hạn, những khuyết tật mang tính tự phát, hơn thế nữa quan hệ thị trường cịn là
mơi trường thuận lợi để phát sinh nhiều tiêu cực và tệ nạn xã hội. Thực tế những
năm qua cho thấy, bên cạnh những thành tựu, như làm ăn thuần túy chạy theo lợi
nhuận dẫn đến các hình thức lừa đảo, hối lộ, trốn thuế, nợ nần khó trả, thương mại
hố một cách tràn lan, xâm nhập vào các lĩnh vực dễ thương tổn như y tế, giáo dục,
văn hoá… làm cho giá trị đạo đức, tinh thần bị băng hoại và xuống cấp, đồng thời
7


đã chi phối nhiều quan hệ giữa người với người; sự phân hố giàu nghèo và bất
cơng xã hội có chiều hướng tăng lên; bởi sống ích kỷ, thực dụng có nguy cơ ngày
càng tăng.
Ví dụ điển hình là trong tình hình dịch bệnh hết sức phức tạp hiện nay, Đảng,
Nhà nước và nhân dân cùng nhau cố gắng bằng tiền và sức lực để ngăn chặn đại
dịch thì tại Trung tâm kiểm soát dịch bệnh (CDC) Hà Nội, một số đối tượng đã
nâng khống giá thiết bị vật tư y tế để trục lợi riêng cho cá nhân. Những người này
đã lợi dụng tính "cấp bách" của dịch bệnh để thực hiện "giao dịch" phi pháp.
Những người này đã chạy theo đồng tiền, bất chấp hậu quả phải gánh chịu mà làm
những việc trái với lương tâm, đạo đức.
Bởi vậy, Đảng ta chỉ rõ: "Vận dụng các hình thức và phương pháp quản lý nền
KTTT là để sử dụng mặt tích cực của nó, phục vụ mục đích xây dựng XHCN chứ
không phải đi theo con đường TBCN".
2. Ảnh hưởng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong
quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam hiện nay.
2.1. Ảnh huờng tích cực

Thứ nhất, về tốc độ tăng trưởng kinh tế. Trong hơn 30 năm qua (1986-2019),
tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta, tuy có sự dao động nhất định, song vẫn ở mức
cao hơn trung bình khu vực và thế giới với mức tăng bình quân cả thời kỳ gần
7%/năm. Chất lượng tăng trưởng từng bước được cải thiện, trình độ cơng nghệ
trong sản xuất được nâng lên. Đóng góp của yếu tố năng suất các nhân tố tổng hợp
(TFP) vào tăng trưởng GDP giai đoạn 2001-2005 đạt 21,4%, giai đoạn 2006-2010
đạt 17,2%, đến giai đoạn 2011-2015 tăng lên 28,94%. Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm
phát được kiểm sốt, nợ cơng có xu hướng giảm dần, dự trữ ngoại tệ tăng, đạt mức
an toàn.

8


Thứ hai, về tốc độ tăng kim ngạch xuất nhập khẩu . Từ năm 1986, nước ta
thực hiện mơ hình nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, mở cửa, hội nhập với
khu vực và quốc tế, nhờ đó sức sản xuất trong nước được giải phóng, các thành
phần kinh tế phát triển, đầu tư trực tiếp nước ngoài ngày càng tăng. Nhu cầu tiêu
thụ, trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong nước và quốc tế không ngừng mở rộng.
Thứ ba, về các vấn đề an sinh xã hội. Với mục tiêu định hướng XHCN, Đảng
ta luôn thống nhất quan điểm tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với tiến bộ và cơng
bằng xã hội. Do đó, các vấn đề về an sinh xã hội cơ bản được đảm bảo, hệ thống an
sinh xã hội và phúc lợi cho mọi người đều phát triển khá đồng bộ và ngày càng
được cải thiện. Lĩnh vực y tế, chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày càng được quan
tâm như: Tích cực triển khai nhiều giải pháp giảm quá tải bệnh viện; Tập trung đầu
tư xây dựng hệ thống các bệnh viện tuyến huyện, tuyến tỉnh và tuyến cuối. Đội ngũ
cán bộ y tế phát triển cả về số lượng và chất lượng đối với cả y tế công lập và tư
nhân.
2.2. Tác động tiêu cực.
Đổi mới chính trị đơi khi chưa bắt kịp đổi mới kinh tế, nên tạo ra nhiều
khoảng trống pháp lý; nhiều cơ chế, chính sách cịn thiếu, chưa đáp ứng kịp nhu

cầu phát triển của nền kinh tế. Nhiều chính sách hiện khơng cịn phù hợp, thậm chí
cản trở sự phát triển.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta cao hơn mức trung bình của khu vực và
thế giới, song chất lượng tăng trưởng chưa cao, tỷ lệ đóng góp của TFP vào tăng
trưởng GDP cịn thấp.
Mặc dù Đảng, Nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi, ban hành nhiều chính
sách hỗ trợ về cơ sở vật chất, đào tạo nghề, hướng nghiệp để các hộ nghèo, hộ cận
nghèo, các hộ kinh tế cá thể, doanh nghiệp vừa và nhỏ vươn lên làm giàu, xích lại
gần với nhóm trung lưu, giầu có trong xã hội. Song, khoảng cách giữa nhóm người

9


giầu và nhóm người nghèo về thu nhập vẫn khơng giảm, mà có xu hướng ngày
càng tăng.
Giáo dục - đào tạo và chăm sóc y tế khơng được Nhà nước bao cấp như cơ
chế cũ, nên phần đông số người nghèo khơng đủ tiền chữa bệnh, con em khơng có
tiền đóng học phí phải bỏ học. Như vậy, sẽ dẫn đến tình trạng một bộ phận khá lớn
lực lượng lao động trong tương lai sẽ khơng đủ sức khỏe, trình độ văn hóa, trình độ
chun mơn nghiệp vụ, sẽ rất khó tham gia vào các hoạt động kinh tế - xã hội, gây
áp lực lớn đối với vấn đề giải quyết việc làm.
2.3. Giải pháp khắc phục.
Thống nhất và nâng cao nhận thức về phát triển kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, xác định “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ
hình kinh tế tổng quát của nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Đó
là nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập quốc tế, vận hành đầy đủ, đồng bộ theo
các quy luật của kinh tế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; bảo đảm định hướng xã hội chủ
nghĩa vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Nền kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa Việt Nam có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong
đó: kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế tập thể, kinh tế hợp tác không
ngừng được củng cố, phát triển; kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng; kinh tế
có vốn đầu tư nước ngồi được khuyến khích phát triển phù hợp với chiến lược,
quy hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Kinh tế nhà nước là công cụ, lực
lượng vật chất quan trọng đế Nhà nước ổn định kinh tế vĩ mô, định hướng, điều
tiết, dẫn dắt thúc đẩy phát triển kinh tế, xã hội, khắc phục các khuyết tật của cơ chế
thị trường. Các nguồn lực kinh tế của Nhà nước được sử dụng phù hợp với chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển đất nước và cơ bản được phân bổ theo cơ chế
thị trường.

10


Tiếp tục hoàn thiện đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa, tập trung tháo gỡ các điểm nghẽn. Xây dựng và thực thi pháp luật, chiến
lược, quy hoạch, kế hoạch nâng cao chất lượng, hiệu quả quản trị quốc gia. Xây
dựng khung khổ pháp luật, môi trường thuận lợi thúc đẩy phát triển, khởi nghiệp,
đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, phát triển kinh tế số; hỗ trợ, khuyến khích sự ra
đời, hoạt động của những lĩnh vực mới, mơ hình kinh doanh mới. Tập trung sửa
đổi những quy định mâu thuẫn, chồng chéo, cản trở phát triển kinh tế. Đẩy mạnh
cải cách thủ tục hành chính, phân cấp, phân quyền, ủy quyền gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương, trách nhiệm cá nhân và nâng cao trách nhiệm phối hợp giữa các
cấp, các ngành.
Phát triển đầy đủ và đồng bộ thị trường các yếu tố sản xuất, nhất là các thị
trường quyền sử dụng đất, khoa học, công nghệ. Bảo đảm đầy đủ quyền tự do, an
toàn trong hoạt động kinh doanh; huy động, phân bổ, sử dụng hiệu quả các nguồn
lực theo nguyên tắc thị trường”. Xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý, thử
nghiệm cơ chế, chính sách đặc thù để thúc đẩy quá trình chuyển đổi số, kinh tế số,
phát triển các mơ hình kinh tế mới, khởi nghiệp sáng tạo, cung cấp dịch vụ công,

quản lý và bảo vệ môi trường... Nhà nước thực hiện tốt chức năng xây dựng và
quản lý thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, cơ chế, chính sách, phân bổ
nguồn lực theo cơ chế thị trường. Bảo vệ quyền sở hữu tài sản hợp pháp và quyền
tự do kinh doanh, thực thi hợp đồng của người dân, doanh nghiệp theo quy định
của pháp luật. Sử dụng thể chế, các nguồn lực, công cụ điều tiết, cơ chế, chính sách
phân phối, phân phối lại để phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội,
bảo đảm an sinh, nâng cao phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường.
3. Liên hệ bản thân.
Về phía thế hệ trẻ Việt Nam, mà cụ thể bản thân em là sinh viên phải có trách
nhiệm tham gia một cách tích cực có hiệu quả vào q trình thực hiện các mục tiêu

11


của Đảng và Nhà nước đề ra trong hội nhập kinh tế quốc tế. Muốn vậy chúng em
phải ra sức phấn đấu học tập, rèn luyện để có được trình độ, năng lực và bản lĩnh.
Phải trung thành tuyệt đối với đường lối xây dựng đất nước nói chung và mở
rộng kinh tế đối ngoại nói riêng của Đảng và Nhà nước ta. Luôn trau dồi đạo đức,
lý tưởng cách mạng, có lối sống văn hóa để trở thành những người có phẩm chất
tốt đẹp, có khí phách và quyết tâm hành động thực hiện thành công sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Phải hiểu biết một cách nhuần nhuyễn các qui luật của nền kinh tế thị trường
vận động trong các lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội ở các khâu sản xuất, phân
phối, trao đổi và tiêu dùng, ở các hoàn cảnh cụ thể của thị trường trong nước và thị
trường thế giới để vận dụng một cách sáng tạo vào việc giải quyết các cơng việc
sản xuất kinh doanh đối ngoại của mình, đạt hiệu quả cao nhất, hạn chế thấp nhất
những thiệt hại do sự rủi ro hoặc thiếu trách nhiệm gây ra.
Khơng ngừng học tập bồi dưỡng để nâng cao trình độ nghiệp vụ chun mơn
và trình độ ngoại ngữ, trình độ hiểu biết luật pháp đặc biệt là luật kinh tế để giải
quyết một cách thông thạo các quan hệ giao dịch và kinh doanh ngang tầm đòi hỏi

của thị trường thế giới.
Làm cơng việc gì, ở đâu, với nước nào, cũng đều phải đặt lợi ích quốc gia, lợi
ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Trong bất cứ trường hợp nào cũng đều phải giữ
vững mục tiêu đưa nền kinh tế nước ta đi theo định hướng XHCN, khơng vì lợi ích
kinh tế trước mắt mà đánh mất lợi ích chính trị xã hội lâu dài.

12


KẾT LUẬN
Với việc áp dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào công cuộc đổi mới kinh tế ở
Việt Nam, chúng ta đã có được một nền kinh tế thị trường năng động, một nền kinh
tế theo định hướng XHCN với những thành tựu hết sức to lớn. Bên cạnh những
thành tựu đã đạt được, nền kinh tế nước ta vẫn còn những hạn chế nhất định, đất
nước ta vẫn còn chậm phát triển so với khu vực và thế giới. Chúng ta cần phải áp
dụng các giải pháp hợp lý để cải thiện tình hình đặc biệt chú trọng đến sự vận dụng
đến sự vận dụng sáng tạo để có được một nền KTTT hồn chỉnh, phát huy hết tính
ưu việt của nó và tránh được những sai lầm của nền KTTT của các quốc gia khác.
Muốn có một xã hội ổn định thì việc quan trọng là phải phát triển kinh tế.
Thực tế cho thấy những năm qua kinh tế Việt Nam luôn giữ được mức phát triển
ổn định, lạm phát tham nhũng giảm dần… đó đều là do sự lãnh đạo sáng suốt, kịp
thời của Đảng và Nhà nước. Trong tình hình dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức
tạp hiện nay, chúng ta đã và đang phải hi sinh đi lợi ích kinh tế để đảm bảo an tồn
tính mạng cho nhân dân. Tuy nhiên với niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà
nước, chúng ta hi vọng dịch bệnh sẽ mau chóng được kiểm sốt và cuộc sống
người dân trở lại bình thường để có thể phát triển, mở cửa lại nền kinh tế.

13



TÀI LIỆU THAM KHẢO

-

Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học – ĐH Kinh doanh và Cơng

-

nghệ Hà Nội.
Giáo trình Kinh tế chính trị Mác – Lenin – ĐH Kinh doanh và Công

-

nghệ Hà Nội.
/>
14



×