Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Trình bày những điểm mới trong văn kiện đại hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở việt nam giai đoạn 2021 – 2025 liên hệ thực tiễn ở địa phương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.56 KB, 13 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
--------------------------------

BÀI TẬP LỚN
HỌC PHẦN LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
ĐỀ TÀI: Trình bày những điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII
(2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021
– 2025. Liên hệ thực tiễn ở địa phương.

Họ và tên sinh viên:
Mã sinh viên:
Lớp: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam (121)
Giảng viên hướng dẫn: Nguyễn Thị Thắm

Bắc Kạn - 10/2021


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU………………………………………………………….…..………..2
I.
AN
SINH

………………………………………………………..............3

HỘI..

II. CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII (2016)……………………
4
III. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII


(2021) VỀ CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI

VIỆT
NAM
GIAI
ĐOẠN
2025………………………………………...6

2021

-

1. Bối cảnh
1.1
Bối
cảnh
giới…………………………………………………………..6

thế

1.2
Bối
cảnh
Nam………………………………………………………...6

Việt

2. Điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương
thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam giai đoạn
2025…………………..7

VI.
LIÊN
HỆ
THỰC
KẠN………………………………….9

TIỄN

TẠI

TỈNH

2021



BẮC

KẾT LUẬN…………………………………………………………………………11
TÀI
LIỆU
KHẢO…………………………………………………………..12

THAM


LỜI NÓI ĐẦU
An sinh xã hội là một trong những vấn đề quan trọng trong chiến lược phát
triển của mỗi quốc gia. Bảo đảm ngày càng thực hiện tốt an sinh xã hội luôn là
một chủ trương, nhiệm vụ lớn, có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự ổn định về

chính trị, kinh tế, xã hội và là chìa khóa để phát triển tồn diện và bền vững,
nhất là trong bối cảnh dịch bệnh COVID-19 diễn biến phức tạp. Nhận thấy tầm
quan trọng của an sinh xã hội, bài luận này nhằm tìm hiểu những điểm mới
trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh xã hội ở Việt
Nam giai đoạn 2021 – 2025 và liên hệ thực tiễn tại tỉnh Bắc Kạn.

2


I. AN SINH XÃ HỘI (ASXH)
Theo Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), “An sinh xã hội là sự bảo vệ mà xã hội
cung cấp cho các cá nhân và hộ gia đình nhằm bảo đảm tiếp cận y tế và bảo đảm thu
nhập, đặc biệt trong trường hợp già yếu, thất nghiệp, ốm đau, tàn tật, tai nạn lao
động, thai sản hoặc thiếu người nuôi dưỡng”. Để bảo đảm đáp ứng các nhu cầu, các
đối tượng ASXH khác nhau, hệ thống ASXH được tổ chức thành lưới an sinh. Thông
thường, lưới ASXH bao gồm:
Một là, hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm.
Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm giúp người lao động có việc làm để có thu
nhập, từ đó, tự bảo đảm ASXH. Lưới ASXH nào cũng hướng tới cung cấp cơ hội việc
làm cho mọi người trong độ tuổi lao động, kết nối người thất nghiệp với doanh
nghiệp cần lao động; đào tạo, dạy nghề, nâng cao năng lực cho người lao động để họ
có thể tìm kiếm, chuyển đổi việc làm hoặc tự tạo việc làm. Đặc biệt, lưới ASXH tập
trung vào hỗ trợ tạo việc làm, tăng thu nhập cho người nghèo, phụ nữ và những nhóm
người yếu thế. Đối với người trong độ tuổi lao động, có đủ điều kiện lao động thì hỗ
trợ việc làm là trợ giúp an sinh quan trọng nhất để họ tự bảo đảm thu nhập bền vững.
Ở các quốc gia, hệ thống hỗ trợ việc làm và giảm nghèo thường được tổ chức theo
các cấp hành chính từ Trung ương tới địa phương với sự tham gia của nhiều cơ quan,
tổ chức khác nhau, trong đó, vai trò tham mưu, tổ chức thường gắn với các cơ quan
có thẩm quyền về lĩnh vực lao động, việc làm. Hệ thống hỗ trợ giải quyết việc làm
thường hoạt động nhờ ngân sách nhà nước và đóng góp của các tổ chức, cá nhân.

Hai là, hệ thống bảo hiểm xã hội.
Hệ thống bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trị lưới đỡ nếu người lao động khơng
may khơng thể làm việc, mất việc làm do bệnh tật, thai sản, tai nạn lao động,... hoặc
nghỉ hưu do tuổi già. Khi đó, họ cần có hệ thống BHXH chi trả để bảo đảm nguồn thu
nhập. Hệ thống BHXH đóng vai trị trung tâm trong lưới ASXH, giúp chống đỡ các
rủi ro mất hoặc suy giảm thu nhập. Hệ thống BHXH thường được tổ chức thống nhất
và phân chia thành các cấp từ Trung ương tới địa phương. Nguồn quỹ chính của hệ
thống là từ tiền đóng BHXH bắt buộc và/hoặc tự nguyện. Ngồi ra, có thể có các
nguồn thu khác từ hỗ trợ của ngân sách nhà nước, nguồn đóng góp hảo tâm, nguồn lãi
từ đầu tư quỹ... Đối tượng thụ hưởng BHXH là những người tham gia BHXH, nghĩa
là có đóng góp BHXH.
Ba là, hệ thống trợ giúp xã hội.
Hệ thống BHXH đóng vai trị chủ chốt trong bảo đảm thu nhập trong trường hợp
già yếu, bệnh tật, mất thu nhập với điều kiện phải tham gia BHXH. Tuy nhiên, trong
nhiều trường hợp, cá nhân và hộ gia đình khơng hoặc khơng có điều kiện tham gia
BHXH (chẳng hạn những người khuyết tật, khơng có việc làm, những người nghèo).
Bên cạnh đó, sinh kế của các cá nhân, hộ gia đình có thể gặp phải một số rủi ro bất
thường nằm ngoài phạm vi BHXH, như thiên tai, mất mùa,... cũng khiến cá nhân và
hộ gia đình mất thu nhập, rơi vào cảnh túng thiếu. Khi đó, hệ thống trợ giúp xã hội
đóng vai trị là lưới an sinh thứ ba để hỗ trợ các cá nhân và hộ gia đình. Trợ giúp xã
3


hội là các khoản trợ cấp trực tiếp bằng tiền hoặc hiện vật cho cá nhân và hộ gia đình
nghèo hoặc bị tổn thương, thường do nhà nước thực hiện bằng ngân sách nhà nước.
Hệ thống trợ giúp xã hội thường được tổ chức đa dạng, trong đó có sự tham gia của
nhà nước, các tổ chức xã hội, các thiết chế cộng đồng,...
Bốn là, hệ thống bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản.
Việc làm, BHXH, trợ giúp xã hội đều hướng tới bảo đảm thu nhập cho các đối
tượng dân cư. Tuy nhiên, bên cạnh thu nhập, một trong các quyền ASXH của người

dân là được cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản, như y tế, giáo dục, nước sạch, nhà ở,
thơng tin... Bên cạnh đó, được tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản cũng nhằm tạo cơ
hội cho các cá nhân nâng cao năng lực, phát triển vốn con người, từ đó có thể có việc
làm, thu nhập, vừa bảo đảm ASXH bản thân và gia đình, vừa đóng góp vào sự phát
triển kinh tế - xã hội. Thông thường, khi thiếu thu nhập, một mặt, người dân có thể
khơng có điều kiện được hưởng các dịch vụ xã hội cơ bản; mặt khác, ở một số nơi,
đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng kinh tế khó khăn, ngay cả khi có thu nhập, người
dân có thể vẫn khó tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản, hoặc chỉ tiếp cận được dịch vụ
kém chất lượng. Trong khi đó, đây cũng là nhu cầu thiết yếu của người dân. Việc tiếp
cận dịch vụ xã hội cơ bản không chỉ là quyền của con người mà nó cịn có ý nghĩa
với ASXH và sự phát triển quốc gia trong dài hạn, bởi con người có trình độ giáo
dục, được bảo đảm y tế, sẽ phát triển thành những cơng dân có trình độ, có ích, có thể
có việc làm với thu nhập bảo đảm và góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.
Các bộ phận trong lưới ASXH có ở các có mối liên hệ, tác động qua lại với nhau
và cùng hướng tới thực hiện chức năng của lưới ASXH là phòng ngừa rủi ro, bảo vệ
người dân và thúc đẩy sự phát triển.
Tại Việt Nam lưới ASXH bao gồm 5 trụ cột chính là: Bảo hiểm xã hội, Bảo hiểm y
tế, Cứu trợ xã hội, Trợ giúp và ưu đãi xã hội.
II. CHỦ TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM TRONG VĂN
KIỆN ĐẠI HỘI ĐẢNG LẦN THỨ XII (2016)
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta khẳng định bảo đảm an sinh xã hội là
một trong các nhiệm vụ trọng tâm trong thời kỳ mới.
Một là, chủ trương lãnh đạo giải quyết vấn đề lao động, việc làm, thu nhập cho
người lao động và đổi mới chính sách giảm nghèo đa chiều bền vững.
Tạo cơ hội để mọi người có việc làm và cải thiện thu nhập. Bảo đảm tiền lương,
thu nhập công bằng, đủ điều kiện sống và tái sản xuất sức lao động. Huy động tốt
nhất nguồn nhân lực lao động để phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước.
Chú trọng giải quyết việc làm cho lao động dôi dư từ khu vực nơng nghiệp do việc
tích tụ, tập trung ruộng đất hoặc thu hồi đất phát triển công nghiệp, đơ thị và các cơng
trình cơng cộng. Khuyến khích đầu tư xã hội tạo ra nhiều việc làm, nâng cao chất

lượng giáo dục nghề nghiệp. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chính sách về tiền
lương, tiền cơng, khắc phục cơ bản những bất hợp lý. Điều chỉnh chính sách dạy

4


nghề, gắn đào tạo với sử dụng. Điều chỉnh chính sách xuất khẩu lao động hợp lý.
Hoàn thiện và thực hiện chính sách bảo hộ lao động
Hai là, tiếp tục phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm.
Phát triển và thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp,
bảo hiểm tai nạn lao động…mở rộng đối tượng tham gia, nâng cao hiệu quả của hệ
thống, đổi mới cơ chế tài chính, bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội.
Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả của công tác trợ giúp xã hội.
Tiếp tục hồn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao
hiệu quả công tác trợ giúp xã hội.
Tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế, dễ bị tổn thương hoặc
những người gặp rủi ro trong cuộc sống, để công tác trợ giúp xã hội đạt được hiệu
quả cao nhất. Phải phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào
toàn dân tham gia giúp đỡ những người yếu thế nhằm huy động cao nhất các nguồn
lực vật chất, tinh thần để giúp đỡ, tạo điều kiện để những người yếu thế hòa nhập
cộng đồng. Bên cạnh đó, yêu cầu chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an
sinh xã hội của công dân trong quan điểm lãnh đạo của Đảng về an sinh xã hội, khẳng
định sự quan tâm đến quyền con người của Đảng, Nhà nước ta.
Bốn là, bảo đảm cung cấp các dịch vụ xã hội cơ bản thiết yếu, mức tối thiểu về thu
nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước
sạch, thông tin.
Về lãnh đạo bảo đảm giáo dục tối thiểu: Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục,
đào tạo; phát triển nguồn nhân lực; phát triển giáo dục và đào tạo phải gắn với nhu
cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với tiến bộ khoa học công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và thị trường lao động; hoàn thiện hệ thống
giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã

hội học tập.
Về lãnh đạo bảo đảm y tế tối thiểu: Nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh và phục
hồi chức năng ở tất cả các tuyến; quan tâm chăm sóc sức khoẻ ban đầu, hồn thiện
mạng lưới y tế cơ sở, nhất là miền núi, biên giới, hải đảo… tăng cường nhân lực y tế
cho khu vực nông thôn, miền núi, biên giới, hải đảo, cùng với nâng cao chất lượng
cuộc sống, phấn đấu tuổi thọ trung bình đến năm 2020 đạt 74 - 75 tuổi.
Về lãnh đạo bảo đảm nhà ở xã hội: Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà ở cho
các đối tượng chính sách, người nghèo, người dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng
khó khăn. Phát triển nhà ở xã hội cho người thu nhập thấp, công nhân khu công
nghiệp, khu chế xuất và sinh viên. Hiện nay, bảo đảm nhà ở xã hội là một trong
những chính sách được Đảng hết sức quan tâm.
Đại hội XII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương lãnh đạo bảo đảm công tác an
sinh xã hội, gắn với phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện an sinh xã hội toàn dân, thực
hiện quyền tự bảo đảm an sinh xã hội của người dân. Những quan điểm của Đảng là
sự định hướng để chính sách an sinh xã hội được thực hiện trên thực tế.

5


III. NHỮNG ĐIỂM MỚI TRONG VĂN KIỆN ĐẠI HỘI XIII (2021) VỀ CHỦ
TRƯƠNG THỰC HIỆN AN SINH XÃ HỘI Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2021 2025
1. Bối cảnh
1.1 Bối cảnh thế giới
Ngoài thảm họa y tế, dịch bệnh COVID-19 đã đẩy thế giới vào một cuộc suy
thoái kinh tế nghiêm trọng hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu bùng phát
năm 2008. Tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2020 sụt giảm tới 4% - 5%;
nhiều quốc gia buộc phải “đóng cửa” cả bên trong lẫn bên ngoài biên giới khiến cho
chuỗi sản xuất, cung ứng toàn cầu cũng như sự giao lưu, hợp tác giữa các quốc gia
rối loạn, ách tắc. Ngoài việc phải mất một khoản chi phí lớn để phịng, chống dịch
bệnh COVID-19, các quốc gia buộc phải đưa ra hàng loạt gói cứu trợ trị giá bằng

khoảng 12% GDP, nhằm bảo đảm thanh khoản, ổn định hệ thống tài chính - ngân
hàng, duy trì sản xuất và việc làm, đa dạng hóa chuỗi cung ứng, đầu tư vào hạ tầng y
tế, nghiên cứu vắc-xin chống dịch bệnh COVID-19..., đã tạo nên khoản nợ công lớn
gấp nhiều GDP của tất cả các nước cộng lại. Tác động xã hội cũng không kém phần
nghiêm trọng, với hàng chục triệu người lao động trong hầu hết các lĩnh vực ở mỗi
nước bị mất việc làm, thu nhập bị giảm sút hoặc khơng cịn thu nhập, rơi vào cảnh
đói nghèo, tội phạm gia tăng, hố sâu ngăn cách giàu - nghèo ngày càng trầm trọng,
cả một thế hệ thanh - thiếu niên khơng được đi học bình thường...
Trên bình diện quốc tế, dịch bệnh COVID-19 đã làm gia tăng thêm mối bất hòa
giữa một số nước, thúc đẩy sự chuyển dịch sức mạnh giữa các quốc gia, đồng thời
buộc nhiều chính quyền trên thế giới phải điều chỉnh ưu tiên chính sách đối nội và
đối ngoại, làm thay đổi phương thức vận hành của quan hệ quốc tế và chính trị thế
giới. Mặt khác, dịch bệnh COVID-19 đã trở thành chất xúc tác thúc đẩy mạnh mẽ
kinh tế số và những lĩnh vực liên quan tới công cuộc phòng, chữa bệnh, trở thành
những thước đo mới về sức mạnh của các quốc gia. Về mặt xã hội, dịch bệnh
COVID-19 khuyến khích con người thay đổi lối sống theo hướng “xanh hơn”,
“chậm hơn” và “giãn cách hơn”.
1.2 Bối cảnh Việt Nam
Sự phát triển của Viêtš Nam trong hơn 30 năm qua rất đáng ghi nhân.
š Đổi mới
kinh tế và chính trị từ năm 1986 đã thúc đẩy phát triển kinh tế, nhanh chóng đưa
Việt Nam từ một trong những quốc gia nghèo nhất trên thế giới trở thành quốc gia
thu nhập trung bình thấp. Tỉ lệ nghèo giảm mạnh, đại bộ phận người nghèo còn lại ở
Việt Nam là dân tộc thiểu số, chiếm 86%.
Do hội nhập kinh tế sâu rộng, nền kinh tế Việt Nam chịu ảnh hưởng nặng nề bởi
đại dịch COVID-19, nhưng cũng thể hiện sức chống chịu đáng kể. Tăng trưởng
GDP ước đạt 2,9% năm 2020. Việt Nam là một trong số ít quốc gia trên thế giới
tăng trưởng kinh tế dương, nhưng đại dịch đã để lại những tác động dài hạn đối với

6



các hộ gia đình - thu nhập của khoảng 45% hộ gia đình được khảo sát giảm trong
tháng 1 năm 2021 so với tháng 1 năm 2020. Nền kinh tế được dự báo sẽ tăng trưởng
6,6% năm 2021 nếu Việt Nam kiểm soát tốt sự lây lan của vi-rút đồng thời các
ngành sản xuất hướng xuất khẩu hoạt động tốt và nhu cầu nội địa phục hồi mạnh
mẽ.
Việt Nam đang chứng kiến thay đổi nhanh về cơ cấu dân số và xã hội. Dân số
Việt Nam dự kiến sẽ tăng lên 120 triệu dân tới năm 2050. Theo kết quả Tổng điều
tra dân số Viêtš Nam năm 2019, 55,5% dân số có độ tuổi dưới 35, với tuổi thọ trung
bình gần 76 tuổi, cao hơn những nước có thu nhâpš tương đương trong khu vực.
Nhưng dân số đang bị già hóa nhanh, tầng lớp trung lưu đang dần hình thành.
Chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam là 0.69. Điều đó có nghĩa là một em bé Việt
Nam được sinh ra ở thời điểm hiện nay khi lớn lên sẽ đạt mức năng suất bằng 69%
so với cũng đứa trẻ đó được học tập và chăm sóc sức khỏe đầy đủ. Đây là mức cao
hơn mức trung bình của khu vực Đơng Á - Thái Bình Dương và các nước có thu
nhập trung bình thấp hơn. Mặc dù chỉ số Vốn nhân lực của Việt Nam tăng từ 0,66
lên 0,69 từ năm 2010 đến 2020 Việt Nam, còn tồn tại sự chênh lệch trong nội bội
quốc gia, đặc biệt là đối với nhóm các dân tộc thiểu số.
Y tế cũng đạt nhiều tiến bộ lớn khi mức sống ngày càng cải thiện. Từ năm 1993
đến 2017, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh giảm từ 32,6 xuống còn 16,7 (trên 1.000 trẻ
sinh). Tuổi thọ trung bình tăng từ 70,5 lên 76,3 tuổi trong thời gian từ năm 1990 đến
2016. Chỉ số bao phủ chăm sóc sức khỏe tồn dân là 73 - cao hơn mức trung bình
của khu vực và thế giới – với 87% dân số có bảo hiểm y tế. Tuy nhiên tỉ lệ chênh
lệch giới tính khi sinh vẫn ở mức cao và ngày môtš tăng (115 trong năm 2018) cho
thấy tình trạng phân biệt giới tính vẫn cịn tồn tại. Bên cạnh đó, Việt Nam là một
trong những quốc gia có tốc độ già hóa dân số nhanh nhất, dự báo đến năm 2050
nhóm tuổi trên 65 sẽ tăng gấp 2,5 lần.
Trong vòng 30 năm qua, việc cung cấp các dịch vụ cơ bản có nhiều thay đổi tích
cực. Khả năng người dân tiếp cận hạ tầng cơ sở được cải thiện đáng kể. Tính đến

năm 2016, 99% dân số sử dụng điện chiếu sáng, so với tỉ lệ 14% năm 1993. Tỉ lệ
tiếp cận nước sạch nông thôn cũng được cải thiện, từ 17% năm 1993 lên 70% năm
2016, trong khi tỉ lệ ở thành thị là trên 95%. Tuy nhiên, trong những năm gần đây,
đầu tư cơ sở vật chất tính theo phần trăm GDP của Việt Nam nằm trong nhóm thấp
nhất trong khu vực ASEAN. Điều này tạo ra những thách thức đối với sự phát triển
liên tục của các dịch vụ cơ sở hạ tầng hiện đại cần thiết cho giai đoạn tăng trưởng
tiếp theo (Việt Nam xếp thứ 89 trong số 137 quốc gia về chất lượng cơ sở hạ tầng).
2. Điểm mới trong văn kiện Đại hội XIII (2021) về chủ trương thực hiện an sinh
xã hội ở Việt Nam giai đoạn 2021 – 2025
So với những chủ trương chính sách của Đại hội XII về an sinh xã hội được nêu ở
trên thì Đại hội XIII đã có những điểm mới là:

7


Một trong các đột phá chiến lược được Đại hội lần thứ XIII của Đảng đề ra là “Đổi
mới quản trị quốc gia theo hướng hiện đại, nhất là quản lý phát triển và quản lý xã
hội”, trong đó có quản lý phát triển an sinh xã hội. Trong quá trình này, Nhà nước sử
dụng các cơng cụ, cơ chế, chính sách, pháp luật,... để tác động, điều chỉnh, thúc đẩy,
điều tiết, xử lý các vấn đề an sinh xã hội phát sinh từ thực tiễn, bảo đảm quyền an sinh
xã hội của người dân nhằm mục tiêu phát triển bền vững đất nước, vì con người.
Về y tế và chăm sóc sức khỏe của người dân.
Đổi mới cơ chế tài chính y tế, thực hiện lộ trình bảo hiểm y tế toàn dân. Phát triển
nguồn nhân lực, khoa học công nghệ y tế, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin
trong quản lý y tế, khám chữa bệnh, giám định thanh toán BHYT. Thiết lập hệ thống
sổ sức khỏe điện tử đến từng người dân. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng
cao y đức. Phấn đấu đến năm 2025, trên 90% dân số được quản lý, theo dõi và chăm
sóc, bảo vệ sức khỏe, tỷ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.
Tập trung phát triển mạnh y tế cơ sở, y tế dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm, chữa
trị kịp thời, hiệu quả các loại dịch bệnh mới. Xây dựng và củng cố hệ thống y tế, nhất

là hệ thống y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương, hình thành hệ thống trung tâm kiểm
sốt dịch bệnh đồng bộ ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới kiểm soát bệnh tật thế
giới. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học
phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ
động sản xuất vaccine, thuốc sáng chế.
Về chính sách tiền lương.
Chỉ rõ yêu cầu, tính chất của chính sách tiền lương đó là: chính sách tiền lương theo
hướng gắn với sự thay đổi của giá cả sức lao động trên thị trường, tương xứng với tốc
độ tăng trưởng kinh tế và tốc độ tăng năng suất lao động, bảo đảm nguyên tắc phân
phối theo lao động, tạo động lực nâng cao năng suất và hiệu quả. Bên cạnh đó từng
bước tách việc điều chỉnh lương hưu với điều chỉnh tiền lương của người đang làm
việc. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021 - 2030 cụ thể hóa hơn một
bước về chính sách tiền lương đối với khu vực công, khu vực doanh nghiệp, nhằm mục
tiêu xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Về chính sách quản lý phát triển xã hội.
Các văn kiện Đại hội XIII nhấn mạnh về chính sách huy động và phân bổ các nguồn
lực cho các vấn đề xã hội. Đổi mới cơ chế, huy động phân bổ và đa dạng hóa các
nguồn lực thực hiện chính sách xã hội phù hợp với nhu cầu, lợi ích của các tầng lớp
dân cư, nhóm xã hội, bảo đảm bình đẳng về cơ hội phát triển, nhất là với lao động khu
vực phi chính thức. Yêu cầu mới này bao gồm cả hai mặt: huy động tối đa các nguồn
lực trong xã hội và phân bổ một cách công bằng, hợp lý, bảo đảm sử dụng tiết kiệm,
hiệu quả mọi nguồn lực của Nhà nước, tư nhân, các tổ chức của nhân dân để giải quyết
các vấn đề xã hội.
Về vấn đề lao động.

8


Vấn đề đã được đặt ra một cách hệ thống và toàn diện hơn, bao gồm: xây dựng thị
trường lao động, tạo cơng ăn việc làm, chính sách tiền lương, hỗ trợ thất nghiệp. Về thị

trường lao động, các văn kiện Đảng và Nhà nước không chỉ khẳng định sự cần thiết
phải phát triển một thị trường lao động thật sự, mà cịn chỉ ra rất rõ về phương hướng,
tính chất và yêu cầu của thị trường lao động. Đó là phát triển thị trường lao động,
hướng đến việc làm bền vững, phát triển thị trường lao động đồng bộ, hiện đại, linh
hoạt, thống nhất, hội nhập, có sự quản lý, điều tiết của Nhà nước. Đặc biệt nhấn mạnh
sự cần thiết phải quan tâm đến lao động khu vực phi chính thức, nhất là lao động nơng
nghiệp chuyển đổi ngành nghề. Đây là bộ phận yếu thế, dễ tổn thương trong xã hội,
cần phải được tạo các điều kiện thuận lợi để có thể tham gia vào khu vực lao động
chính thức, giảm thiểu và khắc phục những rủi ro trong cuộc sống.
Cuối cùng về chính sách phát triển dân số liên quan đến anh sinh xã hội.
Do tình hình cơ cấu dân số đã bước vào giai đoạn già hóa, Đảng và Nhà nước chủ
trương chuyển trọng tâm chính sách dân số từ kế hoạch hóa gia đình sang dân số và
phát triển. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ
dân số. Tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng; chủ động thích ứng với xu thế già hóa
dân số. Hỗ trợ thỏa đáng để thu hút, tạo điều kiện cho người dân sinh sống ổn định, lâu
dài ở các khu vực khó khăn, trọng yếu về an ninh, quốc phịng. Xây dựng, hồn thiện
và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
VI. LIÊN HỆ THỰC TIỄN TẠI TỈNH BẮC KẠN
Về cơng tác phịng chống dịch bệnh.
Thực hiện Văn bản số 6666/BYT-MT ngày 16/8/2021 của Bộ Y tế về việc hướng
dẫn phòng chống dịch COVID-19 tại cơ quan, đơn vị, BHXH tỉnh đã thành lập Ban
chỉ đạo phòng chống dịch Covid-19 của BHXH tỉnh Bắc Kạn với 13 thành viên;
Thành lập 02 tổ an toàn Covid tại BHXH tỉnh và 07 tổ an toàn Covid tại 7 đơn vị
BHXH cấp huyện. BHXH tỉnh Bắc Kạn còn tổ chức các đợt vận động quyên góp ủng
hộ quỹ phòng, chống Covid-19; ủng hộ quỹ vắc xin phòng chống Covid-19; ủng hộ
01 tấn gạo cho nhân dân thành phố Hồ Chí Minh. Đăng ký mã QR-Code của cơ quan
theo hướng dẫn của Sở Thông tin - Truyền thông và thực hiện việc quét mã QR-Code
để khai báo y tế, lập sổ ghi chép thông tin những người ra, vào hàng ngày (đối với
người không thuộc quản lý của đơn vị đến liên hệ, giao dịch, thực hiện nhiệm vụ…).
Cơ quan BHXH phân công các cán bộ đến từng hộ, gia đình để tun truyền về

những tiện ích, tính năng cơ bản và lợi ích của việc sử dụng ứng dụng VssID. Bố trí
cán bộ thường xuyên hỗ trợ người dân đến giao dịch với cơ quan BHXH tại bộ phận
“1 cửa” đăng ký, cài đặt sử dụng ứng dụng VSSID. Bên cạnh đó, BHXH tỉnh, BHXH
huyện cũng linh hoạt kết hợp các biện pháp, hình thức tuyên truyền cài đặt ứng dụng
VssID tại các điểm chi trả lương hưu, trợ cấp BHXH hàng tháng; Phối hợp với cơ
quan Công an để tổ chức hướng dẫn cài đặt, sử dụng ứng dụng VssID cho người dân
trong đợt ra quân cấp căn cước công dân của Ngành Công an trong tháng 3,4/2021…
Hướng dẫn, hỗ trợ người dân đăng ký, sử dụng ứng dụng VssID tại các điểm bầu cử
9


Đại biểu Quốc hội khóa XV và đại hiểu HĐND các cấp nhiệm kỳ 2021-2026 trong
tháng 05/2021 vừa qua…
Tuy nhiên, do nhiều thôn, xã trên địa bàn tỉnh Bắc Kạn thuộc vùng sâu, vùng xa,
điều kiện kinh tế khó khăn, vẫn cịn tỷ lệ người dân khơng biết chữ, điều kiện tiếp cận
với cơng nghệ thơng tin cịn hạn chế; một số thơn vùng sâu vùng xa chưa được phủ
sóng truyền thanh nên việc phát sóng các nội dung liên quan đến chính sách BHXH,
BHYT và cơng tác thực hiện ứng dụng VssID còn chưa được sâu rộng đến từng
người dân. Thêm vào đó, nhiều nơi khơng có mạng internet, khơng có sóng điện
thoại, người dân khơng có điện thoại thông minh nên không thể tiếp cận và sử dụng
được ứng dụng VssID. Đặc biệt, từ đầu năm đến nay, do tình hình dịch bệnh Covid19 diễn tiến phức tạp, hạn chế tụ tập đông người nên đã ảnh hưởng đến việc tuyên
truyền chính sách BHXH, BHYT đến người dân nói chung và triển khai ứng dụng
VssID nói riêng. Theo số liệu thống kê của BHXH tỉnh Bắc Kạn, tính đến ngày
10/07/2021, toàn tỉnh Bắc Kạn đã tiếp nhận gần 29.500 tài khoản đăng ký giao dịch
điện tử cài đặt ứng dụng VssID, trong đó có 28.000 tài khoản được phê duyệt hợp lệ
và 23.000 tài khoản đã đăng nhập sử dụng ứng dụng VssID thành cơng.
Về xóa đói giảm nghèo.
Mười chín năm hoạt động, tín dụng chính sách xã hội được coi là nguồn lực chính
trong cơng cuộc giảm nghèo và bảo đảm an sinh xã hội bền vững trên địa bàn tỉnh
Bắc Kạn. Trong thời điểm dịch COVID-19 bùng phát gây ảnh hưởng tiêu cực đến

tình hình sản xuất, đời sống nhân dân, nguồn vốn chính sách ở Bắc Kạn vẫn triển
khai hiệu quả, đến 31/8 đạt 2.298 tỷ đồng với 42.289 lượt hộ vay vốn. Hộ nghèo, hộ
đồng bào dân tộc thiểu số khó khăn từ vùng sơn cước Ba Bể, Pác Nặm đến triền đồi
Chợ Mới, Chợ Đồn được vay vốn thuận lợi, kịp thời để trồng trọt, chăn ni, tạo
nguồn thu cho gia đình.
Tỉnh đã tập trung thực hiện hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất theo hình
thức liên kết, tiêu thụ sản phẩm. Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ cho hợp tác xã,
phát triển các sản phẩm (OCOP) trên địa bàn, khuyến khích sự tham gia của hộ
nghèo, cận nghèo, giúp họ cải thiện sinh kế, ổn định cuộc sống có điều kiện tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản. Nhân rộng các mơ hình giảm nghèo có hiệu quả phù hợp
với điều kiện của địa phương.
Có thể nói, nguồn vốn ưu đãi đang được chuyển tải kịp thời về khắp vùng miền núi
cao, vùng xa thông qua mạng lưới 108 điểm giao dịch của Ngân hàng Chính sách xã
hội tại xã, phường, thị trấn và hệ thống 1.597 tổ tiết kiệm và vay vốn ở khắp thôn,
bản, tổ dân phố của tỉnh Bắc Kạn.
Về các chính sách trợ giúp xã hội.
Trong năm qua, tồn tỉnh có 9.080 đối tượng bảo trợ xã hội hưởng trợ cấp hằng
tháng tại cộng đồng, với tổng kinh phí gần 44 tỷ đồng, bao gồm người cao tuổi nghèo
khơng có người có nghĩa vụ và quyền phụng dưỡng, người từ đủ 80 tuổi trở lên
khơng có lương hưu, trợ cấp bảo hiểm xã hội hằng tháng, người khuyết tật nặng, đặc
biệt nặng, hộ gia đình nhận ni dưỡng chăm sóc trẻ em dưới 16 tuổi khơng có nguồn
ni dưỡng và người khuyết tật đặc biệt nặng, trẻ em dưới 16 tuổi không có nguồn
10


nuôi dưỡng, người bị nhiễm HIV thuộc hộ nghèo... Các chế độ của các đối tượng
được bảo đảm theo Nghị định 136/2013/NĐ-CP ngày 21/10/2013 của Chính phủ về
quy định chính sách trợ giúp xã hội đối với đối tượng bảo trợ xã hội; Quyết định số
362/QĐ-UBND ngày 26/3/2015 của UBND tỉnh về việc quy định mức trợ cấp chăm
sóc, ni dưỡng đối tượng tại các cơ sở bảo trợ xã hội trên địa bàn tỉnh.

Bên cạnh đó, tỉnh thường xuyên theo dõi, bảo đảm ổn định đời sống dân sinh khi
gặp thiên tai, hỏa hoạn và các nguyên nhân bất khả kháng. Chủ động bố trí ngân sách
địa phương, huy động cộng đồng và các nhà hảo tâm hỗ trợ hàng hóa, lương thực cho
các cá nhân và gia đình bị ảnh hưởng bởi thiên tai, hỏa hoạn hoặc các lý do bất khả
kháng khác.
KẾT LUẬN
Xác định đúng vị trí, vai trò của an sinh xã hội đối với phát triển đất nước, phù hợp
với thực tiễn và tình hình mới, là cơ sở và điều kiện để người dân được “thụ hưởng”
nhiều hơn thành quả từ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Cảm ơn cô đã dành thời gian đọc bài. Bài luận dựa trên kiến thức cá nhân và thông
tin tổng hợp nhiều nguồn nên em khơng thể tránh khỏi những sai sót, em mong sẽ
nhận được sự góp ý của cơ để em có thể rút kinh nghiệm. Em xin trân thành cảm ơn
cô ạ!

11


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bích Ngọc (2021, ‘Điểm tựa’ vững chắc cho hộ nghèo tại Bắc Kạn, truy cập lần
cuối vào ngày 18/10/2021 từ < />2. Bùi Văn Huyền & Nguyễn Ngọc Toàn (2021), Lưới an sinh xã hội hướng tới
nền kinh tế vì con người ở Việt Nam, truy cập lần cuối ngày 16/10/2021 từ
< />3. Hương Lan (2021), Thực hiện tốt chính sách hỗ trợ giảm nghèo gắn với mục tiêu
phát triển bền vững, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ <
/>4. Kim Anh (2021), BHXH tỉnh Bắc Kạn: Chung sức cùng địa phương trong phòng,
chống dịch COVID-19, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ <
/>5. Minh Anh (2021), BHXH tỉnh Bắc Kạn đẩy mạnh triển khai cài đặt ứng dụng
VssID-BHXH, truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ < />6. Minh Dư (2021), Tín dụng chính sách giúp bà con vùng cao Bắc Kạn thoát nghèo,
truy cập lần cuối ngày 18/10/2021 từ < />7. Trần Thùy Linh (2017), Đại hội XII của Đảng và những quan điểm về an sinh xã
hội,
truy

cập
lần
cuối
ngày
16/10/2021
từ
< />Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà
Nội, 2021, t. I, tr.147,148,149,269.

12



×