Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

QUAN điểm DUY vật BIỆN CHỨNG về mối QUAN hệ GIỮA vật CHẤT với ý THỨC và vận DỤNG vào CÔNG CUỘC đổi mới ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.32 KB, 19 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
---------***---------

KHOA KINH DOANH QUỐC TẾ
MÔN: TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
ĐỀ TÀI: QUAN ĐIỂM DUY VẬT BIỆN CHỨNG VỀ MỐI QUAN
HỆ GIỮA VẬT CHẤT VỚI Ý THỨC VÀ VẬN DỤNG VÀO
CÔNG CUỘC ĐỔI MỚI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Họ và tên: Bùi Nhật Hưng
MSV: 2111510038
Lớp: Anh 02 - KDQT - TC – K60


Hà Nội, tháng 11/2021
MỤC LỤC
LỜI
MỞ
ĐẦU.....................................................................................
...........................2
NỘI
DUNG...................................................................................
..................................2
I. Lý

luận

chung

về



mối

quan

hệ

giữa

vật

chất



ý

thức..........................................2

1. Vật

chất.................................................................................
.....................................2
1.1
Vật
chất

gì ?..............................................................................................
......2


1.2

Các

đặc

tính

của

vật

chất....................................................................................3

2. Ý
thức...........................................................................
.....................................5
2.1

Nguồn

gốc

của

ý

thức..........................................................................................5
2.1.1Nguồn


gốc

tự

nhiên....................................................................................
.5
2.1.2Nguồn

gốc



hội........................................................................................
6
2.2

Bản

chất

của

ý

thức.............................................................................................
6
1


3. Vật


chất

quyết

định

ý

thức...........................................................................
.....8
4. Tính

độc

lập

tương

đối

của

ý

thức....................................................................9
II. Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của Đảng ta trong
quá trình đổi mới..11
1.


Ý

nghĩa

phương

pháp

luận.....................................................................................
..11
2.

Sự

vận

dụng

của

Đảng

ta

trong

quá

trình


đổi

mới.................................................11

KẾT
LUẬN...................................................................................
................................13
TÀI
LIỆU
THAM
KHẢO...................................................................................
........14

DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VIẾT TẮT
XHCN: XÃ HỘI CHỦ NGHĨA
CNXH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

LỜI MỞ ĐẦU

2


Theo quan điểm Mác - Lênin: “ Vật chất và ý thức tồn tại trong mối quan
hệ biện chứng với nhau, tác động lẫn nhau thông qua hoạt động thực
tiễn; trong mối quan hệ đó vật chất giữ vai trị quyết định đối với ý thức.
Vật chất là nguồn gốc của ý thức, ý thức là sự phản ánh đối với vật chất. ”
Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, công cuộc đổi mới đất nước ta
đạt được những thành tựu vơ cùng to lớn. Tình hình chính trị, kinh tế, xã
hội, an ninh quốc phịng, đã có những chuyển biến tích cực. Kể từ Đại hội
VI, Đảng ta đã vận dụng quan điểm duy vật biện chứng về mối quan hệ

giữa vật chất với ý thức vào công cuộc đổi mới. Thực tế đã chứng minh
những đường lối, tư tưởng và chính sách trên là đúng đắn. Chúng ta đã
chuyển từ nền kinh tế theo cơ chế quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Với những ý nghĩa và tác dụng của vấn đề này, em đã chọn đề tài tiểu
luận triết học số một : “ Quan điểm duy vật biện chứng về mối liên hệ
giữa vật chất với ý thức và vận dụng vào công cuộc đổi mới ở nước ta
hiện nay. ”

NỘI DUNG
I. Lý luận chung về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức
Đây là vấn đề cơ bản, cốt lõi để phân biệt các trường phái triết học.
Trong mối quan hệ ấy triết học Mác - Lênin khẳng định: Ý thức do vật
chất sinh ra và quyết định, song sau khi ra đời, ý thức có tính độc lập
tương đối nên có sự tác động trở lại to lớn đối với vật chất thông qua
hoạt động thức tiễn con người.

1.Vật chất
1.1 Vật chất là gì ?
3


VL.Lênin đã định nghĩa : “ Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ
thực tại khách quan được đem lại cho con người trong cảm giác, được
cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn tại không lệ
thuộc vào cảm giác ”.
Theo định nghĩa này thì vật chất :
Thứ nhất, cần phân biệt khái niệm “ vật chất ” với tư cách là phạm trù
triết học ( tức phạm trù khái quát thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến
nhất của mọi tồn tại vật chất và được xác định từ góc độ giải quyết

vấn đề cơ bản của triết học ) với khái niệm “ vật chất ” được sử dụng
trong các khoa học chuyên ngành ( tức khái niệm dùng để chỉ những
dạng vật chất cụ thể, cảm tính; những biểu hiện cụ thể của thế giới vật
chất tự nhiên hay xã hội ).
Thứ hai, thuộc tính cơ bản nhất, phổ biến nhất của mọi sự tồn tại vật
chất được khái quát trong phạm trù vật chất của chủ nghĩa duy vật
biện chứng là thuộc tính tồn tại khách quan ( thực tại khách quan, tức
là thuộc tính tồn tại ngồi ý thức, độc lập không phụ thuộc vào ý thức
của con người cho dù con người nhận thức được hay không nhận thức
được nó ).
Thứ ba, vật chất ( dưới hình thức tồn tại cụ thể của nó ) là cái có thể
gây nên cảm giác của con người khi nó trực tiếp hay gián tiếp tác động
đến giác quan của con người. Ý thức của con người là sự phản ánh đối
với vật chất, còn vật chất là cái được ý thức phản ánh.

1.2

Các đặc tính của vật chất

Vận động là phương thức tồn tại của vật chất và là thuộc tính cố hữu
của vật chất. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, vận
động là sự biến đổi nói chung chứ khơng phải là sự chuyển dịch trong
khơng gian. Ăngghen cho rằng vận động là một phương thức tồn tại
của vật chất, là thuộc tính cố hữu của vật chất, gồm tất cả mọi sự thay
đổi trong mọi q trình diễn ra trong vũ trụ. Vận động có 5 hình thức
vận động chính là Cơ - Hố - Lý - Sinh - Xã Hội. Các hình thức vận động
4


này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Một hình thức vận động này

thực hiện là tác động qua lại với những hình thức vận động khác, trong
đó vận động cao bao gồm vận động thấp nhưng không thể coi hình
thức vận động cao là tổng số đơn giản các hình thức vận động thấp.
Thế giới khách quan bao giờ cũng tồn tại khơng ngừng khơng thể có
vật chất không vận động, tức vật chất tồn tại. Vật chất thông qua vận
động mà biểu hiện sự tồn tại của mình. Ăngghen nhận định rằng các
hình thức và các dạng khác nhau của vật chất, chỉ có thể nhận thức
được thơng qua vận động mới có thể thấy được thuộc tính của nó.
Trong thế giới vật chất từ các hạt cơ bản trong vi mô trong hệ thống
hành tinh khổng lồ. Bất cứ một dạng vật chất nào cũng là một thể
thống nhất có kết cấu xác định gồm những bộ phận nhân tố khác
nhau, cùng tồn tại ảnh hưởng và tác động lẫn nhau gây ra nhiều biến
đổi. Nguồn gốc vận động do những nguyên nhân bên trong, vận động
vật chất là tự thân vận động.
Vận động là thuộc tính cố hữu của vật chất, khơng thể có vận động
bên ngồi vật chất. Nó khơng do ai sáng tạo ra và khơng thể tiêu diệt
được do đó nó được bảo toàn cả số lượng lẫn chất lượng. Khoa học đã
chứng minh rằng nếu một hình thức vận động nào đó của sự vật mất đi
thì tất yếu nó nảy sinh một hình thức vận động khác thay thế. Các hình
thức vận động chuyển hố lẫn nhau cịn vận động của vật chất thì vĩnh
viễn tồn tại. Mặc dù vận động ln ở trong q trình khơng ngừng,
nhưng điều đó khơng loại trừ mà cịn bao hàm cả hiện tượng đứng im
tương đối, khơng có nó thì khơng có sự phân hoá thế giới vật chất
thành các sự vật, hiện tượng phong phú và đa dạng. Ăngghen khẳng
định rằng khả năng đứng im tương đối của các vật thể, khả năng cân
bằng tạm thời là những điều kiện chủ yếu của sự phân hoá vật chất.
Nếu vận động là biến đổi của các sự vật hiện tượng thì đứng im là sự
ổn định, là sự bảo tồn tính quy định sự vật hiện tượng. Đứng im chỉ
một trạng thái vận động, vận động trong thăng bằng, trong sự ổn định
tương đối. Trạng thái đứng im còn được biểu hiện như là một quá trình

5


vận động trong phạm vi sự vật ổn định, chưa biến đổi, chỉ là tạm thời
vì nó chỉ xảy ra trong một thời gian nhất định. Vận động riêng biệt có
xu hướng phá hoại sự cân bằng cịn vận động toàn thể lại phá hoại sự
cân bằng riêng biệt làm cho các sự vật ln biến đổi chuyển hố nhau.
Khơng gian và thời gian là những hình thức tồn tại của vật chất. Khơng
gian phản ánh thuộc tính của các đối tượng vật chất có vị trí, có hình
thức kết cấu, có độ dài ngắn cao thấp. Khơng gian biểu hiện sự tồn tại
và tách biệt của các sự vật với nhau, biểu hiện qua tính chất và trật tự
của chúng. Cịn thời gian phản ánh thuộc tính của các quá trình vật
chất diễn ra nhanh hay chậm, kế tiếp nhau theo một trình tự nhất
định. Thời gian biểu hiện trình độ tốc độ của q trình vật chất, tính
tách biệt giữa các giai đoạn khác nhau của quá trình đó, trình tự xuất
hiện và mất đi của các sự vật hiện tượng. Khơng gian và thời gian là
những hình thức cơ bản của vật chất đang vận động. Lênin đã chỉ ra
trong thế giới khơng có gì ngồi vật chất đang vận động. Không gian
và thời gian tồn tại khách quan, nó khơng phải bất biến, khơng thể
đứng ngồi vật chất khơng có khơng gian trống rỗng, mà nó có sự biến
đổi phụ thuộc vào vật chất vận động.

2.Ý thức
2.1

Nguồn gốc của ý thức

2.1.1Nguồn gốc tự nhiên
Trước Mác, nhiều nhà duy vật tuy khơng thừa nhận tính chất siêu tự
nhiên của ý thức, song do khoa học chưa phát triển nên cũng đã khơng

giải thích đúng nguồn gốc và bản chất của ý thức. Dựa trên những
thành tựu của khoa học tự nhiên nhất là sinh lý học thần kinh, chủ
nghĩa duy vật biện chứng khẳng định rằng ý thức là một thuộc tính của
vật chất nhưng khơng phải của mọi dạng vật chất mà chỉ là thuộc tính
của một dạng vật chất sống có tổ chức cao là bộ óc người. Bộ óc người
là cơ quan vật chất của ý thức. Ý thức là chức năng của bộ óc người.
Hoạt động ý thức của con người diễn ra trên cơ sở hoạt động sinh lý
6


thần kinh của bộ óc người. Ý thức phụ thuộc vào hoạt động bộ óc
người, do đó khi bộ óc bị tổn thương thì hoạt động ý thức sẽ khơng
bình thường hoặc bị rối loạn. Vì vậy, khơng thể tách rời ý thức ra khỏi
hoạt động của bộ óc. Ý thức không thể diễn ra, tách rời hoạt động sinh
lý thần kinh của bộ óc người.
Tuy nhiên, nếu chỉ có bộ óc khơng thơi mà khơng có sự tác động của
thế giới bên ngồi để bộ óc phản ánh lại tác động đó thì cũng khơng
thể có ý thức. Phản ánh là thuộc tính chung, phổ biến của mọi đối
tượng vật chất, thuộc tính này được biểu hiện ra trong sự liên hệ, tác
động qua lại giữa các đối tượng vật chất với nhau, phản ánh là sự tái
tạo những đặc điểm của một hệ thống vật chất này ở hệ thống vật
chất khác trong quá trình tác động qua lại của chúng. Kết quả của sự
phản ánh phụ thuộc vào cả hai vật: vật tác động và vật nhận tác động.
Đồng thời quá trình phản ánh bao hàm quá trình thơng tin. Nói cách
khác, vật nhận tác động bao giờ cũng mang thông tin của vật tác
động. Đây là điều hết sức quan trọng để làm sáng tỏ nguồn gốc tự
nhiên của ý thức.
Là hình thức cao nhất của sự phản ánh thế giới hiện thực, ý thức chỉ
nảy sinh ở giai đoạn phát triển cao của thế giới vật chất, cùng với sự
xuất hiện của con người. Ý thức là ý thức của con người, nằm trong con

người, không thể tách rời con người. Ý thức bắt nguồn từ một thuộc
tính của vật chất - thuộc tính phản ánh - phát triển thành. Ý thức ra đời
là kết quả phát triển lâu dài của thuộc tính phản ánh của vật chất, nội
dung của nó là thơng tin về thế giới bên ngoài, về vật được phản ánh.
Ý thức và sự phản ánh thế giới bên ngoài vào trong bộ óc người. bộ óc
người là cơ quan phản ánh song chỉ có riêng bộ óc thơi thì chưa thể có
ý thức. Khơng có sự tác động của thế giới bên ngồi lên các giác quan
và qua đó đến bộ óc thì hoạt động ý thức khơng thể xảy ra. Như vậy,
bộ óc người cùng với thế giới bên ngồi tác động lên bộ óc, đó là
nguồn gốc tự nhiên của ý thức.

7


2.1.2Nguồn gốc xã hội
Để cho ý thức ra đời, những tiền đề, nguồn gốc tự nhiên là rất quan
trọng, không thể thiếu được, song chưa đủ điều kiện quyết định cho sự
ra đời cùng với quá trình hình thành bộ óc người nhờ lao động, ngôn
ngữ và những quan hệ xã hội, ý thức là sản phẩm của sự phát triển xã
hội, nó phụ thuộc và xã hội, và ngay từ đầu đã mang tính chất xã hội.
Q trình hình thành ý thức khơng phải là q trình con người tiếp thu
thụ động. Nhờ có lao động con người tác động vào các đối tượng hiện
thực, bắt chúng phải bộc lộ những thuộc tính, những kết cấu, những
quy luật vận động của mình thành những hiện tượng nhất định và các
hiện tượng này tác động vào bộ óc người. ý thức được hình thành
khơng phải chủ yếu là do tác động thuần túy, tự nhiên của thế giới
khách quan vào bộ óc người, mà chủ yếu là do hoạt động của con
người cải tạo thế giới khách quan làm biến đổi thế giới đó. Q trình
hình thành ý thức là kết quả hoạt động, chủ động của con người. như
vậy, không phải bỗng nhiên thế giới khách quan tác động vào bộ óc

người để con người có ý thức mà trái lại, con người có ý thức chính vì
con người chủ động tác động vào thế giới thông qua hoạt động thực
tiễn để cải tạo thế giới, con người chỉ có ý thức do có tác động vào thế
giới. Nói cách khác, ý thức chỉ được hình thành thơng qua hoạt động
thực tiễn của con người. Nhờ tác động vào thế giới mà con người khám
phá ra những bí mật của thế giới, ngày càng làm phong phú và sâu sắc
ý thức của mình về thế giới.
Ngơn ngữ do nhu cầu của lao động và nhờ vào lao động mà ý thức.
Khơng có hệ thống tín hiệu này – tức ngơn ngữ, thì ý thức khơng thể
tồn tại và thể hiện được. Theo C. Mác, ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của
tư duy, là hiện thực trực tiếp của tư tưởng, khơng có ngơn ngữ, con
người khơng thể có ý thức.
Như vậy, nguồn gốc trực tiếp và quan trọng nhất quyết định sự ra đời
và phát triển của ý thức là lao động, là thực tiễn xã hội. Ý thức là sự
8


phản ánh hiện thực khách quan vào trong bộ óc người thông qua lao
động, ngôn ngữ và các quan hệ xã hội. Ý thức là sản phẩm xã hội, là
một hiện tượng xã hội.

2.2

Bản chất của ý thức

Ý thức là cái phản ánh thế giới khách quan, nhưng nó là cái thuộc
phạm vi chủ quan, là thực tại chủ quan, khơng có tính vật chất. Ý thức
là hình ảnh phi cảm tính của các đối tượng vật chất có tồn tại cảm
tính. Nếu coi ý thức cũng là một hiện tượng vật chất thì sẽ lẫn lộn giữa
vật chất và ý thức, làm mất ý nghĩa của sự đối lập giữa vật chất và ý

thức, từ đó dẫn đến làm mất đi sự đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và
chủ nghĩa duy tâm.
Tuy nhiên, ý thức không phải là bản sao giản đơn, thụ động máy móc
của sự vật. Ý thức là của con người, mà con người là một thực thể xã
hội năng động sáng tạo. Ý thức phản ánh thế giới khách quan trong
quá trình con người tác động cải tạo thế giới. Do đó, ý thức con người
là sự phản ánh có tính năng động, sáng tạo. Ý thức là sự phản ánh
sáng tạo lại hiện thực, theo nhu cầu thực tiễn xã hội, vì vậy ý thức “
Chẳng qua chỉ là vật chất được đem chuyển vào trong đầu óc con
người, và được cải biến đi ở trong đó ” (C. Mác và Ph. Ăngghen: Tồn
tập, NXB. CTQG, HN, 1993, Trang 35). Nói cách khác, ý thức là hình
ảnh chủ quan của thế giới khách quan.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người, song
đây là sự phản ánh đặc biệt – phản ánh trong quá trình con người, cải
tạo thế giới. Quá trình ý thức là quá trình thống nhất của 3 mặt sau
đây :
- Một là trao đổi thông tin giữa chủ thể và đối tượng phản ánh. Sự trao
đổi này mang tính chất hai chiều, có định hướng và chọn lọc các thông
tin cần thiết.

9


- Hai là, mơ hình hóa đối tượng trong tư duy dưới dạng hình ảnh tinh
thần. Thực chất đây là quá trình “Sáng tạo lại” hiện tượng của ý thức,
theo nghĩa mã hóa các đối tượng vật chất thành các ý thức tinh thần
phi vật chất.
- Ba là, chuyển mô hình từ tư duy ra hiện thực khách quan, tức q
trình hiện thực hóa tư tưởng, thơng qua hoạt động thực tiễn biến cái
quan niệm thành cái thực tại, biến các ý tưởng phi vật chất trong tư

duy thành các dạng vật chất ngoài hiện thực. Trong giai đoạn này con
người lựa chọn những phương pháp, phương tiện, công cụ để tác động
vào hiện thực khách quan nhằm thực hiện mục đích của mình. Điều đó
càng nói lên tính năng động sáng tạo của ý thức.
Tính sáng tạo của ý thức khơng có nghĩa là ý thức đẻ ra vật chất. Sáng
tạo của ý thức là sáng tạo của sự phản ánh, theo quy luật và trong
khuôn khổ của sự phản ánh, mà kết quả bao giờ cũng là những khách
thể tinh thần. Sự sáng tạo của ý thức không đối lập, loại trừ, tách rời sự
phản ánh mà ngược lại thống nhất với phản ánh, trên cơ sở phản ánh.
Phản ánh và sáng tạo là hai mặt thuộc bản chất của ý thức. Ý thức
trong bất cứ trường hợp nào - cũng là sự phản ánh và chính thực tiễn
xã hội của con người tạo ra sự phản ánh phức tạp, năng động, sáng tạo
của bộ óc.

3.Vật chất quyết định ý thức
Như chúng ta đã biết, luận chứng khoa học của triết học Mác - Lênin đã
khẳng định ý thức là sản phẩm của dạng vật chất nhưng không phải là
sản phẩm của bất kỳ dạng vật chất nào mà là sản phẩm của dạng vật
chất đặc biệt, có tổ chức cao là bộ óc người, chỉ có bộ óc người một kết
cấu đặc biệt, có tổ chức tinh vi, hoàn thiện mới sinh ra ý thức. Cho nên
nếu bộ óc người nào bị tổn thương hay rối loạn chức năng phản ánh thì
người đó khơng thể có được ý thức.
Với con người có ý thức, ý thức biểu hiện bao gồm :
10


- Ý thức thông thường
- Ý thức khoa học
- Ý thức kinh nghiệm
- Ý thức lý luận

Ý thức thông thường là những tình cảm, thói quen và những ước muốn
bình thường trong cuộc sống bình thường. Mỗi con người đều sống
trong những điều kiện tự nhiên, kinh tế -xã hội nhất định và những
điều kiện này sẽ chi phối họ. Mác đã khẳng định: “ Ý thức là vật chất
được di chuyển vào trong bộ óc con người và được cải biến ở trong đó
”. Qua khái niệm trên ta ta nhận thấy ở đây không chỉ là ý thức thơng
thường mà cịn là ý thức lý luận khoa học. Ý thức lý luận khoa học cũng
là sự phản ánh hiện thực khách quan nhưng dưới hình thức là những
cặp phạm trù, nguyên lý, quy luật, khái niệm, tiên đề… được trình bày
thành những hệ thống, những học thuyết nhất định. Lý luận khoa học
là sự phản ánh ở trình độ cao của ý thức, nó cũng do vật chất, hiện
thực khách quan quyết định. Khoa học tự nhiên nói lên những thuộc
tính, những mối quan hệ bản chất của các hiện tượng tự nhiên, do quy
luật vận động phát triển của hiện tượng ấy quyết định. Khoa học xã hội
cũng vậy, quy luật vận động của các hiện tượng và quá trình phát triển
của xã hội do hiện thực xã hội quyết định. Vật chất quyết định ý thức.
Nguyên lí này có ý nghĩa thực tiễn vơ cùng quan trọng. Vì trong thực tế
ở mỗi con người mỗi tổ chức xã hội thường có những chương trình, kế
hoạch hoạt động để thể hiện ý chí ý tưởng của mình. nhưng lại qn
rằng những ý chí, ước vọng đó chỉ thực hiện được trên cơ sở những
điều kiện vật chất nhất định, thiếu những phương tiện vật chất người
ta không thể làm được cái gì hết bởi ý tưởng tự nó khơng thực hiện
được cái gì hết muốn hiện thực hóa ý tưởng phải sử dụng lực lượng vật
chất. Ơng cha ta thường nói “ có thực mới vực được đạo ”, hay “ có bột
mới gột nên hồ ”.

4.Tính độc lập tương đối của ý thức
11



Vật chất là cái có trước, ý thức là cái có sau, ý thức do vật chất quyết
định. Đó là quan điểm của các nhà duy vật trước Mác đã khẳng định.
Nhưng triết học Mác-Lênin không chỉ dừng lại ở đó mà nó lại khẳng
định rằng vật chất quyết định ý thức, song ý thức lại tác động trở lại
vật chất, cải tạo thế giới vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của
con người.
Ý thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vào bộ óc con người một
cách năng động sáng tạo. Cho nên nó giúp con người hiểu biết bản
chất và quy luật vận động của sự vật hiện tượng. Trên cơ sở đó con
người xác định phương hướng, mục tiêu hoạt động của mình, xác định
phương pháp và biện pháp cụ thể để thực hiện mục tiêu. Nhờ có ý thức
con người phân biệt được đúng, sai, lợi, hại,cái gì nên làm, cái gì cần
tránh, tìm được đường đi đúng hướng tránh được sai lầm. Trong quá
trình hoạt động thực tiễn xuất hiện nhiều khả con người có thể phân
tích, phát hiện nhiều khả năng tốt, xấu để chỉ đạo hoạt động của mình
tạo điều kiện cho khả năng tốt phát triển, ngăn ngừa hạn chế khả năng
xấu.
Trong các loại ý thức thì ý thức lý luận khoa học có vai trị to lớn nhất.
Ý thức lý luận của giai cấp vô sản là chủ nghĩa Mác-Lênin. Đó là hệ
thống lý luận khoa học, là kim chỉ nam cho hoạt động của giai cấp
công nhân và quần chúng nhân dân lao động trong việc cải tạo thế giới
bằng thực tiễn. Tác động của ý thức rất năng động và to lớn. Và như
Mác đã khẳng định: “...lý luận có thể trở thành sức mạnh vật chất khi
nó thâm nhập vào lực lượng quần chúng ”, điều này thể hiện rất rõ ở
cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc ở nước ta. Khi nước nhà lâm nguy
Bác Hồ đã ra lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, lời kêu gọi đó đã thấm
sâu vào khối óc và con tim của triệu triệu con người Việt Nam, đặc biệt
là anh bộ đội cụ Hồ, họ đã không ngại khó khăn gian khổ sẵn sàng
chiến đấu, hi sinh, vì độc lập tự do của tổ, vì CNXH. Vật chất quyết định
ý thức, ý thức tác động trở lại vật chất, mối quan hệ biện chứng ấy là

cơ sở khách quan của phương pháp luận khoa học: mọi suy nghĩ và
12


hành động phải xuất phát từ thực tế khách quan, đồng thời phải biết
phát huy tính năng động chủ quan.
Mỗi một chúng ta phải xuất phát từ thực tế khách quan, từ xu hướng
phát triển tất yếu của xã hội, từ sự nghiệp xây dựng CNXH. Trong bối
cảnh lịch sử xã hội hiện nay, trước xu thế tồn cầu hóa, nền kinh tế thị
trường, mỗi bản thân chúng ta phải xác định cho mình một lý tưởng
sống, sống có mục đích, khơng sống lãng phí. Thật khơng đơn giản
chút nào khi cả cái tích cực và tiêu cực trong xã hội đang đan xen vào
nhau đang triệt tiêu lẫn nhau, thậm chí có những nơi cái tiêu cực cịn
lấn át cả cái tích cực. Cái vật chất tầm thường đã làm gục ngã bao
nhiêu cán bộ đảng viên có chức, có quyền. Đã làm cho họ khơng thể ý
thức nỗi là họ phải đánh đổi cả một cuộc đời mới có ngày vinh quang
hơm nay. Cuộc sống hơm nay thật phức tạp, nếu thoát ly khỏi cuộc
sống thực tại sẽ trở thành duy tâm chủ nghĩa, còn nếu phù hợp một
cách thụ động sẽ trở nên thực dụng, còn nếu cứ khư khư ôm lấy cái
bản lĩnh, lý tưởng một cách máy móc xơ cứng thì chắc chắn sẽ gặp
khơng ít khó khăn, nếu khơng kịp thích ứng có khi sẽ bị đào thải. Cho
nên nói đến vai trị của ý thức thực chất là nói tới vai trị của con người.
Do đó cần phải trang bị ý thức lý luận khoa học cho cán bộ, cho đông
đảo quần chúng nhân dân bởi “ muốn xây dựng XHCN phải có con
người XHCN ”
Triết học Mác - Lênin đã vạch rõ bản chất phản động của triết học duy
tâm. Họ cho rằng ý thức có trước vật chất và quyết định vật chất,
nhưng thực chất là ngụy biện để che đậy cái bản chất của chủ nghĩa tư
bản. Họ xem mối quan hệ giữa vật chất và ý thức chỉ là quan hệ một
chiều như chính giai cấp tư sản trong chủ nghĩa tư bản. Vậy triết học

duy vật biện chứng của Mác - Lênin đã chứng minh rằng đằng sau chủ
nghĩa duy tâm là khuynh hướng tư tưởng của giai cấp tư sản hiện đại
đang tìm mọi lý lẽ phản khoa học để chống lại chủ nghĩa duy vật của
Mác. Chủ nghĩa duy vật của Mác đã luận chứng một cách khoa học về
thế giới, đó là thế giới vật chất. Thế giới vật chất không ai sinh ra,
13


khơng ai tiêu diệt được, tồn tại khách quan ngồi ý thức của con người
và quyết định ý thức của con người. Nhưng không phủ nhận sự tác
động trở lại của ý thức mà cịn thừa nhận một cách có căn cứ khoa học
về vai trò của ý thức đối với vật chất. Chính quan hệ biện chứng giữa
vật chất và ý thức đã giúp con người không chỉ nhận biết được thế giới
mà còn cải tạo được thế giới vật chất để phục vụ cho lợi ích của con
người, vai trò của ý thức biểu hiện tập trung ở chỗ nó chỉ đạo hoạt
động thực tiễn của con người. Tầm quan trọng của ý thức tiến bộ của
lý luận cách mạng đã được Lênin tổng kết trong câu nói nổi tiếng “
khơng có lý luận cách mạng thì khơng có phong trào cách mạng ”.
Thật vậy khi điều kiện khách quan đã xuất hiện những chủ trương
đường lối sáng suốt, biện pháp đúng đắn, quyết tâm cao là điều kiện
có ý nghĩa quyết định đối với sự thành cơng của cách mạng. Nguyên
nhân chủ yếu của sự thành công của cách mạng Việt Nam là Đảng ta
đã nắm vững và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin phù hợp với
tình hình thực tế nước ta nên đã đề ra đường lối và phương pháp cách
mạng đúng đắn trong từng giai đoạn cách mạng.

II.

Ý nghĩa phương pháp luận và sự vận dụng của Đảng


ta trong quá trình đổi mới
1.Ý nghĩa phương pháp luận
Vì vật chất quyết định ý thức nên trong hoạt động thực tiễn chúng ta
phải xuất phát từ hiện thực khách quan, tôn trọng và tuân theo quy
luật khách quan.
Vì ý thức tác động trở lại vật chất nên trong hoạt động thực tiễn chúng
ta phải chú ý giáo dục và nâng cao nhận thức cho con người.
Mác nói: “ Cố nhiên vũ khí phê phán khơng thể thay thế sự phê phán
bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh bại bởi lực lượng vật
chất, nhưng lý luận một khi thâm nhập được vào quần chúng thì sẽ trở
thành lực lượng vật chất ”.
14


Chống quan điểm duy ý chí: V.I.Lênin đã nhiều lần nhấn mạnh khơng
được lấy ý muốn chủ quan của mình làm chính sách, khơng được lấy
tình cảm làm điểm xuất phát cho chiến lược cách mạng. Nếu chỉ xuất
phát từ ý muốn chủ quan, nếu lấy ý chí áp đặt cho thực tế, lấy ảo
tưởng thay cho hiện thực thì sẽ mắc phải bệnh duy ý chí. Bệnh chủ
quan duy ý chí là do sự yếu kém về trình độ nhận thức nói chung và sự
hạn chế trong q trình áp dụng lý luận vào thực tiễn nói riêng. Do đó,
Lênin đã gọi căn bệnh này là “ sự mù quáng chủ quan ”, là sai lầm tự
phát dẫn đến rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách không tự giác. Về lý
luận, bệnh chủ quan duy ý chí có nhiều biến thể phức tạp và trở thành
mầm mống cho nhiều căn bệnh mới trong nhận thức. Song vẫn có khả
năng được ngăn ngừa và loại bỏ.

2.Sự vận dụng của Đảng ta trong quá trình đổi mới
Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội “ Đảng ta đã phạm sai lầm
chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan ” trong việc xác định

mục tiêu, bước đi về xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật, cải tạo xã hội
chủ nghĩa và quản lý kinh tế... Căn bệnh đó biểu hiện ở chỗ, chúng ta
đã chủ quan trong việc đánh giá những khả năng hiện có, vì thế mà
sinh ra những ảo tưởng về tốc độ cải tạo, phát triển kinh tế, và do đó,
dẫn đến việc đề ra những chỉ tiêu quá cao trong xây dựng cơ bản và
phát triển sản xuất. Trong cải tạo và xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
đổi mới, chúng ta đã khơng có được một đường lối, chính sách phát
triển kinh tế thận trọng và khoa học dẫn đường. Sai lầm chủ quan duy
ý chí đó là sự vi phạm nguyên tắc khách quan của sự xem xét, trái với
tinh thần của phép biện chứng duy vật.
Trước tình hình nền kinh tế miền Bắc còn bị phá hoại, nền kinh tế miền
Nam bị đảo lộn và suy sụp, lạm phát trầm trọng, Đại hội Đảng lần thứ
IV lại đề ra những chỉ tiêu kế hoạch năm 1976 - 1980 quá cao và phát
triển sản xuất quá khả năng của nền kinh tế, như: năm 1975, phấn đấu
đạt 21 triệu tấn lương thực, 1 triệu tấn cá biển,1 triệu hecta khai
15


hoang, 1 triệu 200 hecta rừng mới trồng, 10 triệu tấn than sạch, 2
triệu tấn xi măng Đến hết năm 1980, nhiều chỉ tiêu kinh tế chỉ đạt
khoảng 50-60% mức đề ra, nền kinh tế tăng trưởng rất chậm chạp,
tổng sản phẩm xã hội tăng bình qn 1,5%, cơng nghiệp tăng 2,6%,
nông nghiệp giảm 0,15%. Đại hội Đảng lần thứ V, cũng chưa tìm ra
được đầy đủ những nguyên nhân đích thực sự trì trệ trong nền kinh tế
của nước ta và cũng chưa đề ra các chủ trương, chính sách và toàn
diện về đổi mới, nhất là về kinh tế.
Tại Đại hội Đảng VI, Đảng đã tự phê bình một cách nghiêm khắc, đã
phân tích đúng nguyên nhân của tình hình khủng hoảng kinh tế - xã
hội, đề ra các định hướng và xác định chủ trương đổi mới đặc biệt là
đổi mới về kinh tế, thực hiện mục tiêu ba chương trình kinh tế: lương

thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu. Vì vậy, từ lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin và từ kinh nghiệm thành cơng và thất bại
trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đại hội Đảng lần thứ VII chỉ ra
những tồn tại lớn cần giải quyết như vấn đề lạm phát, thiếu việc làm,
trong điều hành quản lý còn nhiều sơ hở, lúng túng Đặc biệt Đại hội
cũng xác định: “ Về quan hệ đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị phải
tập trung sức đổi mới kinh tế, đáp ứng đòi hỏi cấp bách của nhân dân
về đời sống và làm việc, các nhu cầu xã hội khác, xây dựng cơ sở vật
chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, coi đó là điều kiện quan trọng để
tiến hành đổi mới trong lĩnh vực chính trị ”. Đại hội đã rút ra bài học
quan trọng là: “ Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ
thực tế, tôn trọng quy luật khách quan và hành động theo quy luật
khách quan ”.
Đất nước ta đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa và hiện
đại hóa, Đảng ta chủ trương “ lấy việc phát huy nguồn lực con người
làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững ”, nâng cao
trình độ dân trí, trình độ tri thức và tay nghề cho người lao động. Muốn
vậy, “ phải khơi dậy trong dân lòng yêu nước, ý chí quật cường, phát
huy tài trí của người Việt Nam, quyết tâm đưa nước nhà khỏi nghèo
16


nàn, lạc hậu ” - tức là phải phát huy tính năng động của ý thức. Đẩy
mạnh đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận
và thực tiễn, tiếp tục làm sang tỏ con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Nâng cao công tác tuyên truyền giáo dục lí luận chính trị để tạo nên sự
thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong Nhân dân.

KẾT LUẬN
Có thể nói, vật chất đóng một vai trị vơ cùng lớn và quyết định đối với

ý thức, nó là cái có trước ý thức, nhưng ý thức lại phản ánh lại vật chất.
Mối quan hệ qua lại này chỉ được thơng qua thực tiễn. Chính vì vậy,
chúng ta nâng cao vai trò của ý thức với vật chất cũng là nâng cao
năng lực nhận thức các quy luật khách quan và vận dụng nó vào trong
đời sống thực tiễn của con người.
Trong công cuộc đổi mới của đất nước ta hiện nay, chúng ta đã thành
công khi chuyển từ nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền
kinh tê thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đảng ta luôn luôn xác
định phải xuất phát từ thực tế khách quan, tôn trọng và hành động
theo quy luật khách quan. Thực tế đã chứng minh việc vận dụng mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức vào công cuộc đổi mới của đất nước là
vô cùng đúng đắn và cần thiết. Ngày hôm nay, sau hơn 20 năm đổi
mới đất nước đã có những chuyển mình tích cực. Xong trong q trình
thực hiện vẫn cịn khơng ít những sai sót, khuyết điểm. Vì vậy, để thực
sự cuộc đổi mới đi đến thành cơng cần sự đồn kết, nỗ lực hết sức
mình của tồn Đảng, tồn dân, tồn qn.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
17


1. Lê Xuân Lựu (2001), Chủ nghĩa Mác – Lênin – bản chất cách mạng
và khoa học, Tạp chí Cộng sản, số 5, tr.3 – 6.
2. Nguyễn Viết Thông (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác – Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
3. Nhị Lê (2001), Về con đường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam , Tạp chí
Cộng sản, số 5, tr.11 – 15.
4. Phạm Chí Thành (1993), C.Mác và Ph.Ăngghen tồn tập , NXB Chính
trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội.
5.


Tạp chí Cộng sản (2001), Tọa đàm về con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở nước ta, Tạp chí Cộng sản, số 6, tr.3 – 15.

18



×