TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
BÀI THẢO LUẬN THỨ SÁU: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC
MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI
SẢN VÀ THỪA KẾ
GIẢNG VIÊN: T.S Đặng Nguyễn Phương Uyên
LỚP: QT46B1 - NHĨM 4 – BUỔI 6
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 12 tháng 4 năm 2022
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA LUẬT QUỐC TẾ
BÀI THẢO LUẬN THỨ SÁU: QUY ĐỊNH VỀ DI CHÚC
MÔN: NHỮNG QUY ĐỊNH CHUNG VỀ LUẬT DÂN SỰ, TÀI
SẢN VÀ THỪA KẾ
GIẢNG VIÊN: T.S Đặng Nguyễn Phương Uyên
LỚP: QT46B1 - NHÓM 4 – BUỔI 6
STT
HỌ VÀ TÊN
MSSV
1
Bùi Võ Thảo Nguyên
2153801015174
2
Nguyễn Trương Quang Nhật
2153801015182
3
Nguyễn Viết Tùng
2153801015227
4
Lê Thị Thu Ngân
2153801015159
5
Trần Thị Duyên Như
2153801015200
6
Nguyễn Đại Phước
2153801015203
2
GHI CHÚ
Nhóm trưởng
NỘI DUNG THẢO LUẬN
I.VẤN ĐỀ 1: HÌNH THỨC CỦA DI CHÚC
A. TÓM TẮT
Bản án số 83/2009/DSPT ngày 28/12/2009 của Tịa án nhân dân tỉnh Phú
n
Ngun đơn: ơng Nguyễn Thành Hiếu
Bị đơn: bà Đặng Thị Trọng
Ông Nguyễn Thành Hiếu khởi kiện bà Đặng Thị Trọng về việc tranh chấp di
sản thừa kế do ông Nguyễn Này để lại. Cụ thể, ông Nguyễn Này có lập di
chúc viết tay cho ông Hiếu được tồn quyền thừa kế sử dụng lơ đất số AG
67735, diện tích 225m2, thuộc tờ bản đồ số 08, thửa số 83 do UBND huyện
Sông Hinh cấp ngày 2/5/2007, đứng tên ơng Này, bà Trọng. Ơng Hiếu có đề
nghị tịa giải quyết theo di chúc, nhận ½ lơ đất để có chỗ tiếp tục hành nghề.
Bà Trọng khơng đồng ý, yêu cầu chia di sản theo pháp luật. Tại bản án sơ
thẩm, tòa án tuyên bố bà Trọng được nhận toàn bộ di sản và phải thối lại
phần chênh lệch cho ơng Hiếu. Ơng Hiếu có kháng cáo nhưng tòa phúc thẩm
bác đơn và giữ nguyên bản án sơ thẩm.
Quyết định số 874/2011/DS-GĐT ngày 22/11/2011 của Tòa dân sự Tịa án
nhân dân tối cao
Ngun đơn: Ơng Đỗ Văn Quang
Bị đơn: Bà Hoàng Thị Ngâm
Cụ Đỗ Thị Hựu (mẹ ông Quang) kết hôn với cụ Đỗ Văn Hằng và có 2 người
con chung là ơng Đỗ Văn Hồng (ơng Hồng hi sinh nằm 1986, có vợ là bà
Hồng Thị Ngâm và có 1 con chung) và bà Đỗ Thị Lựu. Năm 1950, cụ Hằng
chết khơng có di chúc. Đến 1954, cụ Hựu sống chung với Lương Văn Sách
và có con là ơng Quang. Ngồi ra, cụ Hựu cịn có 1 người con chung với cụ
Dị. Ngày 05-02-2005, cụ Hựu chết, toàn bộ đất hiện tại do bà Ngâm quản lý,
sử dụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo di chúc của bà
Hựu. Nay ông Quang khởi kiện yêu cầu huỷ di chúc do không hợp pháp và
yêu cầu chia thừa kế đối với di sản của cụ Hựu theo pháp luật. Xét thấy, đất
tranh chấp là tài sản của tổ tiên cụ Đỗ Văn Hằng để lại cho vợ chồng cụ Hằng
và cụ Đỗ Thị Hựu. Sau khi cụ Hựu chết, bà Ngâm đã không làm đúng theo di
chúc cụ Hựu mà tự ý kê khai đăng ký và được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất. Bên cạnh đó, ơng Đỗ cho rằng, đất nêu trên là tài sản của dòng họ
Đỗ là khơng đúng do dịng họ Đỗ khơng kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất
này. Di chúc của cụ Hựu không đúng theo quy định về di chúc hợp pháp của
người không biết chữ theo khoản 3 Điều 652 BLDS 2005 nên di chúc là
3
khơng có căn cứ. Tồ quyết định huỷ bỏ bản án dân sự phúc thẩm và xét xử
lại.
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN:
1. Điều kiện về hình thức để di chúc tự viết tay có giá trị pháp lý? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Di chúc phải do người để lại di sản tự mình viết bằng chữ viết tay và tự mình
ký tên điểm chỉ vào tờ di chúc. Người lập di chúc khơng được đánh máy vi
tính hoặc bằng các cách thức tương tự. Trường hợp di chúc có sự tẩy xóa sửa
chữa thì người lập di chúc hoặc người làm chứng ký tên vào bên cạnh chỗ tẩy
xóa.
Theo Điều 633 BLDS 2105: “Người lập di chúc phải tự viết và ký vào bản di
chúc. Việc lập di chúc bằng văn bản khơng có người làm chứng phải tuân
theo quy định tại Điều 631 của Bộ luật này”. Các trường hợp nếu khơng phải
do chính người để lại dai sản viết di chúc thì sẽ khơng được cơng nhận ngoại
trừ Điều 634: “Trường hợp người lập di chúc khơng tự mình viết bản di chúc
thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh máy bản di
chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di chúc phải
ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm chứng; những
người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di chúc và ký vào
bản di chúc”.
2. Nếu di chúc của ông Này là di chúc phải có người làm chứng thì những
người đã làm chứng di chúc của ơng Này có là người làm chứng hợp
pháp không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ Điều 632 BLDS 2015 thì “Mọi người đều có thể làm chứng cho việc
lập di chúc, trừ những người sau đây: Người thừa kế theo di chúc hoặc theo
pháp luật của người lập di chúc; Người có quyền, nghĩa vụ tài sản liên quan
tới nội dung di chúc; Người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân
sự, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi”. Theo đó thì cha,
anh, em của ơng Này khơng được làm chứng. Vì cha của ơng Này thuộc hàng
thừa kế thứ nhất, cịn anh, em của ơng Này thuộc hàng thừa kế thứ hai. Pháp
luật khơng nói rõ người thừa kế thứ mấy thì khơng được làm chứng mà chỉ
quy định người thừa kế theo di chúc hoặc theo pháp luật. Do đó có thể hiểu
rằng tất cả những người thừa kế của ông Này đều không được làm chứng.
Như vậy những người đã làm chứng di chúc của ông Này đều khơng hợp
pháp.
3. Di chúc của ơng Này có là di chúc do ông Này tự viết tay không? Vì sao?
Di chúc của ơng Này là do chính ơng Này tự viết tay. Vì trong phần xét thấy
có ghi: “Xét thấy giấy thừa kế do ông Nguyễn Này viết khơng được chính
4
quyền địa phương công chứng, chứng thực nhưng được lập trong lúc ơng
Này cịn minh mẫn, sáng suốt, khơng bị lừa dối, đe dọa hoặc cưỡng ép và có
nhiều người làm chứng nên được coi là di chúc hợp pháp”.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tịa án liên quan đến
hình thức di chúc của ơng Này khi đây là di chúc do ông Này tự viết tay.
Trong bản án trên, hướng giải quyết của Tòa án là công nhận di chúc của ông
Này là hợp pháp. Căn cứ vào các quy định của BLDS 2015, Điều 630:
“Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa
dối, đe doạ, cưỡng ép”. Điều 633: “Người lập di chúc phải tự viết và ký vào
bản di chúc”. Điều 634: “Trường hợp người lập di chúc khơng tự mình viết
bản di chúc thì có thể tự mình đánh máy hoặc nhờ người khác viết hoặc đánh
máy bản di chúc, nhưng phải có ít nhất là hai người làm chứng. Người lập di
chúc phải ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc trước mặt những người làm
chứng; những người làm chứng xác nhận chữ ký, điểm chỉ của người lập di
chúc và ký vào bản di chúc”. Có thể thấy di chúc của ơng Này đã thỏa mãn
các quy định trên nên việc Tòa án cơng nhận di chúc của ơng Này là có căn
cứ và thuyết phục.
5. Di chúc của cụ Hựu đã được lập như thế nào?
Di chúc của cụ Hựu đã được lập như sau: Ngày 25/11/1998, di chúc là do cụ
Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, ông Vũ và cụ Đỗ Thị Quý (là mẹ
của ông Vũ) ký tên, làm chứng, sau đó ngày 04/01/1999 bà Lựu mang di
chúc đến cho ơng Hồng Văn Thưởng (là Trưởng thôn) và Ủy ban nhân dân
xã Mai Lâm xác nhận.
6. Cụ Hựu có biết chữ khơng? Đoạn nào của Quyết định số 874 cho câu trả
lời?
Cụ Hựu không biết chữ.
Trong Quyết định 874 và trong phần xét thấy của Hội đồng xét xử giám đốc
thẩm có đoạn: “Ơng Quang xác định cụ Hựu là người khơng biết chữ”. Tịa
án xét thấy cụ Hựu khơng biết chữ. Từ đó giải quyết bản di chúc của cụ Hựu
là không hợp pháp, cụ thể: Theo qui định tại khoản 3 Điều 630 BLDS 2015
thì “Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ
phải được người làm chứng thành lập văn bản và có cơng chứng hoặc chứng
thực”. Trong trường hợp này di chúc của cụ Hựu có hai người làm chứng, có
xác nhận của ơng Thưởng và xác nhận của UBND xã Mai Lâm. Tuy nhiên
ông Thưởng không chứng kiến cụ Hựu lập di chúc, việc UBND xác nhận là
do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận và UBND chỉ xác nhận chữ ký của
ông Thưởng chứ không xác nhận nội dung trong di chúc. Mặt khác qua xác
5
định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì: “dấu vân tay mờ khơng thể
hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám định. Do đó chưa đủ
căn cứ xác định di chúc trên thể hiện đúng ý chí của cụ Hựu. Tịa án cấp sơ
thẩm và Tịa án cấp phúc thẩm cơng nhận di chúc của cụ Hựu hợp pháp là
chưa đủ căn cứ”.
7. Di chúc của người không biết chữ phải thỏa mãn các điều kiện nào để có
hình thức phù hợp với quy định của pháp luật?
Đối với người để lại di sản khơng thể tự mình viết di chúc do bị mù chữ thì
pháp luật quy định người này phải lập di chúc bằng văn bản, theo thủ tục
công chứng phải lập, cơng chứng chứng thực di chúc phải có người làm
chứng, quy định tại BLDS 2005: “Điều 652. Di chúc hợp pháp di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người
làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực” và BLDS
2005: “Điều 658. Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoăc UBND
Xã, Phường, Thị Trấn”.
- Việc lập di chúc tại cơ quan công chức hoặc UBND Xã, Phường, Thị Trấn
phải tuân theo thủ tục sau đây:
“1) Người lập di chúc tuyên bố nội dung của di chúc trước cơng chứng viên
hoặcngười có thẩm quyền chứng thực của UBND Xã, Phường, Thị trấn.
Người lập di chúc ký hoặc điểm chỉ vào bản di chúc đã được ghi chúng chính
xác và thể hiện đúng ý chí của mình. Cơng chức viên hoặc người có thẩm
quyền chứng thực của UBND Xã, Phường, Thị trấn ký vào bản di chúc.
2) Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe
được bản di chúc, không ký hoặc khơng điểm chỉ được thì phải nhờ người
làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt Cơng chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của UBND Xã, Phường, Thị Trấn, chứng
nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và người làm chứng”.
8. Các điều kiện nào nêu trên đã được đáp ứng đối với di chúc của ông
Hựu?
Các điều kiện đã được đáp ứng đối với di chúc của cụ Hựu là: di chúc đã
được lập thành văn bản và có ít nhất 2 người làm chứng. Cụ thể, di chúc do
cụ Hựu đọc cho ông Vũ viết, cụ Hựu điểm chỉ, sau đó đưa cho ơng Vũ và cụ
Đỗ Thị Q ký tên làm chứng.
9. Các điều kiện nào nêu trên đã không được đáp ứng đối với di chúc của
ông Hựu?
Trong trường hợp này, di chúc của cụ Hựu có 02 người làm chứng là ơng Vũ
và cụ Q, có xác nhận của ông Thưởng (là Trưởng thôn) và xác nhận của
6
Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm. Tuy nhiên, ông Thưởng không chứng kiến cụ
Hựu lập di chúc, việc Ủy ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận là do bà Lựu
mang di chúc đến xác nhận (sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn 01 tháng) và Ủy
ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ ký của ông Thưởng chứ không
xác nhận nội dung di chúc. Mặt khác, qua giám định dấu vân tay của cụ Hựu
tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự Tổng cục cảnh sát kết luận: “dấu
vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc điểm riêng nên không đủ yếu tố giám
định. Do đó, chưa đủ căn cứ xác định di chúc nêu trên thể hiện đúng ý chí
của cụ Hựu”. Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 quy định về hình thức, thủ
tục lập di chúc của người bị hạn chế về thể chất thì cụ Hựu trong bản án này
bị hạn chế về thể chất, di chúc của cụ Hựu không được tự tay cụ Hựu mang
đi công chứng hoặc chứng thực (mà do con cụ Hựu mang đi), trên di chúc
cũng không xác định được dấu vân tay có phải là của cụ Hựu hay khơng, vì
vậy không đủ căn cứ để khẳng định di chúc trên là của cụ Hựu và thể hiện
trung thực ý chí của cụ Hựu trước khi chết.
10. Theo anh/chị, di chúc nêu trên có thỏa mãn điều kiện về hình thức
khơng? Vì sao?
Di chúc của cụ Hựu chưa hồn tồn thỏa mãn điều kiện về hình thức.
Bởi vì, cụ Hựu không biết chữ nên việc lập di chúc phải do người khác
viết hộ. Theo khoản 3 Điều 630 BLDS 2015 có quy định: “Di chúc của
người hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được
người làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực”.
Phần xét thấy trong Quyết định số 874/2011/DS-GĐT có nêu như sau:
“Trong trường hợp này, di chúc của cụ Hựu có 2 người làm chứng là ơng
Vũ và cụ Q, có xác nhận của ơng Thưởng (là trưởng thôn) và xác nhận
của Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm. Tuy nhiên ông Thưởng không chứng
kiến cụ Hựu lập di chúc, việc Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm xác nhận là
do bà Lựu mang di chúc đến xác nhận (sau khi cụ Hựu lập di chúc hơn 1
tháng) và Uỷ ban nhân dân xã Mai Lâm chỉ xác nhận chữ kí của ơng
Thưởng chứ khơng xác nhận nội dung của di chúc. Mặt khác, qua giám
định dấu vân tay của cụ Hựu tại bản di chúc thì Viện khoa học hình sự
Tổng hợp cảnh sát kết luận dấu vân tay mờ không thể hiện rõ các đặc
điểm riêng nên khơng đủ yếu tố giám định”. Thêm vào đó, người lập di
chúc là cụ Hựu và người mang di chúc đi cơng chứng là bà Lựu. Do vậy,
khơng có đủ yếu tố xác định di chúc này thể hiện ý chí của cụ Hựu.
7
11. Suy nghĩ của anh/chị về các quy định trong BLDS liên quan đến hình
thức di chúc của người khơng biết chữ.
Trong BLDS 2005 có những quy định liên quan đến hình thức di chúc của
người khơng biết chữ như Khoản 3 Điều 652: “Di chúc của người bị hạn chế
về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập
thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực”. Và Điều 658 tại mục 2
của BLDS 2005: “Thủ tục lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc Uỷ ban
nhân dân xã, phường, thị trấn. Việc lập di chúc tại cơ quan công chứng hoặc
Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn phải tuân theo thủ tục sau đây:
2. Trong trường hợp người lập di chúc không đọc được hoặc không nghe
được bản di chúc, khơng ký hoặc khơng điểm chỉ được thì phải nhờ người
làm chứng và người này phải ký xác nhận trước mặt cơng chứng viên hoặc
người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn.
Công chứng viên, người có thẩm quyền chứng thực của Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di chúc và
người làm chứng”.
Trong BLDS 2015 có những quy định liên quan đến hình thức di chúc của
người không biết chữ như khoản 3 Điều 630 BLDS 2015: “Di chúc của
người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người
làm chứng lập thành văn bản và có cơng chứng hoặc chứng thực”. Và tại
khoản 2 Điều 636 BLDS 2015: “Trường hợp người lập di chúc không đọc
được hoặc không nghe được bản di chúc, không ký hoặc không điểm chỉ
được thì phải nhờ người làm chứng và người này phải ký xác nhận trước
mặt công chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực của Ủy ban
nhân dân cấp xã. Cơng chứng viên hoặc người có thẩm quyền chứng thực
của Ủy ban nhân dân cấp xã chứng nhận bản di chúc trước mặt người lập di
chúc và người làm chứng”.
=> Những quy định nghiêm ngặt về hình thức như thế này xuất phát từ cơ sở
pháp lý và cơ sở kỹ thuật của nó. Nhằm bảo vệ tối đa ý chí đích thực của
người để lại di sản và cũng đề phòng việc người khác lợi dụng những khiếm
khuyết của người để lại di sản để giả mạo di chúc, lừa dối, đe dọa, cưỡng ép.
II. VẤN ĐỀ 2: TÀI SẢN ĐƯỢC ĐỊNH ĐOẠT THEO DI CHÚC
A. TÓM TẮT
Quyết định số 359/2013/DS-GĐT ngày 28/8/2013 của Tòa dân sự Tòa
án nhân dân tối cao
Căn nhà số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận (diện
tích 680,6m2; giá trị tiền xây dựng 433.587.700đ) là tài sản chung của cụ
Hương và cụ Quý. Sau khi cụ Hương chết, di chúc cụ để lại chia đều toàn
8
bộ căn nhà cho 5 người gồm ông Đức, ông Nghĩa, bà Hiếu, ơng Dũng, chị
Kiều (vợ ơng Trí). Cụ Q kiện ơng Dũng và ơng Lộc địi chia ½ tài sản
chung và ⅔ suất thừa kế theo pháp luật. Tòa sơ thẩm chấp nhận yêu cầu của
cụ Quý và chia cho cụ sở hữu 359,1m2 và 228.837.950đ tiền xây dựng nhà.
Tịa cũng cơng nhận sự thỏa thuận của các đương sự (ông Nghĩa, bà Hiếu,
ông Đức, ông Dũng, bà Kiều), chia mỗi người được hưởng 64,3m2 và
40.949.950đ. Sau khi xét xử sơ thẩm, ông Lộc khiếu nại bản án sơ thẩm vì
cho rằng Tịa khơng tun xử buộc ơng phải giao nhà cho ai. Tòa giám đốc
thẩm xét thấy quyết định chia cho tài sản trên của tòa sơ thẩm là có căn cứ.
Nhưng việc tịa sơ thẩm khơng quyết định việc ông Lộc phải giao trả phần
nhà đất mà ông Lộc đang sử dụng cho cụ Quý là chưa giải quyết triệt để vụ
án, dẫn đến bản án có hiệu lực pháp luật mà khơng thể thi hành được. Đồng
thời, tịa sơ thẩm có thiếu sót khi khơng xem xét cơng sức gìn giữ di sản
của ơng Lộc. Tòa giám đốc thẩm đã ra quyết định hủy bản án sơ thẩm, giao
hồ sơ cho TAND TP. HCM xét xử sơ thẩm lại.
Quyết định số 58/2018/DS-GĐT ngày 27-9-2018 của Tòa án nhân dân
cấp cao tại Hà Nội
Nguyên đơn: ông Trần Văn Y
Bị đơn: Phòng công chứng M tỉnh Vĩnh Phúc
Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là Nguyễn Văn D1
Nội dung:
Cụ D và cụ C chung sống với nhau nhưng không đăng ký kết hôn. Sau đó,
cụ D chung sống với cụ H, sinh ra ơng D1.
Ngày 16/12/2009, cụ C lập di chúc để lại một phần tài sản là bất động sản
tại thửa đất số 38 cho ông D1.
Ngày 15/01/2011, cụ D lập di chúc tại phịng cơng chứng M để lại phần tài
sản của mình tại thửa đất trên cho ơng D1. Khi Nhà nước thu hồi, ông D1
được đứng tên và nhận tiền bồi thường.
Sau khi cụ D và cụ C chết, ngày 26/01/2011, phịng cơng chứng M có văn
bản cơng bố di chúc của cụ C và cụ D đối với di sản của hai cụ là thửa đất
số 38.
Năm 2013, ông Y khởi kiện cho rằng thửa đất số 38 ông đã mua của cụ C từ
năm 1987. Đến năm 1998, hai bên lập giấy bán nhà và chuyển nhượng
quyền sử dụng đất. Việc phịng cơng chứng M cơng chứng di chúc của cụ
D, văn bản công bố di chúc của hai cụ làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích
hợp pháp của gia đình ơng, nên ống khởi kiện u cầu tòa án tuyên
9
Theo quyết định giám đốc thẩm, thửa đất trên là tài sản chung của cụ C và
cụ D. Tuy nhiên, các tài liệu do ơng Y xuất trình thể hiện chỉ có cụ C
chuyển nhượng cho ơng Y mà chưa có ý kiến của cụ D. Trường hợp chỉ cụ
C tự ý định đoạt tài sản chung của hai cụ mà khơng có sự đồng ý của cụ D
thì cần xem xét tính hợp pháp của hợp đồng chuyển nhượng Q trình giải
quyết vụ án, tịa sơ thẩm, phúc thẩm tuyên bố các văn bản công chứng vô
hiệu là chứa đủ căn cứ, ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của ơng D1.
Vì vậy, quyết định giám đốc thẩm của TAND Cấp cao tại Hà Nội đã hủy
hai bản án sơ và phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho TAND TP Vĩnh Yên xét
xử lại theo quy định.
Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số
38 đã bị thu hồi theo quyết định số 1208 năm 2010 của UBND TP Vĩnh
Yên. Dù vậy, giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được
pháp luật bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai. Do đó, hai cụ có quyền
lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ông D1.
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN:
1. Cụ Hương đã định đoạt tài sản nào? Đoạn nào của Quyết định số 359
cho câu trả lời?
Cụ Hương đã định đoạt toàn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng
Hiền, phường 5, quận Phú Nhuận.
Đoạn của Quyết định số 359 cho thấy cụ Hương đã định đoạt toàn bộ căn
nhà là:
“Ngày 06/04/2009 cụ Nguyễn Văn Hương chết, để lại di chúc có nội dung
chia tồn bộ căn nhà và đất số 302 Nguyễn Thượng Hiền, phường 5, quận
Phú Nhuận cho 5 người con là: Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn Hữu Nghĩa,
Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng. Quảng Thị Kiều (vợ Nguyễn Hữu
Trí), di chúc đã được cơng chứng tại Phịng cơng chứng số 4 thành phố Hồ
Chí Minh ngày 16/01/2009”.
2. Đoạn nào của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt
trong di chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương?
Đoạn của Quyết định số 359 cho thấy tài sản cụ Hương định đoạt trong di
chúc là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương là:
“Tuy nhiên về nội dung thì di chúc chỉ có giá trị một phần bởi nhà đất trên
là tài sản chung của vợ chồng cụ Hương và cụ Quý. Việc cụ Hương lập di
chúc toàn bộ nhà đất cho 5 người con trong khi khơng có sự đồng ý của cụ
Quý là không đúng”.
10
3. Tịa án đã cơng nhận phần nào của di chúc? Đoạn nào của Quyết định
số 359 cho câu trả lời?
- Tồ án đã cơng nhận phần tài sản được chia đều cho 5 người con nhưng
chỉ chia phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) sau khi đã chia cho cụ
Quý 2/3 suất thừa kế theo pháp luật.
Đoạn của Quyết định số 359 cho câu trả lời là:
“Vì vậy, Toà án cấp sơ thẩm xét xử di chúc của cụ Nguyễn Văn Hương có
hiệu lực một phần đối với phần tài sản của cụ Hương (1/2 nhà đất) nên
được chia đều cho 5 người con là các ông bà Nguyễn Ngọc Đức, Nguyễn
Hữu Nghĩa, Nguyễn Ngọc Hiếu, Nguyễn Hữu Dũng, Quảng Thị Kiều (vợ
ơng Nguyễn Hữu Trí) sau khi đã chia cho cụ Quý 2/3 suất thừa kế theo
pháp luật; còn 1/2 và thêm 2/3 suất thừa kế theo pháp luật và phần còn lại
chia đều cho 5 người con được hưởng thừa kế theo di chúc của cụ Hương là
có căn cứ”.
4. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm.
Em đồng ý với hướng giải quyết trên của Tòa giám đốc thẩm. Vì Tịa bảo
vệ được quyền và lợi ích hợp pháp trong việc hưởng thừa kế và sở hữu tài
sản của cụ Quý (CCPL: Điều 669 BLDS 2005 hay Điều 644 BLDS 2015).
Bên cạnh đó cũng đảm bảo thực hiện được một phần di chúc của cụ Hương,
bảo vệ quyền và lợi ích trong việc hưởng thừa kế của 5 người con được cụ
Hương để lại di sản.
5. Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương, phần nào của di chúc có giá trị pháp
lý? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Căn cứ vào khoản 1 và khoản 2 Điều 27 Luật Hơn nhân và gia đình 2000
(khoản 1 và khoản 2 Điều 33 Luật Hơn nhân và gia đình 2014) quy định về
tài sản chung của vợ chồng thì chia làm 3 trường hợp:
- Trường hợp 1: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương mà không để lại di chúc
thì căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 675 BLDS 2005 (điểm a khoản 1 Điều
650 BLDS 2015) những trường hợp thừa kế theo pháp luật thì thừa kế theo
pháp luật khi khơng có di chúc và điểm a khoản 1 Điều 676 BLDS 2005
(điểm a khoản 1 Điều 651 BLDS 2015) quy định về người thừa kế theo
pháp luật về hàng thừa kế thứ nhất. Vì vậy, di sản của cụ Quý sẽ được chia
đều cho cụ Hương và các người con, do đó phần tài sản của cụ Hương bao
gồm phần được hưởng thừa kế theo pháp luật từ cụ Quý và phần tài sản ban
đầu là ½ nhà đất. Khi đó, di chúc định đoạt cho 5 người con chỉ có hiệu lực
pháp lý 1 phần với phần tài sản nêu trên.
11
- Trường hợp 2: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương mà để lại di chúc định
đoạt một phần di sản nhà đất thì căn cứ vào khoản 1 Điều 669 BLDS 2005
(điểm a khoản 1 Điều 644 BLDS 2015) người thừa kế không phụ thuộc vào
nội dung của di chúc thì cụ Hương vẫn nhận được di sản ⅔ suất thừa kế
theo pháp luật. Khi đó, di chúc của cụ Hương chỉ có hiệu lực pháp lý 1
phần đáp ứng với phần tài sản chung của vợ chồng và với phần được thừa
kế từ cụ Quý.
- Trường hợp 3: Nếu cụ Quý chết trước cụ Hương mà để lại di chúc định
đoạt toàn bộ phần tài sản chung của vợ chồng cho cụ Hương nếu khơng có
người nào trong trường hợp quy định tại Điều 669 BLDS 2005 (Điều 644
BLDS 2015) thì tồn bộ căn nhà sẽ thuộc sở hữu của cụ Hương. Khi đó, di
chúc của cụ Hương sẽ có giá trị pháp lý tồn phần (căn cứ vào Điều 609
quyền thừa kế 2015 hay Điều 631 BLDS 2005 cá nhân có quyền lập di chúc
để định đoạt tài sản của mình).
6. Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ
Hương vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp
lý khơng? Vì sao?
Nếu tài sản được định đoạt trong di chúc chỉ thuộc sở hữu của cụ Hương
vào đầu tháng 4/2009 thì di chúc của cụ Hương có giá trị pháp lý. Vì phần
tài sản trong di chúc là của cụ Hương sở hữu nên có quyền định đoạt (căn
cứ vào Điều 609 quyền thừa kế 2015 hay Điều 631 BLDS 2005 cá nhân có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình).
7. Quyết định số 58, đoạn nào cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ
D đã bị thu hồi trước khi hai cụ chết?
Quyết định số 58, đoạn cho thấy quyền sử dụng đất của cụ C và cụ D đã bị
thu hồi trước khi hai cụ chết là trong phần nhận định của Tòa án: "Tờ bản
đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐ-UBND ngày 21/7/2010
của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng giá trị quyền sử dụng đất
của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật bảo đảm theo quy định của
Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc định đoạt tài sản trên cho ơng
D1 Tịa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào Bản án số
45/2009/DS-PT ngày 22-5-2009 của Tòa án nhân dân tỉnh Vĩnh Phúc (trong
bản án phúc thẩm này Hội đồng xét xử chị tuyên hủy bản án sơ thẩm và
đình chỉ giải quyết vụ án) để xác định tại thời điểm cụ D lập di chúc, di sản
giải là một phần tài sản (bất động sản tại thừa số 38, Tờ bản đồ số 13)
khơng cịn nữa là chưa chính xác.
Cụ C chết vào ngày: 07/09/2010
12
Cụ D chết vào ngày: 21/01/2011
8. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định
di sản của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất? Suy nghĩ của anh/chị về
hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm?
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm xác định di sản
của cụ C và cụ D là quyền sử dụng đất là: "[5] Ngoài ra, di sản của cụ D, cụ
C để lại là quyền sử dụng đất tại thửa đất số 38".
Theo em thì hướng xác định vừa nêu của Tòa giám đốc thẩm là hợp lý:
Theo khoản 3 Điều 643 BLDS 2015 thì: "Di chúc khơng có hiệu lực, nếu di
sản để lại cho người thừa kế khơng cịn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di
sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di
sản cịn lại vẫn có hiệu lực ".
Khi cụ C và cụ D cịn sống thì mảnh đất đã bị thu hồi và đây là thu hồi có
đền bù; khi xác định đối tượng di sản là bất động sản thì di sản khơng còn,
còn nếu đối tượng di sản là quyền sử dụng đất thì sẽ cịn vì nó cịn giá trị
đền bù.
Khi xác định di sản là quyền sử dụng đất thì theo Điều 115 của BLDS
2015: "Quyền tài sản là quyền trị giá được bằng tiền". Thì theo đó trường
hợp này quyền giá trị sử dụng đất bị thu hồi được bảo đảm bằng giá trị bồi
thường; những người lập di chúc có đất bị thu hồi có quyền lập di chúc định
đoạt giá trị bồi thường. Chính vì thế thời điểm mở thừa kế di sản vẫn tồn tại
đảm bảo được quyền lợi của người thừa kế.
9. Đoạn nào của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo
hướng cụ C và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng
đất bị Nhà nước thu hồi? Suy nghĩ của anh/chị về hướng vừa nêu của
Tòa giám đốc thẩm.
Đoạn của Quyết định số 58 cho thấy Tòa giám đốc thẩm theo hướng cụ C
và cụ D được định đoạt theo di chúc giá trị quyền sử dụng đất bị Nhà nước
thu hồi là: “Tờ bản đồ số 13 đã bị thu hồi theo Quyết định số 1208/QĐUBND ngày 21-7-2010 của Ủy ban nhân dân thành phố Vĩnh Yên nhưng
giá trị quyền sử dụng đất của người có đất bị thu hồi vẫn được pháp luật
bảo đảm theo quy định của Luật Đất đai nên hai cụ có quyền lập di chúc
định đoạt tài sản trên cho ơng D1”.
Theo em thì hướng vừa nêu của Tịa giám đốc thẩm là hợp lý. Mặc dù về
mặt văn bản chưa có quy định rõ nhưng về bản chất giá trị được bồi thường
khi quyền sử dụng đất bị thu hồi gắn với quyền sử dụng đất, giá trị bồi
thường này được trị giá bằng tiền, như vậy nó thuộc một dạng quyền tài sản
13
thì nó chính là tài sản được pháp luật quy định và chúng ta được định đoạt
bằng di chúc. Như vậy, việc gián tiếp thừa nhận giá trị được bồi thường khi
quyền sử dụng đất bị thu hồi là tài và được quyền định đoạt là thuyết phục
III. VẤN ĐỀ 3: DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
A. TÓM TẮT:
Bản án số 14/2017/DSST ngày 28/9/2017 của Tòa án nhân dân huyện C
tỉnh Phú Thọ.
Nguyên đơn: bà Hoàng Thị H
Bị đơn: anh Hồng Tuyết H
Ơng X và bà H là vợ chồng. Trước khi mất, ơng X có để lại di chúc chung
của vợ chồng viết vào ngày 10/8/2015 với nội dung là để lại di sản cho con
mình là ơng H1, nếu ơng X chết trước thì sẽ do bà H sử dụng quản lý đến
khi bà H mất mới để lại cho ông H1. Nay bà H khởi kiện u cầu cơng
nhận bản di chúc vì các con bà khơng thừa nhận di chúc đó. Tịa án nhận
định u cầu khởi kiện của bà H là phù hợp, bản di chúc là hợp pháp và phù
hợp với quy định của pháp luật. Yêu cầu khởi kiện của bà H phù hợp quy
định tại chương XXII của BLDS 2015. Trong quá trình giải quyết vụ án,
các bên đương sự thừa nhận ơng X có tinh thần tỉnh táo, khơng phải nằm
điều trị cho đến thời điểm trước khi chết. Nội dung của bản di chúc không
vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp với quy định
tại Điều 630 BLDS 2015. Áp dụng Điều 627, Điều 630 BLDS 2015; khoản
1, khoản 5 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, điểm
a khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 quyết định: cơng
nhận di chúc chung của ơng Hồng Minh X và bà Hồng Thị H là hợp
pháp, khơng chấp nhận yêu cầu của anh Hoàng Tuyết H và anh Hồng
Quốc H2 địi chia di sản của ơng Hồng Minh X.
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN:
1. Đoạn nào của bản án số cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc
chung của vợ chồng?
Đoạn của bản án cho thấy di chúc có tranh chấp là di chúc chung của vợ
chồng là:
“Ơng Hồng Minh X và bà Hồng Thị H là vợ chồng. Trong thời kỳ hôn
nhân ông bà tạo dựng được khối tài sản chung như biên bản thẩm định ngày
21/8/2017. Tháng 01/2016 ơng X chết và có để lại một bản di chúc chung
của vợ chồng viết ngày 10/8/2015”.
2. Theo Tịa án, di chúc chung của vợ chồng có giá trị pháp lý khi áp
dụng BLDS 2015 không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời.
14
Theo Tòa án, di chúc chung của vợ chồng vẫn có giá trị pháp lý khi áp dụng
BLDS 2015.
Đoạn của bản án cho câu trả lời là:
“Tại điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định di chúc hợp pháp:
1. Di chúc hợp pháp phải có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người lập di chúc minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị
lừa
dối, đe dọa, cưỡng ép;
b) Nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, khơng trái đạo
đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
…
4. Di chúc bằng văn bản khơng có cơng chứng, chứng thực chỉ được coi là
hợp pháp, nếu có đủ các điều kiện được quy định tại khoản 1 Điều này.
Trong quá trình giải quyết vụ án, các bên đương sự thừa nhận ơng X có tinh
thần tỉnh táo, minh mẫn, khơng phải nằm điều trị cho đến thời điểm trước
khi chết. Sự thừa nhận trên chứng tỏ vào thời điểm ông X viết bản di chúc
cịn khỏe mạnh, minh mẫn, khơng có sự ép buộc nào. Nội dung trong bản di
chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội phù hợp
với quy định tại Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015”.
3. Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án về di chúc
chung của vợ chồng trong mối quan hệ với BLDS 2015.
- Hướng giải quyết của Toà án về di chúc chung của vợ chồng trong mối
quan hệ với BLDS 2015 là hợp lý tuy BLDS này khơng có quy định cụ thể
về trường hợp này như BLDS 2005. So với các điều kiện để di chúc được
xem là hợp pháp theo BLDS 2015 thì:
Nội dung của bản di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái
đạo đức xã hội phù hợp với quy định tại điểm b khoản 1 Điều 630
BLDS 2015.
Người lập di chúc, ông X và bà H hoàn toàn tự nguyện, minh mẫn, sáng
suốt tại thời điểm lập. Điều này được thể hiện rõ trong bản án qua sự
thừa nhận của các bên đương sự và phù hợp với điểm a khoản 1 Điều
630 BLDS 2015.
Hình thức của di chúc phù hợp với quy đinh của pháp luật về di chúc
bằng văn bản khơng có người làm chứng tại Điều 633 BLDS 2015. Cụ
thể di chúc này do ông X tự viết và được vợ chồng ông cùng ký tên vào.
Theo kết luận giám định số 1700/KLGĐ ngày 28/8/2017 thì đây chính
xác là chữ ký tay của ông X, việc không xác nhận chữ ký của bà H là do
bà còn sống tại thời điểm xảy ra tranh chấp.
15
Di chúc chung này nhằm định đoạt tài sản của ông X, bà H. Điều này là
phù hợp với quy định tại Điều 609 BLDS 2015 về việc cá nhân có
quyền lập di chúc để định đoạt tài sản của mình. Tuy nhiên Tồ án chỉ
cơng nhận di chúc trên là hợp pháp chứ không đề cập đến hiệu lực của
di chúc. Điều này là hợp lý do đây là di chúc chung của vợ chồng ông
X, bà H nhưng chỉ có ơng X qua đời trước nên chưa đến thời điểm mở
thừa kế theo Điều 611 BLDS 2015.
Vậy tuy BLDS 2015 không đề cập đến quy định chung về di chúc của vợ
chồng nhưng do thỏa đáng các điều kiện về nội dung, hình thức, chủ thể
được quy định nên Tịa án cơng nhận di chúc chung của ông X bà H là hợp
lý.
IV. VẤN ĐỀ 4: DI SẢN DÙNG VÀO VIỆC THỜ CÚNG
A. TÓM TẮT
Bản án số 211/2009/DSPT ngày 16/9/2009 của Tòa án nhân dân Huyện
Long Thành, tỉnh Đồng Nai
Nguyên đơn là anh Được khởi kiện về việc tranh chấp di sản thừa kế với bị
đơn là anh Tâm và chị Hương. Ông Mười và bà Lùng là vợ chồng. Hai
người có 7 người con là Thảo, Tân, Xuân, Nhành, Hoa, Được và Hương. Di
sản để lại là một căn nhà cấp 4 diện tích khoảng 100m2 tại khu đất Kim
Sơn thị Trấn Long Thành. Ngày 8 tháng 7 năm 2004 bà Lùng lập di chúc để
lại nhà đất cho 7 người con đồng thời thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ anh
Được quản lí sử dụng anh tân và chị Hương để căn nhà và đất như hiện tại
là tài sản chung của 7 người. Tòa án chấp yêu cầu khởi kiện của anh Được
với anh Tâm và chị Hương cùng những người có nghĩa vụ liên quan về việc
tranh chấp di sản thừa kế giao cho anh Được quyền sở hữu sử dụng căn nhà
có diện tích 57,25m2 anh Được phải có trách nhiệm thanh toán giá trị di sản
thừa kế cho anh Tâm và chị Hương mỗi người số tiền 37 424 000đ (ba
mươi bảy triệu bốn trăm hai mươi bốn nghìn đồng).
B. CÂU HỎI THẢO LUẬN:
1. Trong điều kiện nào di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý?
Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời.
Để di sản dùng vào việc thờ cúng có giá trị pháp lý thì di sản đó cần thỏa
mãn những điều kiện sau:
Thứ nhất, di sản của người chết đã đủ thanh toán nghĩa vụ tài sản của người
đó và cịn thừa lại.
Thứ hai, người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng.
16
Thứ ba, di sản dùng vào việc thờ cúng sẽ giao cho người đã được chỉ định
trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng, nếu người để lại di sản
không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử
một người quản lý di sản.
Cơ sở pháp lý: Điều 645 BLDS 2015.
Điều 645. Di sản dùng vào việc thờ cúng
“1. Trường hợp người lập di chúc để lại một phần di sản dùng vào việc thờ
cúng thì phần di sản đó khơng được chia thừa kế và được giao cho người đã
được chỉ định trong di chúc quản lý để thực hiện việc thờ cúng; nếu người
được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thỏa thuận
của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di
sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lý để thờ cúng.Trường
hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di sản thờ cúng thì
những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng.Trường hợp tất cả
những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ
cúng thuộc về người đang quản lý hợp pháp di sản đó trong số những người
thuộc diện thừa kế theo pháp luật.
2. Trường hợp toàn bộ di sản của người chết khơng đủ để thanh tốn nghĩa
vụ tài sản của người đó thì khơng được dành một phần di sản dùng vào việc
thờ cúng”.
2. Đoạn nào của bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng
vào việc thờ cúng?
Đoạn trong bản án cho thấy di sản có tranh chấp được di chúc dùng vào
việc thờ cúng là: “tại tờ di chúc ngày 8 tháng 7 năm 2004 bà Lùng để lại
nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh Được là
người quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý chia di
sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận’’.
3. Các điều kiện để di sản dùng vào việc thờ cúng một cách hợp pháp có
được thỏa mãn trong vụ việc đang nghiên cứu không?
Theo đoạn 2 khoản 1 Điều 645 BLDS 2015 về di sản di sản dùng vào việc
thờ cúng: “Trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lý di
sản thờ cúng thì những người thừa kế cử người quản lý di sản thờ cúng”.
Như vậy điều kiện để di sản thờ cúng dùng vào việc thờ cúng 1 cách hợp
pháp được thỏa mãn vì trong vụ việc đang nghiên cứu bà Lùng mẹ của các
nguyên đơn và bị đơn, đã để lại di chúc cho các con về di sản dùng vào việc
thờ cúng nhưng không chỉ định người quản lý di sản và hiện tại 5/7 anh chị
17
em của anh Được đã đồng ý giao cho anh Được quản lý di sản nên các điều
kiện đã được thỏa mãn.
4. Ai đồng ý và ai không đồng ý chia di sản dùng vào việc thờ cúng trong
vụ tranh chấp này? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Ngồi anh Tân chị Hương khơng đồng ý chia di sản thì 5 anh chị em cịn lại
đều đồng ý nội dung trong bản án là: “Ngày 8/7 năm 2004 mẹ anh lập di
chúc để lại nhà đất cho 7 anh chị em quản lý hiện tại anh quản lý nhà đất
năm 2005 5 anh chị em hợp lại chia di sản của mẹ anh, nhưng anh Tân và
chị Hương khơng đồng ý”.
5. Cuối cùng Tịa án có chấp nhận chia di sản đã được di chúc dùng vào
việc thờ cúng không? Đoạn nào của bản án cho câu trả lời?
Cuối cùng Tòa án chấp nhận chia di sản đã được di chúc chia vào việc thờ
cúng. Đoạn trong bản án là: “Tại tờ di chúc ngày 8/7 năm 2004 bà Lùng để
lại nhà đất cho 7 người con đồng thừa hưởng để thờ cúng cha mẹ, anh
Được là người quản lý di sản, hiện tại 5/7 anh chị em của anh Được đồng ý
chia di sản và giao cho anh Được sở hữu di sản là có cơ sở chấp nhận. Vì
vậy anh được sở hữu phần của anh Thảo anh Nhành anh Xuân và chị Hoa.
Và phần của anh được tổng số là 187.120.000đ, anh Được phải thanh toán
cho anh Tân chị Hương mỗi người 37.424.000 đ”.
6. Suy nghĩ của anh/chị về chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong
BLDS và giải pháp của Tòa án trong vụ việc đang được nghiên cứu
Chế định di sản dùng vào việc thờ cúng trong BLDS hiện nay còn sơ sài về
cơ sở xác lập di sản này, không đáp ứng được nhu cầu điều chỉnh quan hệ
xã hội đa dạng và phức tạp xung quanh việc di sản dùng vào việc thờ cúng.
BLDS hiện nay chưa quy định cụ thể giới hạn 1 phần là bao nhiêu trong
tổng thể di sản có thể dẫn tới tình trạng tranh chấp giữa các bên vì thế cần
có sự sửa đổi bổ sung thích hợp với di sản thờ cúng như trên.
Về giải pháp của tòa án: Trong vụ việc đang được nghiên cứu giải pháp của
Tịa án có phần chưa thuyết phục Tòa án xác định di sản dùng vào việc thờ
cúng nhà đất cấp bốn có giá trị pháp lý có thể chấp nhận được, vì ngồi nhà
đất thì di sản của bà Lùng cịn có thể có các tài sản khác như là động sản
mà bản án không nhắc tới cho nên di sản này không rơi vào trường hợp
toàn bộ di sản dùng cho việc thờ cúng. Nhưng điểm khơng hợp lý đó là theo
khoản 1 Điều 645 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp người lập di chúc để
lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó khơng được
chia thừa kế và được giao cho người đã được chỉ định trong di chúc quản lý
để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng
di chúc hoặc khơng theo thỏa thuận của những người thừa kế thì những
18
người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người
khác quản lý để thờ cúng’’. Trong vụ việc này Tòa án chấp nhận chia thừa
kế căn nhà cấp 4 di sản thờ cúng là khơng đúng mà Tịa án cần phải tìm
người quản lý phần di sản trên vì trong di chúc bà Lùng khơng chỉ rõ người
quản lý di sản. Tịa án cần tạo điều kiện cho các con của bà Lùng (những
người thừa kế của bà) thỏa thuận tìm ra người quản lí phần di sản này và có
trách nhiệm thực hiện việc thờ cúng.
19