Tải bản đầy đủ (.pdf) (41 trang)

nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (507.8 KB, 41 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN







NGUYỄN PHƯỚC VINH







NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SỬ DỤNG
CÁM SẤY VÀ CÁM LI TRÍCH DẦU
CỦA CÁ RÔ PHI (Oreochromis niloticus)







LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN









2006
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA THỦY SẢN






NGUYỄN PHƯỚC VINH






NGHIÊN CỨU KHẢ NĂNG SỬ DỤNG
CÁM SẤY VÀ CÁM LI TRÍCH DẦU
CỦA CÁ RÔ PHI (Oreochromis niloticus)






LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH NUÔI TRỒNG THỦY SẢN




CÁN BỘ HƯỚNG DẪN
DƯƠNG THÚY YÊN
TRẦN LÊ CẨM TÚ





2006
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)
iii
MỤC LỤC
Lời cảm tạ i
Tóm tắt ii
Mục lục iii
Danh sách bảng v
Danh sách hình vi
Chương 1: Giới thiệu 1
Chương 2: Tổng quan tài liệu 3
2.1 Đặc điểm sinh học của cá rô phi (Oreochromis niloticus) 3
2.1.1 Đặc điểm phân loại 3
2.1.2 Đặc điểm hình thái 3

2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng 3
2.1.4 Đặc điểm và nhu cầu dinh dưỡng 4
2.2 Nghiên cứu sử dụng nguyên liệu thực vật trong nuôi thủy sản 5
2.2.1 Những nghiên cứu về các nguyên liệu thực vật 5
2.2.2 Những nghiên cứu về cám 5
2.3 Nghiên cứu về độ tiêu hóa của cá 6
2.3.1 Ý nghĩa của độ tiêu hóa trong việc đánh giá thức ăn 6
2.3.2 Những nghiên cứu về độ tiêu hóa 7
Chương 3: Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 9
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài 9
3.2 Đối tượng thí nghiệm 9
3.3 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu 9
3.3.1 Thí nghiệm 1 9
3.3.2 Thí nghiệm 2 11
3.3.3 Phân tích, tính toán và xử lý số liệu 13
Chương 4: Kết quả và thảo luận 15
4.1 Thí nghiệm 1 15
4.1.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 15
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)
iv

4.1.2 Kết quả phân tích mẫu thức ăn thí nghiệm 15
4.1.3 Độ tiêu hóa của cá rô phi 15
4.2 Thí nghiệm 2 17
4.2.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm 17
4.2.2 Kết quả phân tích mẫu thức ăn thí nghiệm 17
4.2.3 Ảnh hưởng của thức ăn lên tỉ lệ sống, sinh trưởng, hiệu quả sử dụng thức
ăn và thành phần hóa học của cá rô phi 18
Chương 5: Kết luận và đề xuất 26

5.1 Kết luận 26
5.2 Đề xuất 26
Tài liệu tham khảo 27
Phụ lục 31

















Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)
v

DANH SÁCH BẢNG
Bảng 3.1: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 1 10
Bảng 3.2: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 2 12
Bảng 4.1: Độ tiêu hóa của cá rô phi 15
Bảng 4.2: Các yếu tố môi trường trong thí nghiệm 2 17

Bảng 4.3: Kết quả phân tích thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 2 18
Bảng 4.4: Sinh trưởng của cá rô phi qua 60 ngày thí nghiệm 20
Bảng 4.5: Hệ số thức ăn của cá rô phi qua 60 ngày thí nghiệm 21
Bảng 4.6: Thành phần hóa học cơ thể cá rô phi trước và sau thí nghiệm 22




















Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)
vi

DANH SÁCH HÌNH
Hình 2.1: Cá rô phi (Oreochromis niloticus) 3

Hình 3.1: Hệ thống bể thí nghiệm 1 9
Hình 3.2: Hệ thống bể thí nghiệm 2 11
Hình 4.1: Sinh trưởng của cá rô phi qua 60 ngày thí nghiệm 19
Hình 4.2: Thành phần hóa học (đạm, chất béo) cơ thể cá rô phi 23
Hình 4.3: Cá rô phi ở nghiệm thức cám sấy 60% 25
Hình 4.4: Cá rô phi ở nghiệm thức cám li trích 60% 25








Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)
ii

TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm đánh giá khả năng sử dụng 2 loại nguyên liệu phổ biến
được sử dụng trong chế biến thức ăn là cám sấy và cám li trích dầu của cá rô
phi vằn (Oreochromis niloticus) dòng GIFT thông qua việc xác định độ tiêu
hóa và mức cám thích hợp trong thức ăn của cá rô phi.
Trong thí nghiệm xác định độ tiêu hóa, 3 nghiệm thức thức ăn được trộn chất
đánh dấu cromic oxide (Cr
2
O
3
) với tỉ lệ 1% trong nghiệm thức đối chứng
(không chứa cám), 2 nghiệm thức còn lại chứa 30% cám và 70% thức ăn đối

chứng. Cá rô phi có khối lượng trung bình ban đầu là 35 g/con được bố trí
trong hệ thống 9 bể (100 L/bể) có sục khí với mật độ 10 con/bể. Cá được cho
ăn 1 lần/ngày thỏa mãn theo nhu cầu. Phân được thu bằng cách dùng vợt vớt
những sợi phân. Kết quả độ tiêu hóa nguyên liệu (61,1%) và năng lượng
(65,6%) trong cám li trích dầu của cá rô phi cao hơn so với cám sấy (tương
ứng là 48,1% và 57,7%). Độ tiêu hóa đạm trong 2 loại cám của cá rô phi gần
tương đương nhau, 75,4%-77,1%. Như vậy, khả năng tiêu hóa cám li trích dầu
và năng lượng trong cám của cá rô phi cao hơn so với cám sấy.
Trong thí nghiệm 2, cá rô phi (khối lượng trung bình ban đầu 20 g/con) được
bố trí trong hệ thống 24 bể (500 L/bể) có sục khí với mật độ 20 con/bể và
được cho ăn 8 nghiệm thức thức ăn có chứa 2 loại cám sấy và cám li trích dầu
với hàm lượng cám thay đổi từ 30-60%. Các loại thức ăn được phối chế có
cùng mức đạm (25%) và năng lượng (4 kcal/g). Cá được cho ăn 2 lần/ngày với
lượng thức ăn từ 4-6% khối lượng thân. Sau 60 ngày thí nghiệm, tỉ lệ sống của
cá rô phi đạt tương đối cao, từ 80-93,3%. Theo mức tăng của hàm lượng cám
trong thức ăn, đặc biệt là đối với cám li trích, tăng trưởng của cá rô phi tăng và
hệ số thức ăn giảm. Cá được cho ăn thức ăn chứa cám li trích 60% có tốc độ
tăng trưởng đặc biệt (SGR) cao nhất (2,01%/ngày), hệ số thức ăn thấp nhất
(2,37) và khác biệt có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại. Thành
phần hóa học cơ thể cá rô phi có sự khác biệt rõ giữa trước và sau thí nghiệm
cũng như giữa các nghiệm thức (P<0,05). Tóm lại, cám li trích dầu cho kết
quả tăng trưởng, độ tiêu hóa và chuyển hóa thức ăn của cá rô phi tốt hơn so
với cám sấy. Cả 2 loại cám có thể được phối trộn từ 30-60% trong thức ăn cho
cá rô phi.




Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)


1

CHƯƠNG 1
GIỚI THIỆU
Việt Nam nói chung và Đồng Bằng Sông Cửu Long nói riêng là vùng đất có
tiềm năng phong phú thuận lợi cho phát triển nuôi trồng thủy sản. Nhờ sự ưu
đãi của điều kiện tự nhiên, các mô hình nuôi thủy sản của người dân đã được
đa dạng hóa và kỹ thuật nuôi ngày càng được nâng cao đã đem lại hiệu quả
kinh tế thiết thực, góp phần cải thiện đời sống của người dân.
Cùng với sự phát triển của nghề nuôi cá, đặc biệt là các loài cá được chú ý
như: Rô phi, chép, cá tra, basa, rô đồng đòi hỏi phải có những nghiên cứu về
nhu cầu dinh dưỡng của cá để từ đó phối chế thức ăn thích hợp cho chúng.
Nhìn chung trong nuôi thủy sản chi phí thức ăn thường chiếm tỉ lệ cao, khoảng
60-80% tổng chi phí sản xuất. Vì vậy việc chế biến thức ăn sao cho vừa có đủ
thành phần dinh dưỡng đồng thời giảm được chi phí thức ăn là điều mong
muốn của người dân.
Với nguồn thực vật phong phú và đa dạng, nhiều nghiên cứu cho thấy việc sử
dụng nguyên liệu có nguồn gốc thực vật thay thế nguồn nguyên liệu động vật
ở mức độ nhất định trong chế biến thức ăn nuôi cá góp phần giảm được chi phí
thức ăn mà vẫn đảm bảo sự tăng trưởng tốt của cá.
Một trong những nguyên liệu có nguồn gốc thực vật được sử dụng có hiệu quả
trong chế biến thức ăn nuôi cá đó là cám gạo, đây là nguồn phụ phẩm chính từ
lúa gạo được sử dụng trong chăn nuôi gia súc, gia cầm. Ngoài ra, cám còn là
nguyên liệu làm thức ăn cho tôm cá. Trên thị trường có rất nhiều loại cám như:
cám y, cám lau, cám bass 1 và bass 2, cám pha (Trần Văn Nhì, 2005). Các loại
cám này thường chứa nhiều chất béo và độ ẩm cao, chúng rất dễ bị oxy hóa
nên không trữ được lâu. Nhằm khắc phục nhược điểm trên, các nhà sản xuất
đã cung cấp cho thị trường 2 loại cám đó là cám sấy và cám li trích dầu. Hiện
nay 2 loại cám này đang được sử dụng phổ biến như là nguồn nguyên liệu

chính trong thức ăn nuôi cá. Tuy nhiên, từng loại cám với các hàm lượng khác
nhau trong thức ăn sẽ có những ảnh hưởng khác nhau đối với khả năng tiêu
hóa, tốc độ tăng trưởng và chất lượng thịt của từng loài cá. Đặc biệt, đối với
những loài cá có tính ăn thiên về mùn bã hữu cơ và thực vật thủy sinh điển
hình như cá rô phi thì 2 loại cám trên sẽ có những ảnh hưởng như thế nào. Vấn
đề này rất cần thiết được nghiên cứu trên một số loài cá nuôi quan trọng, trong
đó có cá rô phi. Xuất phát từ yêu cầu trên, đề tài “Nghiên cứu khả năng sử
dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)” được
thực hiện.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

2

Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này đánh giá khả năng sử dụng 2 loại cám sấy và cám ly trích dầu
của cá rô phi, từ đó tìm ra hàm lượng cám thích hợp trong thức ăn nuôi cá.
Những thông tin này sẽ giúp cho nhà sản xuất cũng như người nuôi sử dụng
hiệu quả nguồn cám chế biến thức ăn cho cá, góp phần nâng cao năng suất cá
nuôi.
Nội dung nghiên cứu
- Xác định độ tiêu hóa cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của hàm lượng cám sấy và cám li trích dầu đối với sự
tăng trưởng, hiệu quả sử dụng thức ăn và thành phần hóa học của cơ thể cá rô
phi.



























Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

3

CHƯƠNG 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Đặc điểm sinh học của cá rô phi (Oreochromis noliticus)
2.1.1 Đặc điểm phân loại

Theo Trương Thủ Khoa và Trần Thị Thu Hương (1993), cá rô phi thuộc hệ
thống phân loại sau:
Bộ cá vược: Perciformes
Họ: Cichlidae
Giống: Oreochromis
Loài: Oreochromis niloticus
2.1.2 Đặc điểm hình thái
Toàn thân phủ vẩy, phần lưng có màu sáng vàng nhạt, phần bụng có màu trắng
ngà hoặc màu vàng nhạt. Trên thân có từ 6-8 vạch sắc tố chạy từ lưng tới
bụng. Các vạch sắc tố ở vây đuôi, vây lưng rõ ràng (Dương Nhựt Long, 2003).

Hình 2.1: Cá rô phi (Oreochromis niloticus)
2.1.3 Đặc điểm sinh trưởng
Cá rô phi có thể sống ở nhiệt độ từ 11-42
o
C, tuy nhiên cá phát triển tốt ở nhiệt
độ 28-30
o
C (Balarin & Haller, 1982). Đặc biệt cá rô phi là loài rộng muối,
nồng độ muối để cá phát triển tốt theo Suresh và Lin (1992) là 10-20‰ hoặc
theo Guerrero và Cornejo (1994) là 15-25‰. Theo Dureza và ctv (1994), cá rô
phi nuôi trong lồng (200 con/m
3
) vẫn sinh trưởng tốt và tỉ lệ sống đạt 88%.
Trong đàn cá rô phi thì cá đực bao giờ cũng có kích thước lớn hơn cá cái do cá
cái chậm lớn sau khi tham gia sinh sản (Dương Nhựt Long, 2003). Đặc biệt cá
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

4


rô phi dòng GIFT (Genetically Improved Farmed Tilapia) sinh trưởng nhanh,
ngoại hình đẹp, chất lượng thịt thơm ngon và kích cỡ thương phẩm lớn đạt yêu
cầu cho chế biến xuất khẩu. Theo Eknath (1994), cá rô phi dòng GIFT có tốc
độ sinh trưởng nhanh, cá đạt kích cỡ thu hoạch (80 g) trong vòng 3 tháng nên
có thể nuôi được 3 vụ/năm. Vì vậy, với đặc điểm trên cá rô phi dòng GIFT đã
trở thành đối tượng nuôi phổ biến trong các mô hình nuôi thủy sản.
2.1.4 Đặc điểm và nhu cầu dinh dưỡng
Cá rô phi là loài ăn tạp thiên về mùn bã hữu cơ và thực vật thủy sinh. Trong
những ao nuôi cá rô phi có bón phân vô cơ sẽ cung cấp nguồn dinh dưỡng cho
sự phát triển của thực vật phù du, đây là nguồn thức ăn tự nhiên tốt cho cá và
giúp gia tăng lợi nhuận từ việc nuôi cá (Boyd, 1982). Ngoài ra, cá rô phi còn
được xem là cá ăn lọc do chúng có khả năng lọc tảo và sử dụng thức ăn có sẵn
trong môi trường nuôi.
Trong nuôi công nghiệp cá rô phi cũng có thể ăn các loại thức ăn chế biến với
hàm lượng đạm khác nhau. Nhu cầu đạm thích hợp trong thức ăn cho cá rô phi
có trọng lượng trung bình 24 g dao động trong khoảng 27,5-35% (Wee và
Tuan, 1988). Theo El-Sayed và Teshima (1992), nhu cầu đạm và năng lượng
cho sự sinh trưởng tối đa của cá rô phi (trọng lượng trung bình 0,26 g) là 45%
đạm và 400 kcal/100 g thức ăn.
Với đặc điểm tính ăn như trên, cá rô phi thường được nuôi ghép với nhiều loài
thủy sản khác đem lại hiệu quả cao. Theo Nguyen Thanh Long (2003), nuôi
ghép cá rô phi với cá trê lai (Clarias macrocephalus × Clarias gariepinus) trong
bể (5 m
2
bề mặt
×
0.9 m chiều cao) cho kết quả sinh trưởng tốt đối với cả hai
loài cá, tác giả cho biết nguyên tắc của việc nuôi ghép là giảm sự ô nhiễm
nguồn nước và sử dụng chất thải từ cá trê làm nguồn phân bón giúp phát triển

thức ăn tự nhiên cho cá rô phi. Cũng với mô hình nuôi ghép, việc nuôi cá rô
phi trong ao nuôi tôm sú quảng canh (6000 tôm và 4000 cá rô phi/ha) cho sản
lượng cao (Gonzale-Corre, 1988 được trích dẫn bởi Suresh và Lin, 1992). Ở
Thái Lan, mô hình nuôi ghép cá rô phi với mật độ 0,25 và 0,5 con/m
2
trong ao
nuôi tôm sú thâm canh cho thấy cá rô phi chẳng những không gây ảnh hưởng
đến sự sống và sinh trưởng của tôm mà còn góp phần làm ổn định môi trường
nuôi tôm (Yang-Yi và Kevin, 2002).
Ngoài những đặc điểm dinh dưỡng trên cá rô phi còn có khả năng sử dụng
hiệu quả các nguồn nguyên liệu thực vật như lục bình, bèo, rau muống, lá mì,
cám trong thức ăn chế biến. Đây là đặc điểm rất thuận lợi cho nghề nuôi cá.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

5

2.2 Nghiên cứu sử dụng nguyên liệu thực vật trong nuôi thủy sản
2.2.1 Những nghiên cứu về các nguyên liệu thực vật
Nguồn nguyên liệu thực vật từ lâu được con người sử dụng rất hiệu quả trong
chăn nuôi nhiều đối tượng khác nhau. Đối với gia cầm, theo Nguyễn Phúc Lộc
và Nguyễn Hoàng Bích Loan (1995), sử dụng bột lá khoai mì có tác dụng tốt
lên sự sinh trưởng của gà thịt công nghiệp (được trích dẫn bởi Dương Thanh
Liêm và ctv, 1997). Đối với các đối tượng thủy sản, đặc biệt là các loài cá, có
nhiều công trình nghiên cứu sử dụng các nguồn thực vật khác nhau để làm
thức ăn cho cá. Kaushik (1990) nghiên cứu sử dụng các nguồn đạm thực vật
làm thức ăn cho cá hồi, tác giả cho biết cá ăn thức ăn (44,54% đạm) chứa 20%
hạt cải dầu có tốc độ tăng trưởng đặc biệt cao (SGR: 1,75%/ngày) tương
đương với cá được cho ăn thức ăn công nghiệp (52,55% đạm). Hồ Phan Thị

Khuê (1998) sử dụng thức ăn có chứa 25% và 40% bột lá mì cho sức tăng
trọng cao của cá rô phi.
Cùng nghiên cứu trên cá rô phi, Vũ Vi An (1999) thay thế 15% và 25% bột cá
bằng bèo tấm trong công thức thức ăn, kết quả là với thức ăn chứa 15% bèo
tấm cá rô phi tăng trưởng tốt và có hệ số thức ăn thấp hơn. Shiau và ctv (1990)
báo cáo cá rô phi vẫn tăng trưởng tốt khi thay thế 30% bột cá bằng bột đậu
nành li trích dầu và không li trích dầu trong công thức thức ăn (24% đạm).
Klinnavee và ctv (1990) sử dụng 20% lục bình trong thức ăn cho cá rô phi,
kết quả tốc độ tăng trưởng (SGR: 1,74%/ngày) và hệ số thức ăn (FCR: 2,1)
của cá tốt hơn so với thức ăn không có lục bình có cùng hàm lượng đạm
(SGR: 1,58%/ngày và FCR: 2,6). Trong một nghiên cứu khác trên cá rô phi,
Omorgie và Ogbemudia (1993) sử dụng bột quả cọ với các tỉ lệ khác nhau là
0%, 15%, 20%, 25% và 30% trong thức ăn, tác giả cho biết thức ăn chứa 15%
bột quả cọ cho tăng trưởng của cá rô phi tốt nhất (SGR: 0,74%/ngày) và hệ số
thức ăn thấp nhất (FCR: 0,86), trong khi đó với thức ăn không chứa bột quả cọ
thì SGR và FCR của cá chỉ đạt tương ứng là 0,67%/ngày và 0,97.
2.2.2 Những nghiên cứu về cám
Cám là phụ phẩm được làm ra từ lúa gạo. Cám đã và đang được nghiên cứu sử
dụng làm thức ăn nuôi tôm cá bởi nó có hàm lượng dinh dưỡng cao: Đạm 120-
140 g/kg cám khô, chất béo 110-180 g/kg cám khô (Viện Chăn Nuôi Quốc
Gia, 1995). Cám được tạo ra sau quá trình xay xát lúa là cám gạo tươi. Nguồn
cám gạo tươi này được xử lý và tinh chế tạo ra cám li trích dầu (cám vàng) với
nhiều ưu điểm như: Hàm lượng đạm cao (14-16% đạm thô), hàm lượng dầu
thấp (2-3%) nên bảo quản được lâu hơn (được trích dẫn bởi Hoàng Đức Như,
2005).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

6


Ngoài hàm lượng đạm và chất béo cao cám còn có lượng vitamin cao, nhưng
hàm lượng chất xơ và chất bột đường trong cám cũng cao nên cần phải phối
chế với các nguyên liệu khác trong chế biến thức ăn nuôi cá (Bùi Đức Hợi &
ctv, 1997). Theo Nguyễn Thanh Phương và ctv (1999), cá rô phi (4-5 g) nuôi
trong lồng được cho ăn thức ăn chứa 50% cám đạt sinh trưởng tốt (khối lượng
cuối trung bình 45 g/con, SGR: 2,77%/ngày) và khác biệt không có ý nghĩa so
với cá được cho ăn thức ăn công nghiệp có cùng hàm lượng đạm (23%).
Ngoài việc được sử dụng như nguồn nguyên liệu “tươi”, cám còn được ủ lên
men trước khi chế biến thức ăn. Theo Wee (1991), sử dụng cám gạo lên men
làm nguyên liệu thức ăn trong nuôi cá cho kết quả tốt và cho thấy quá trình lên
men giúp làm tăng giá trị dinh dưỡng của cám. Trong nghiên cứu của Cao
Châu Minh Thư (1999) về nuôi cá trê lai (Clarias macrocephalus × Clarias
gariepinus) trong lồng bằng thức ăn chứa cám ủ và không ủ, kết quả cho thấy
cá trê được cho ăn thức ăn chứa 40% cám ủ tăng trưởng tốt nhất và có hệ số
thức ăn thấp (SGR: 2,76%/ngày, FCR: 2,14). Cũng thí nghiệm với cám ủ và
không ủ, theo Nguyễn Trọng Toàn (1998) cá rô phi nuôi trong bể kính được
cho ăn thức ăn chứa 60% cám ủ có tốc độ tăng trưởng tốt nhất (SGR:
2,18%/ngày) và hệ số thức ăn là 2,32.
Nhiều nước trên thế giới sử dụng cám gạo để nuôi cá như Ấn Độ, Malaysia,
Philippine, Thái Lan Các quốc gia này sử dụng cám làm nguyên liệu để phối
trộn với các loại nguyên liệu làm thức ăn khác trong sản xuất thức ăn công
nghiệp (Mark, 1975). Thức ăn viên gồm cỏ khô, cám gạo, bột cá với tỉ lệ 4:3:1
dùng nuôi cá rô phi cho tốc độ tăng trưởng tương đối (SGR) là 0,69 %/ngày
(Moriarty và ctv, 1973). Cá rô phi nuôi lồng ở Philippine với thức ăn chứa
24% đạm và thành phần thức ăn gồm 77% cám và 23% bột cá có hệ số thức ăn
là 2,5 (FAO, 1983 được trích dẫn bởi Nguyễn Thanh Phương và ctv, 1999).
Theo Tuan và ctv (1994), sử dụng cám gạo phối trộn lục bình với tỉ lệ 1:1 cho
kết quả tăng trưởng tốt của cá rô phi (SGR: 4,81%/ngày).
2.3 Nghiên cứu về độ tiêu hóa của cá
2.3.1 Ý nghĩa của độ tiêu hóa trong việc đánh giá thức ăn

Bên cạnh việc đưa nguồn thực vật điển hình là cám vào làm nguyên liệu phối
trộn thức ăn cho cá người ta còn quan tâm nhiều đến chất lượng của nguyên
liệu, bởi nguyên liệu có tốt thì thức ăn làm ra mới đảm bảo chất lượng.
Thức ăn có chất lượng là thức ăn có đầy đủ các thành phần dinh dưỡng và
được cá tiêu hóa tốt. Độ tiêu hóa thức ăn là khả năng tiêu hóa và hấp thụ loại
thức ăn đó. Độ tiêu hóa có ý nghĩa rất lớn trong việc đánh giá giá trị dinh
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

7

dưỡng của thức ăn. Một chất dinh dưỡng nếu không được tiêu hóa sẽ không
được hấp thu vào cơ thể để tiến hành các phản ứng dinh dưỡng. Vì vậy trước
khi xây dựng công thức thức ăn cho tôm cá cần phải xác định độ tiêu hóa của
tôm cá đối với từng loại nguyên liệu làm thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và ctv,
2004).
2.3.2 Những nghiên cứu về độ tiêu hóa
Trên thế giới có rất nhiều nghiên cứu về giá trị dinh dưỡng và độ tiêu hóa
nguồn nguyên liệu thực vật trên nhiều đối tượng khác nhau. Trong nghiên cứu
xác định độ tiêu hóa của cá rô phi, Koprucu và Ozdemir (2005) sử dụng chất
đánh dấu Cr
2
O
3
với tỉ lệ 1% ở nghiệm thức đối chứng, nghiệm thức xác định
độ tiêu hóa được phối trộn 30% nguyên liệu và 70% thức ăn đối chứng, cá rô
phi (15 g) được cho ăn 2 lần/ngày với lượng thức ăn là 4% khối lượng thân ở
27±1
o
C. Trong nghiên cứu của Xie và ctv (1997), cá rô phi (8,29-11,02 g)

được cho ăn 2 lần/ngày ở nhiệt độ 30
o
C với tỉ lệ cho ăn khác nhau: 0,5%, 1%,
2% và 4%. Tác giả cho biết độ tiêu hóa đạm của cá rô phi giảm dần theo sự
gia tăng mức độ cho ăn, trong khi đó độ tiêu hóa năng lượng không bị ảnh
hưởng bởi mức độ cho ăn.
Để có được độ tiêu hóa của nguyên liệu cũng như độ tiêu hóa của các dưỡng
chất (đạm, năng lượng…) trong thức ăn đòi hỏi phải có phương pháp thu phân
thích hợp đối với từng đối tượng nghiên cứu. Có nhiều phương pháp thu phân
trong việc xác định độ tiêu hóa. Trước đây, Smith và Lovell (1973) đã đưa ra
phương pháp thu phân trong môi trường nước bằng cách xi phông hoặc dùng
lưới vớt. Đến 1992, Satoh và ctv tìm ra sự khác biệt nhỏ về độ tiêu hóa đạm
trong việc thu phân cá hồi bằng phương pháp lắng ở những thời gian khác
nhau (3, 6, 9, 12 hoặc 15 giờ) sau khi cho cá ăn. Tiếp đó, Allan và ctv (1999)
đã kết luận và chỉ ra rằng việc thu phân bằng phương pháp lắng tới 18 giờ (sau
khi bể đã sạch) là phương pháp phù hợp trong việc xác định độ tiêu hóa của cá
vược bạc (Bidyanus bidyanus) giống.
Gần đây, Goddard và McLean (2001) thu phân cá rô phi (Oreochromis
aureus) bằng phương pháp xi phông với mắt lưới thích hợp, sau đó phân được
rửa sạch bằng nước cất và sấy khô ở 60
o
C trong 24 giờ rồi đem phân tích. Cá
được cho ăn 2 lần/ngày (7
h
và 18
h
) và sau mỗi lần cho ăn được 6 giờ thì tiến
hành thu phân. Phân được thu 3 ngày liên tiếp và được thu ngay sau khi cá thải
phân để tránh vi khuẩn phát triển. Đối với thí nghiệm của Koprucu và
Ozdemir (2005), phân cá rô phi được thu qua cột thu phân đến bình chứa, trữ

lạnh ở -35
o
C và sấy khô để phân tích. Nhìn chung, phương pháp thu phân và
thời gian thu tùy thuộc vào từng đối tượng thí nghiệm.
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

8

Với phương pháp thu phân thích hợp, Hertrampf và Piedad-Pascual (2000)
báo cáo độ tiêu hóa cám gạo của cá lăng (Mystus nemurus) là 85,5%, độ tiêu
hóa bột đậu phộng của cá chép là 62,4%, độ tiêu hóa đạm và năng lượng trong
bột đậu phộng của cá chép lần lượt là 78,9% và 69,9%. Thí nghiệm trên cá mè
vinh, Mohanta và ctv (2006) kết luận độ tiêu hóa cám và năng lượng trong
cám của cá mè vinh (Puntius gonionotus) lần lượt là 96,4% và 89,97%.
Ở Việt Nam chưa có nhiều nghiên cứu về độ tiêu hóa của các nguyên liệu làm
thức ăn nói chung và của cám nói riêng. Do đó, nghiên cứu về vấn đề này là
rất cần thiết trong các nghiên cứu về dinh dưỡng của các đối tượng thủy sản,
làm cơ sở để đánh giá giá trị dinh dưỡng của nguyên liệu và khả năng sử dụng
chúng làm thức ăn cho cá.




























Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

9

CHƯƠNG 3
VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Thời gian và địa điểm thực hiện đề tài
Thời gian: Từ tháng 10/2005 đến tháng 1/2006
Địa điểm: Khoa Thủy Sản, Trường Đại Học Cần Thơ
3.2 Đối tượng thí nghiệm
Cá rô phi vằn (Oreochromis niloticus) dòng GIFT được mua từ Trung Tâm
Giống Thủy Sản tại Ô Môn, Thành Phố Cần Thơ.

3.3 Vật liệu và phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Thí nghiệm 1: Xác định độ tiêu hóa cám sấy và cám li trích dầu của
cá rô phi
v Hệ thống bể và cách bố trí thí nghiệm
Thí nghiệm gồm có 3 nghiệm thức (thức ăn) với 3 lần lặp lại được bố trí theo
kiểu hoàn toàn ngẫu nhiên trong hệ thống 9 bể composite (100 L/bể) có sục
khí, các bể có ống thoát nước ở trung tâm, nước được cấp vào bể ở bề mặt
(Hình 3.1). Nguồn nước cung cấp cho hệ thống từ giếng khoang qua hệ thống
lọc, được bơm lên bồn chứa trước khi đến hệ thống thí nghiệm.

Hình 3.1: Hệ thống bể thí nghiệm 1
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

10
v Cá thí nghiệm
Cá thí nghiệm được chọn đều cỡ, khối lượng trung bình 35 g/con và không có
dấu hiệu bị bệnh hay dị tật. Cá được bố trí với mật độ 10 con/bể.
v Thức ăn thí nghiệm
Ba nghiệm thức thức ăn được làm từ các nguyên liệu: bột cá, bột đậu nành, bột
mì, cám, vitamin, dầu mực, chất kết dính gelatin và chất đánh dấu cromic
oxide (Cr
2
O
3
). Trong đó, nghiệm thức đối chứng phối trộn Cr
2
O
3
với tỉ lệ 1%

và không chứa cám, 2 nghiệm thức còn lại mỗi nghiệm thức phối trộn 30%
cám sấy hoặc cám li trích dầu và 70% thức ăn đối chứng (Bảng 3.1).
Các nguyên liệu cần được trộn thật đều bằng máy trộn thức ăn trước khi ép
thành viên, sau đó thức ăn được bảo quản kín trong tủ đông để tránh bị oxy
hóa.
Bảng 3.1: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 1
Nguyên liệu (%) Đối chứng

Cám sấy

Cám li trích dầu

Cr
2
O
3
1,00

0,70

0,70

Bột cá 26,0

18,2

18,2

Bột đậu nành 20,0


14,0

14,0

Bột mì 43,5

30,5

30,5

Cám sấy - 30,0

-
Cám li trích dầu - - 30,0

Vitamin (*) 1,00

0,70

0,70

Dầu mực 6,50

4,55

4,55

Gelatin 2,00

1,40


1,40

Thành phần hóa học của thức ăn theo phân tích
Đạm 30,2

24,6

26,4

Cr
2
O
3
0,82

0,56

0,53

Năng lượng (cal/g) 4.284

4.093

4.260

(*) Vitamin (Vit.): là hỗn hợp VEMEVIT do VEMEDIM sản xuất, trong 1 kg có chứa Vit. A: 400.000
IU, Vit. D3: 80.000 IU, Vit. E: 1.200 mg, Vit. K3: 240 mg, Vit. B1: 160 mg, Vit. B2: 300 mg, Vit. B6:
100 mg, Niacin 1.000 mg, Vit. B12: 0,4 mg, Calcium Pan: 400mg, Folic acid: 32 mg, Vit. C
polyphosphate 6.000 mg, Cholin Chloride: 4.800 mg, Fe

++
: 20.000 mg, Zn
++
: 11.000 mg, Mn
++
:
2.000 mg, Cu
++
: 10.000 mg, I
-
: 4 mg, Co
++
: 120 mg, Inositol: 1.500 mg, Methionin: 3.000 mg,
Sulfathiazole: 2.000 mg, Lysine: 2.500 mg.
v Chăm sóc cho ăn
Trước khi tiến hành thu phân, cá được cho ăn 2 lần/ngày trong 4 ngày để cá
quen dần với thức ăn thí nghiệm. Ngày thứ 5 bắt đầu thu phân chỉ cho cá ăn 1
lần/ngày vào lúc 8
h
. Cá được cho ăn thỏa mãn nhu cầu.

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

11
v Thu mẫu
- Mẫu môi trường: Yếu tố nhiệt độ được theo dõi mỗi ngày 2 lần vào buổi
sáng và chiều.
- Mẫu phân: Sau khi cho cá ăn được 1 giờ, xi phông loại bỏ hết lượng phân và
thức ăn dư thừa, cấp nước mới vào bể đến 1 giờ sau tiến hành thu phân lần 1.

Sau đó 2 giờ thu phân lần 2 và cứ như vậy thu đến hết lượng phân trong ngày.
Những ngày sau thực hiện như thế và thí nghiệm kết thúc khi thu đủ lượng
phân cần phân tích (3-5 g phân khô).
Cách thu và xử lý phân: Dùng vợt vớt những sợi phân nổi trên mặt nước cho
vào chai nhựa và trữ lạnh ngay sau mỗi lần thu. Phân được sấy khô trong tủ
sấy ở 70
o
C trong 24 giờ trước khi đem phân tích.
3.3.2 Thí nghiệm 2: Xác định hàm lượng cám sấy và cám li trích dầu thích
hợp trong thức ăn cho cá rô phi
v Hệ thống bể và cách bố trí thí nghiệm
Hệ thống thí nghiệm gồm 24 bể composite (500 L/bể) có sục khí, các bể có
ống thoát nước ở trung tâm và thông với nhau, nước được cấp vào ở bề mặt
(Hình 3.2). Nguồn nước cung cấp cho hệ thống từ giếng khoang đã qua hệ
thống lọc.
Thí nghiệm gồm có 8 nghiệm thức với 3 lần lặp lại được bố trí theo kiểu hoàn
toàn ngẫu nhiên. Thời gian thí nghiệm là 60 ngày.

Hình 3.2: Hệ thống bể thí nghiệm 2
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

12
v Cá thí nghiệm
Cá sau khi mua về được nuôi bằng thức ăn công nghiệp một thời gian để cá
quen dần và đạt kích cỡ bố trí thí nghiệm. Cá thí nghiệm được chọn đều cỡ,
khối lượng trung bình 20 g/con và không có dấu hiệu bị bệnh hay dị tật. Cá
được bố trí với mật độ 20 con/bể.
v Thức ăn thí nghiệm
Thí nghiệm gồm có 8 nghiệm thức thức ăn được phối chế có hàm lượng đạm

(25%) và tổng năng lượng giống nhau (4 kcal/g). Nguyên liệu chế biến thức ăn
gồm: bột cá, bột đậu nành, bột mì, cám, dầu đậu nành, chất độn CMC
(carboxyl metyl cellulose), vitamin và chất kết dính gelatin. Các nghiệm thức
thức ăn khác nhau về loại cám và hàm lượng cám. Mỗi loại cám sấy và cám li
trích dầu gồm có 4 nghiệm thức có tỉ lệ cám lần lượt là 30%, 40%, 50% và
60% (Bảng 3.2).
Bảng 3.2: Thành phần nguyên liệu của thức ăn thí nghiệm 2
Cám sấy Cám li trích dầu
Nguyên liệu (%)
CS30

CS40

CS50

CS60

LT30

LT40

LT50

LT60

Bột cá 23,6

23,4

23,4


23,2

22,0

21,0

19,9

18,9

Bột đậu nành 7,87

7,81

7,78

7,73

7,33

6,99

6,65

6,30

Bột mì 30,1

20,3


9,89

0,00

30,9

23,5

16,1

8,74

Cám
30,0

40,0

50,0

60,0

30,0

40,0

50,0

60,0


Dầu đậu nành 0,24

0,00

0,00

0,00

3,11

3,04

2,98

2,91

Chất độn CMC 4,24

4,47

4,97

5,07

4,64

1,47

0,30


0,00

Vitamin (*) 2,00

2,00

2,00

2,00

2,00

2,00

2,00

2,00

Gelatin 2,00

2,00

2,00

2,00

2,00

2,00


2,00

1,13

Thành phần hóa học của thức ăn theo tính toán
Đạm 25,0

25,0

25,0

25,0

25,0

25,0

25,0

25,0

Chất béo 6,00

6,76

7,76

8,76

6,00


6,00

6,00

6,00

NFE (**) 48,1

46,4

44,2

42,3

48,1

48,1

48,1

48,1

Tro 12,9

13,5

14,1

14,7


13,2

13,8

14,4

15,1

Xơ 8,04

8,39

9,00

9,20

7,69

7,08

6,46

5,84

Năng lượng
(kcal/g)
4,00

4,00


4,00

4,00

4,00

4,00

4,00

4,00

(*) Vitamin (Vit.): là hỗn hợp VEMEVIT do VEMEDIM sản xuất, trong 1 kg có chứa Vit. A: 400.000
IU, Vit. D3: 80.000 IU, Vit. E: 1.200 mg, Vit. K3: 240 mg, Vit. B1: 160 mg, Vit. B2: 300 mg, Vit. B6:
100 mg, Niacin 1.000 mg, Vit. B12: 0,4 mg, Calcium Pan: 400mg, Folic acid: 32 mg, Vit. C
polyphosphate 6.000 mg, Cholin Chloride: 4.800 mg, Fe
++
: 20.000 mg, Zn
++
: 11.000 mg, Mn
++
:
2.000 mg, Cu
++
: 10.000 mg, I
-
: 4 mg, Co
++
: 120 mg, Inositol: 1.500 mg, Methionin: 3.000 mg,

Sulfathiazole: 2.000 mg, Lysine: 2.500 mg.
(**) NFE (nitrogen free extract): Chất xuất không đạm (chất bột đường)

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

13
v Chăm sóc và quản lý
Cho ăn
Cá được cho ăn mỗi ngày 2 lần (8
h
và 16
h
30

), cho ăn đến khi chúng không bắt
mồi nữa thì dừng lại. Lượng thức ăn sử dụng được ghi nhận theo ngày và tỉ lệ
cho ăn dao động từ 4-6% khối lượng thân, điều chỉnh lượng thức ăn hàng tuần.
Thu mẫu
- Mẫu môi trường: Các yếu tố môi trường được theo dõi trong suốt quá trình
thí nghiệm gồm nhiệt độ, oxy hòa tan và pH. Yếu tố nhiệt độ được đo mỗi
ngày 2 lần, yếu tố oxy hòa tan và pH được đo 1 lần/tuần.
- Mẫu cá: Tăng trưởng của cá được xác định mỗi tháng bằng cách cân toàn bộ
số cá trong mỗi bể bằng cân điện tử. Mẫu cá để xác định thành phần hóa học
được thu trước và sau thí nghiệm: Trước thí nghiệm thu ngẫu nhiên 10 con và
sau thí nghiệm thu ngẫu nhiên 10 con mỗi bể. Cá thu mẫu được xay nhuyễn,
sấy khô và bảo quản lạnh để phân tích.
3.3.3 Phân tích, tính toán và xử lý số liệu
v Các chỉ tiêu phân tích
- Mẫu thức ăn: Đạm, chất béo, chất bột đường (NFE), tro, xơ

Đối với mẫu thức ăn thí nghiệm độ tiêu hóa thì phân tích đạm, Cr
2
O
3
và năng
lượng.
- Mẫu phân: Đạm, Cr
2
O
3
, năng lượng
- Mẫu cá: Ẩm độ, đạm, chất béo, tro
v Phương pháp phân tích
- Ẩm độ: Xác định bằng cách sấy mẫu trong tủ sấy ở nhiệt độ 105
o
C khoảng 4-
5 giờ
- Tro: Xác định bằng cách đốt cháy mẫu và nung trong tủ nung ở nhiệt độ
560
o
C khoảng 4 giờ (đến khi mẫu có màu trắng)
- Xơ: Phương pháp thủy phân trong dung dịch acid và bazơ
- Đạm: Phương pháp phân tích Kjeldahl
- Chất béo: Phương pháp Soxhlet
- Chất bột đường: NFE = 100 – (Đạm + Chất béo + Tro + Xơ)
- Năng lượng: Xác định bằng máy đo năng lượng (Parr)
- Cr
2
O
3

: Xác định theo phương pháp phân tích của Furukawa và Tsukahara
(được trích dẫn bởi Furuichi và ctv, 1988)

Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

14
v Tính toán
• Độ tiêu hóa nguyên liệu (cám) = (DCT – 0,7 × DCR)/0,3
DCR: % tiêu hóa thức ăn dối chứng (R)
DCT: % tiêu hóa thức ăn xác định độ tiêu hóa nguyên liệu (T)
%A %B’
• Độ tiêu hóa đạm hay năng lượng trong thức ăn = 100 – 100 –––– × ––––
%B %A’
Với
%A: % chất đánh dấu có trong thức ăn (tính theo trong lượng khô)
%B: % chất đánh dấu có trong phân (tính theo trong lượng khô)
%A’: % chất dinh dưỡng có trong thức ăn (tính theo trong lượng khô)
%B’: % chất dinh dưỡng có trong phân (tính theo trong lượng khô)
• Tỉ lệ sống (Survival Rate)
Số cá thể cuối
SR (%) = × 100
Số cá thể ban đầu
• Tăng trưởng tuyệt đối theo ngày (Daily Weight Gain)
W
f
– W
i

DWG (g/ngày) =

T
Với W
i
: Khối lượng cá ban đầu (g)
W
f
: Khối lượng cá kết thúc thí nghiệm (g)
T: Thời gian thí nghiệm (ngày)
• Tốc độ tăng trưởng đặc biệt (Specific Growth Rate)
lnW
f
– lnW
i

SGR (%/ngày) = × 100
T
• Hệ số thức ăn (Feed Conversion Ratio)
Thức ăn sử dụng
FCR =
Khối lượng cá gia tăng
v Xử lý số liệu
Sử dụng phần mềm Excel và Statistica (thống kê ANOVA một nhân tố và
phép thử Duncan).
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

15
CHƯƠNG 4
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
4.1 Thí nghiệm 1: Xác định độ tiêu hóa cám sấy và cám li trích dầu của cá

rô phi
4.1.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm
Nhiệt độ là một trong những yếu tố rất quan trong ảnh hưởng đến độ tiêu hóa
của cá. Hoạt tính enzyme tiêu hóa của động vật thủy sản thay đổ rất lớn khi
nhiệt độ môi trường thay đổi. Khi nhiệt độ nước tăng lên cá có khuynh hướng
tăng sự tiết các enzyme tiêu hóa và tăng hoạt tính của các enzyme này. Đồng
thời khi tăng nhiệt độ cũng dẫn đến tăng lượng thức ăn của cá, tăng quá trình
trao đổi chất và vận tốc thức ăn đi qua ống tiêu hóa nên ảnh hưởng đến sự tiêu
hóa thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2004).
Trong suốt quá trình thí nghiệm, nhiệt độ dao động từ 27-30
o
C. Theo Trương
Quốc Phú (2000), nhiệt độ thích hợp cho động vật thủy sản vùng nhiệt đới
nằm trong khoảng 25-32
o
C. Với nhiệt độ tương đối ổn định và nằm trong
khoảng thích hợp như vậy, có thể nói yếu tố nhiệt độ trong thí nghiệm này
không gây ảnh hưởng bất lợi cho cá cũng như độ tiêu hóa của cá rô phi.
4.1.2 Độ tiêu hóa của cá rô phi
Khả năng tiêu hóa cám và dưỡng chất (đạm, năng lượng) trong cám của cá rô
phi là chỉ tiêu rất quan trọng trong việc đánh giá chất lượng của 2 loại cám
dùng làm thức ăn nuôi cá. Độ tiêu hóa của cá rô phi được thể hiện trong Bảng
4.1.
Bảng 4.1: Độ tiêu hóa của cá rô phi
Độ tiêu hóa (%) Cám sấy

Cám li trích dầu

Nguyên liệu 48,1±6,4
a

61,1±2,3
b
Đạm 77,1±7,5
a
75,4±4,1
a
Năng lượng 57,7

65,6

Các giá trị trong cùng một hàng mang cùng chữ cái thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (P>0,05).
Giá trị thể hiện là giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn.
Kết quả trên cho thấy, cùng phối chế với tỉ lệ như nhau trong công thức thức
ăn nhưng cám li trích dầu cho kết quả về độ tiêu hóa của cá rô phi cao hơn so
với cám sấy. Về mặt nguyên liệu nói chung, độ tiêu hóa cám li trích dầu của cá
rô phi (61,1%) cao hơn so với cám sấy (48,1%) và sự khác biệt này có ý nghĩa
thống kê (P<0,05). Tương tự, về mặt năng lượng, độ tiêu hóa năng lượng trong
cám li trích dầu của cá rô phi cũng cao hơn cám sấy. Tuy nhiên, khả năng tiêu
Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

16
hóa đạm trong 2 loại cám của cá rô phi cao nhưng khác biệt không có ý nghĩa
thống kê (P>0,05). Như vậy, khả năng sử dụng cám li trích dầu của cá rô phi
tốt hơn so với cám sấy, điều này có thể do hàm lượng chất béo trong cám li
trích dầu thấp.
So sánh độ tiêu hóa cám của cá rô phi với một số nguyên liệu khác cho thấy,
độ tiêu hóa cám của cá thấp hơn so với độ tiêu hóa bột bắp và bột đậu nành
trong nghiên cứu của Koprucu và Ozdemir (2005). Theo các tác giả, cá rô phi
có khối lượng trung bình 15 g được cho ăn 2 lần/ngày với lượng thức ăn là 4%

khối lượng thân, ở nhiệt độ 27±1
o
C, độ tiêu hóa bột bắp và bột đậu nành của
cá rô phi lần lượt là 93,2% và 90,9%, độ tiêu hóa đạm và năng lượng của cá rô
phi trong bột bắp lần lượt là 89,0% và 87,4%, trong bột đậu nành tương ứng là
89,0% và 83,7%. Trong một nghiên cứu khác trên cá rô phi, Hanley (1987)
báo cáo độ tiêu hóa đạm và năng lượng trong bột đậu nành của cá lần lượt là
91% và 56%, bột mì (75% và 58%).
Như vậy, độ tiêu hóa cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi về mặt nguyên
liệu cũng như dưỡng chất trong nguyên liệu thấp hơn so với các nguyên liệu
thực vật khác như bột đậu nành, bột bắp, bột mì. Từ đó cho thấy độ tiêu hóa
của cá rô phi đối với các nguyên liệu khác nhau sẽ khác nhau.
Cùng một nguồn nguyên liệu nhưng độ tiêu hóa cám gạo giữa các loài cá cũng
rất khác nhau. Đó là do khả năng tiêu hóa của động vật thủy sản phụ thuộc vào
đặc điểm dinh dưỡng của từng loài (Trần Thị Thanh Hiền và ctv, 2004). Theo
kết quả nghiên cứu của Hertrampf và Piedad-Pascual (2000), độ tiêu hóa cám
gạo của cá lăng (Mystus nemurus) là 85,5%. Cũng thí nghiệm với cám gạo,
Mohanta và ctv (2006) kết luận độ tiêu hóa cám và năng lượng trong cám của
cá mè vinh (Puntius gonionotus) lần lượt là 96,4% và 89,97%. Trong khi đó,
đối với cá mú lưng gù (Cromileptes altivelis)-một loài cá có tính ăn thiên về
động vật, độ tiêu hóa cám gạo của cá là 22,2%, độ tiêu hóa đạm và năng lượng
trong cám của cá lần lượt là 59,5% và 44,3% (Laining và ctv, 2002). So với
các kết quả trên, cá rô phi trong thí nghiệm này có khả năng tiêu hóa cám gạo
kém hơn cá lăng và cá mè vinh nhưng tốt hơn cá mú. Như vậy, tuy có sự
chênh lệch nhau về độ tiêu hóa của cám sấy và cám li trích dầu nhưng có thể
kết luận cá rô phi có khả năng tiêu hóa tốt cám gạo, do đó đây là nguồn
nguyên liệu thực vật làm thức ăn tốt cho cá rô phi.


Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

17
4.2 Thí nghiệm 2: Xác định hàm lượng cám sấy và cám li trích dầu thích
hợp trong thức ăn cho cá rô phi
4.2.1 Điều kiện môi trường thí nghiệm
Trong các nghiên cứu khoa học nói chung và các thí nghiệm dinh dưỡng động
vật thủy sản nói riêng thì mục đích của việc quản lý chất lượng nước là cung
cấp những điều kiện lý hóa thích hợp cho sự sống sót và phát triển của đối
tượng nuôi. Các yếu tố thủy lý hóa như: Nhiệt độ, pH, oxy hòa tan đóng vai
trò quan trọng bởi nhiệt độ, pH ảnh hưởng rất mạnh mẽ đến sinh trưởng và
dinh dưỡng của cá, oxy hòa tan rất cần thiết vì nếu lượng oxy hòa tan trong
nước thấp (nhỏ hơn 3 mg/L) cá sẽ hoạt động yếu, lượng thức ăn do chúng sử
dụng cũng giảm (Nguyễn Văn Bé, 1987).
Bảng 4.2: Các yếu tố môi trường trong thí nghiệm 2
Yếu tố môi trường Giá trị


Nhiệt độ (
o
C) 23,5-29,5


Oxy hòa tan (mg/L) 5,50-6,80


pH 5,92-8,15


Theo Trương Quốc Phú (2000), môi trường thích hợp cho sự phát triển của cá

nuôi là: Nhiệt độ 25-32
o
C, pH 6,5-9, oxy hòa tan lớn hơn 5 mg/L. Từ kết quả
môi trường ghi nhận trong thí nghiệm này (Bảng 4.2) cho thấy yếu tố oxy hòa
tan nằm trong giới hạn cho phép. Yếu tố pH tuy có biến động ít (5,92-8,15)
nhưng do cá rô phi có khả năng chịu đựng được môi trường có pH thấp nên cá
vẫn sống và sinh trưởng tốt. Trong quá trình thí nghiệm, tuy có một số ngày
lạnh nhiệt độ giảm xuống 23,5
o
C nhưng không ảnh hưởng đáng kể cho cá thí
nghiệm. Nhìn chung, các yếu tố môi trường trong thí nghiệm không có biến
động lớn.
4.2.2 Kết quả phân tích mẫu thức ăn thí nghiệm
Kết quả phân tích thành phần hóa học của thức ăn (Bảng 4.3) có sự khác biệt
nhỏ so với dự kiến ban đầu, nguyên nhân có thể là do sai số và thao tác trong
phân tích mẫu.





Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu
Nghiên cứu khả năng sử dụng cám sấy và cám li trích dầu của cá rô phi (Oreochromis niloticus)

18
Bảng 4.3: Kết quả phân tích thành phần hóa học của thức ăn thí nghiệm 2
Thành phần hóa học (%)
Thức ăn thí nghiệm

Đạm


Chất béo

NFE

Tro



Cám sấy 30% 23,4

6,25

47,1

15,2

8,04

Cám sấy 40% 22,9

6,26

44,5

17,9

8,39

Cám sấy 50% 24,2


7,61

39,9

19,3

9,00

Cám sấy 60% 25,5

8,90

37,0

19,5

9,20

Cám li trích 30% 24,1

7,60

49,2

11,4

7,69

Cám li trích 40% 25,4


7,18

47,7

12,6

7,08

Cám li trích 50% 25,7

6,34

49,4

12,0

6,46

Cám li trích 60% 25,1

7,50

48,3

13,3

5,84

4.2.3 Ảnh hưởng của thức ăn lên tỉ lệ sống, sinh trưởng, hiệu quả sử dụng

thức ăn và thành phần hóa học của cá rô phi
v Tỉ lệ sống của cá rô phi
Qua 60 ngày thí nghiệm, tỉ lệ sống của cá rô phi ở các nghiệm thức tương đối
cao (80-93,3%) (Bảng 4.4). Tỉ lệ sống đạt cao nhất ở nghiệm thức cám sấy
60% và thấp nhất ở nghiệm thức cám li trích 40%. Mặc dù có sự chênh lệch về
tỉ lệ sống giữa các nghiệm thức nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê (P>0,05). Trong suốt quá trình thí nghiệm có một số cá chết là do cá
bị sốc sau khi bố trí hoặc sau khi thu mẫu xác định tăng trưởng ở thời điểm 1
tháng thí nghiệm. Một số cá khác chết do bệnh ngoại ký sinh. Như vậy, tỉ lệ cá
hao hụt trong thí nghiệm không phải do ảnh hưởng của thức ăn.
Nhiều nghiên cứu dinh dưỡng trên các đối tượng khác nhau cũng cho thấy
thức ăn khác nhau thường không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá. Huỳnh
Thanh Tấn (2004) nghiên cứu nhu cầu đạm và khẩu phần ăn của cá rô đồng
với thức ăn có mức đạm khác nhau từ 10-52% kết luận tỉ lệ sống của cá ở các
nghiệm thức đều cao (88,89-100%) và không ảnh hưởng bởi thức ăn. Trong
nghiên cứu của Nguyễn Thanh Phương và ctv (1999) về nuôi ghép cá mè vinh,
cá chép và rô phi trong ruộng lúa với thức ăn chứa cám ủ và không ủ, các tác
giả cho biết tỉ lệ sống của cá khá thấp không phải do ảnh hưởng bởi thức ăn
mà do việc sử dụng thuốc trừ sâu và mất cắp cá do dùng điện trộm.





Trung tâm Học liệu ĐH Cần Thơ @ Tài liệu học tập và nghiên cứu

×