Tải bản đầy đủ (.doc) (130 trang)

Hoàn thiện cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (520.13 KB, 130 trang )

LỜI NÓI ĐẦU
Hiện nay, nước ta đang phát triển nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự điều
tiết của Nhà nước thì các doanh nghiệp Nhà nước nổi lên là
một bộ phận quan trọng, là chỗ dựa để kinh tế Nhà nước giữ
vai trò chủ đạo. Thông qua nó, Nhà nước thực hiện chức năng
điều tiết vĩ mô nền kinh tế, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển
theo định hướng XHCN. Trong khi đó một số doanh nghiệp
Nhà nước còn có nhiều tiêu cực, làm ăn không có hiệu quả và
thua lỗ. Vì vậy một yêu cầu đặt ra là phải làm sao để các
doanh nghiệp Nhà nước - các doanh nghiệp nắm giữ các
ngành, các lĩnh vực trọng yếu của nền kinh tế có thể phát triển
một cách vững mạnh và thực sự trở thành một lực lượng vật
chất hùng mạnh.
Để có thể đứng vững và phát huy vai trò to lớn của mình
trong nền kinh tế thị trường, các doanh nghiệp Nhà nước phải
làm ăn thật sự hiệu quả mà trước hết là phải quản lý, sử dụng
tốt các nguồn đầu vào. Do đó việc quản lý tốt tiền lương, thu
nhập - một trong những chi phí đầu vào là hết sức cần thiết,
làm sao để sử dụng hiệu quả nhất chi phí tiền lương, phát huy
được vai trò đòn bẩy kinh tế của tiền lương.
Trong thời gian vừa qua vấn đề quản lý tiền lương, thu
nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước mặc dù đã được nhiều
nhà quản lý, nghiên cứu đề cập đến nhưng do tiền lương một
mặt là vấn đề hết sức phức tạp và nhạy cảm, mặt khác tiền
lương trong cơ chế thị trường vẫn là một vấn đề mới nên việc
đưa ra các chính sách, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế quản
lý tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng và cần thiết trong giai đoạn hiện
nay. Nó có liên quan chặt chẽ đến động lực phát triển và tăng
trưởng kinh tế, nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, khai thác


các khả năng tiềm tàng từ mỗi người lao động.
Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề và được sự
giúp đỡ nhiệt tình của tập thể cán bộ Vụ Tiền lương - Tiền
công - Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đặc biệt là sự
hướng dẫn tận tình của thầy giáo GS.TS Phạm Đức Thành,
tôi đã đi sâu nghiên cứu đề tài: “Hoàn thiện cơ chế quản lý
tiền lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước”.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài gồm ba phần
chính như sau:
Phần I: Ý nghĩa của việc hoàn thiện cơ chế quản lý tiền
lương, thu nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Phần II: Thực trạng cơ chế quản lý tiền lương, thu
nhập trong các doanh nghiệp Nhà nước.
Phần III: Một số giải pháp, kiến nghị nhằm hoàn thiện
cơ chế quản lý tiền lương, thu nhập trong các doanh
nghiệp Nhà nước.
Tôi đã cố gắng trình bày vấn đề một cách khái quát và
đầy đủ nhất. Tuy nhiên, đây là một vấn đề phức tạp và do kiến
thức, kinh nghiệm còn nhiều hạn chế nên bài viết khó tránh
khỏi khiếm khuyết. Rất mong nhận được những ý kiến góp ý
để tôi có thể nắm bắt vấn đề toàn diện hơn nữa và vững vàng
hơn, hoàn thiện hơn trong những lần viết sau.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
PHẦN I
Ý NGHĨA CỦA VIỆC HOÀN THIỆN CƠ CHẾ QUẢN
LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH
NGHIỆP NHÀ NƯỚC.
I. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP VÀ QUẢN
LÝ TIỀN LƯƠNG, THU NHẬP TRONG CÁC DOANH NGHIỆP NHÀ
NƯỚC

1. Lý luận chung về tiền lương, thu nhập
1.1. Khái niệm, bản chất của tiền lương, thu nhập
Từ khi sức lao động trở thành hàng hoá, xuất hiện thị
trường sức lao động (hay còn gọi là thị trường lao động) thì
khái niệm tiền lương xuất hiện. Tiền lương là một phạm trù
kinh tế - xã hội, thể hiện kết quả của sự trao đổi trên thị
trường lao động.
Để có thể tiền hành sản xuất, cần có sự kết hợp của hai
yếu tố cơ bản là lao động và vốn. Vốn thuộc quyền sở hữu của
một bộ phận dân cư trong xã hội, còn một bộ phận dân cư
khác, do không có vốn, chỉ có sức lao động họ phải đi làm
thuê cho những người có vốn, đổi lại họ được nhận một khoản
tiền, gọi là tiền lương( hay tiền công). Như vậy khái niệm
"tiền lương" xuất hiện khi có sự sử dụng sức lao động của
một bộ phận dân cư trong xã hội một cách có tổ chức và đều
đặn bởi một bộ phận dân cư khác. Tiền lương, tiền công được
hiểu là giá cả sức lao động, nó là biểu hiện bằng tiền của giá
trị sức lao động.
Xét trong mối quan hệ lao động thì tiền lương là giá cả
sức lao động, được hình thành thông qua sự thoả thuận giữa
người sử dụng sức lao động và người lao động phù hợp với
quan hệ cung cầu lao động trên thị trường. Vậy giá cả sức lao
động do cái gì quyết định, do lượng hao phí lao động xã hội
cần thiết hay do cung cầu trên thị trường quyết định? Chúng
ta phải hiểu là cơ sở của giá cả sức lao động là do lượng hao
phí lao động xã hội cần thiết quyết định (còn gọi là giá trị sức
lao động), còn sự biến động trên thị trường của giá cả sức lao
động xoay quanh giá trị sức lao động là do quan hệ cung cầu
quyết định.
Ta có thể đi đến một khái niệm đầy đủ về tiền lương,

tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là
giá cả yếu tố sức lao động mà người sử dụng sức lao động
phải trả cho người cung ứng sức lao động, tuân theo
nguyên tắc cung cầu, giá cả của thị trường và pháp luật
hiện hành của Nhà nước.
Để có một khái niệm mang tính pháp lý về tiền lương,
Điều 55 Bộ luật Lao động có ghi: "Tiền lương của người lao
động do hai bên thoả thuận trong hợp đồng lao động và được
trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả công việc.
Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức
lương tối thiểu do Nhà nước quy định".
Trong điều kiện của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần như ở nước ta hiện nay, phạm trù tiền lương được thể
hiện cụ thể trong từng thành phần và khu vực kinh tế.
Trong thành phần kinh tế Nhà nước và khu vực hành
chính sự nghiệp, tiền lương là số tiền mà các doanh nghiệp,
các cơ quan, tổ chức của Nhà nước trả cho người lao động
theo cơ chế và chính sách của Nhà nước và được thể hiện
trong hệ thống thang, bảng lương do Nhà nước quy định.
Trong các thành phần và khu vực kinh tế ngoài quốc
doanh, tiền lương chịu sự tác động và chi phối rất lớn của thị
trường và thị trường lao động. Tiền lương trong khu vực này
dù vẫn nằm trong khuôn khổ pháp luật và theo những chính
sách của Chính phủ, nhưng được quyết định theo sự thoả
thuận trực tiếp giữa chủ và thợ, những "mặc cả" cụ thể giữa
một bên là làm thuê và một bên đi thuê thông qua hợp đồng
lao động.
Cùng với phạm trù tiền lương, chúng ta còn có các phạm
trù khác như: tiền công, thu nhập, chúng cùng mang bản chất
với tiền lương tức là đều biểu hiện bằng tiền của giá trị sức

lao động.
Nhưng giữa tiền lương và tiền công có sự phân biệt nhất
định. Trước đây hai khái niệm này khác nhau về cả nội dung
và đối tượng chi trả. Khái niệm tiền lương được sử dụng trong
khu vực quốc doanh, nó là phần trả trực tiếp cho người lao
động, ngoài tiền lương được trả bằng tiền người lao động còn
nhận được phần phân phối gián tiếp bằng hiện vật thông qua
tem, phiếu và một số chính sách phúc lợi như chính sách nhà
ở, bảo hiểm xã hôi, khám chữa bệnh... Tiền công được dùng
cho các đối tượng còn lại ngoài Kinh tế quốc doanh, nó bao
gồm cả phần trả trực tiếp và gián tiếp cho người lao động. Nói
khác đi tiền công chính là tiền lương đã được tiền tệ hóa.
Hiện nay tiền lương và tiền công dường như không còn
sự tách biệt, đều là giá cả sức lao động nhưng vẫn còn thói
quen quan niệm tiền lương gắn với khu vực kinh tế quốc
doanh và tiền công gắn với khu vực kinh tế ngoài quốc doanh.
Nhưng dù tiền lương hay tiền công cũng đều phải đảm
bảo các yêu cầu sau :
+ Tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất sức lao động mở rộng
+ Thúc đẩy tăng năng suất lao động
+ Phù hợp với cung cầu lao động
Trong khái niệm tiền lương cần phân biệt giữa tiền lương
danh nghĩa và tiền lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là số
tiền người lao động trực tiếp nhận được từ phía người sử dụng
lao động trả cho công việc họ làm, còn tiền lương thực tế
được hiểu là lượng hàng hóa, dịch vụ cần thiết mà người lao
động hưởng lương mua được bằng lượng tiền lương danh
nghĩa của họ.
Như vậy tiền lương thực tế không chỉ phụ thuộc vào tiền
lương danh nghĩa mà còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch

vụ cần thiết. Mối quan hệ giữa tiền lương danh nghĩa và tiền
lương thực tế được thể hiện thông qua công thức :


I
tldn


I
tltt
=
I
gc
Trong đó :
I
tltt
: là chỉ số tiền lương thực tế
I
tldn
: là chỉ số tiền lương danh nghĩa
I
gc
: là chỉ số giá cả
Thu nhập có cùng bản chất với tiền lương nhưng được
hiểu với nghĩa rộng hơn, thu nhập của một người lao động là
tất cả những khoản thu mà người lao động đó nhận được từ
việc cung ứng sức lao động của mình, bao gồm cả tiền lương
(hay tiền công), tiền thưởng, tiền ăn ca...
1.2. Các chức năng cơ bản của tiền lương:
1.2.1. Thước đo giá trị của lao động

Do lao động là hoạt động chính của con người và là đầu
vào của mọi qúa trình sản xuất trong xã hội, tiền lương là hình
thái cơ bản của thù lao lao động thể hiện giá trị của khối
lượng sản phẩm và dịch vụ mà người lao động nhận được trên
cơ sở trao đổi sức lao động. Hiểu theo cách này, tiền lương bị
chi phối bởi quy luật giá trị và phân phối theo lao động.
1.2.2. Duy trì và phát triển sức lao động
Tiền lương là bộ phận thu nhập chính của người lao động
nhằm thoả mãn phần lớn các nhu cầu về văn hoá và vật chất
của người lao động. Mức độ thoả mãn các nhu cầu của người
lao động phần lớn được căn cứ vào độ lớn của các mức tiền
lương. Độ lớn của tiền lương phải tạo ra các điều kiện cần
thiết để bảo đảm tái sản xuất sức lao động giản đơn và mở
rộng sức lao động cho người lao động và gia đình họ. Hiểu
theo cách này tiền lương bị chi phối bởi quy luật tái sản xuất
sức lao động. Có nghĩa là trong một chừng mực nhất định, cần
thiết phải bảo đảm mức lương tối thiểu cho người lao động
không phụ thuộc vào hiệu quả lao động của họ. Bên cạnh đó,
các mức tiền lương tăng không ngừng sẽ có tác động nâng cao
khả năng tái sản xuất sức lao động, tạo điều kiện nâng cao
chất lượng lao động và các giá trị khác của người lao động.
1.2.3. Kích thích lao động.
Các mức tiền lương và cơ cấu tiền lương là các đòn bẩy
kinh tế rất quan trọng để định hướng quan tâm và động cơ
trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của tiền lương
phụ thuộc vào hiệu quả sản xuất kinh doanh, khi khối lượng
các tư liệu sinh hoạt của người lao động phụ thuộc trực tiếp
vào độ lớn của các mức tiền lương thì người lao động sẽ quan
tâm trực tiếp đến kết quả hoạt động của họ. Nâng cao hiệu quả
lao động là nguồn gốc để tăng thu nhập, tăng khả năng thoả

mãn nhu cầu của người lao động. Hiểu theo cách này, tiền
lương bị chi phối bởi quy luật không ngừng thoả mãn các nhu
cầu sinh hoạt và không ngừng nâng cao năng suất lao động.
Nguyện vọng không ngừng thoả mãn các nhu cầu sinh hoạt
được thể hiện trong việc không ngừng nâng cao hiệu quả lao
động, không ngừng nâng cao năng suất lao động, tăng hiệu
quả lao động.
1.2.4. Kích thích kinh tế phát triển và thúc đẩy sự phân công lao động trên
toàn bộ nền kinh tế
Trên lĩnh vực vĩ mô, tổng mức tiền lương quyết định tổng cầu về hàng
hoá và dịch vụ cần thiết phải sản xuất. Do vậy, việc tăng các mức tiền lương
có tác dụng kích thích tăng sản xuất, qua đó tăng nhu cầu về lao động.
Bên cạnh đó, sự chênh lệch tiền lương giữa các ngành, các nghề thúc
đẩy sự phân công và bố trí lao động cũng như các biện pháp nâng cao năng
suất lao động.
1.2.5. Chức năng xã hội của tiền lương
Cùng với việc không ngừng nâng cao năng suất lao động, tiền lương là
yếu tố kích thích không ngừng hoàn thiện các mối quan hệ lao động. Việc gắn
tiền lương với hiệu quả của người lao đọng và đơn vị kinh tế sẽ thúc đẩy mối
quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau để đạt được các mức tiền lương cao nhất.
Bên cạnh đó, tạo tiền đề cho sự phát triển toàn diện của con người và thúc đẩy
xã hội phát triển theo hướng dân chủ hoá và văn minh hoá.
Tóm lại, tiền lương là một phạm trù kinh tế tổng hợp và là đòn bẩy
kinh tế rất quan trọng đến sản xuất, đời sống và các mặt khác của nền kinh
tế xã hội, tiền lương được trả đúng đắn có tác dụng: (1) đảm bảo tái sản
xuất sức lao động và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và văn hoá
cho người lao động; (2) là một yếu tố quan trọng để nâng cao năng suất lao
động; (3) tạo điều kiện để phân bố hợp lý sức lao động giữa các ngành
nghề, các vùng, các lĩnh vực trong cả nước: (4) thúc đẩy bản thân người lao
động và xã hội phát triển.

1.3. Tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng
XHCN
Các đặc điểm cơ bản của tiền lương:
Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc
đảm bảo mức sống tối thiểu cho người lao động và gia đình
họ là một mục tiêu quan trọng. Do vậy tiền lương không bị hạ
thấp một cách quá đáng hoặc quá linh hoạt, trái lại, nó dừng ở
một mức vừa phải và có tính ổn định. Tuy nhiên, thất nghiệp
vì thế cũng có nguy cơ gia tăng nếu không có biện pháp can
thiệp kịp thời của Chính phủ thông qua các giải pháp kích
cầu.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN tiền
lương có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức tăng lợi nhuận và
tăng trưởng kinh tế. Tăng trưởng kinh tế là tiền đề để tăng tiền
lương, thu nhập, nâng cao mức sống của người làm công ăn
lương và do vậy lợi nhuận phải được thực hiện trên cơ sở tăng
năng suất lao động, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động,
không dựa trên việc khai thác, bóc lột sức lao động.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, việc
tăng tiền lương cần thiết phải đạt được trên cơ sở tăng cường
mối liên kết giữa lao động và quản lý, tiến tới sự kết hợp hài
hoà của các lợi ích, trên cơ sở các bên cùng có lợi, cùng chia
sẻ lợi ích.
- Phân phối tiền lương và thu nhập trong nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN phản ánh sự chênh lệch về số
lượng và chất lượng lao động thực hiện. Tiền lương không
đơn thuần thể hiện chi phí đầu vào, mà còn thể hiện cả kết quả
của "đầu ra". Bài toán phân chia tiền lương trong nền kinh tế
thị trường định hướng XHCN là bài toán phân chia lợi ích
được thực hiện thông qua việc phát huy vai trò của thoả ước

lao động cũng như sự can thiệp của Chính phủ.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Nhà
nước tham gia một cách tích cực và chủ động vào quá trình
phân phối (bao gồm phân phối lần đầu và phân phối lại). Tuy
nhiên, Nhà nước thực hiện sự phân chia tiền lương thông qua
hệ thống pháp luật và chính sách kinh tế, xã hội vừa bảo đảm
hạn chế sự bóc lột và tiêu cực trong kinh doanh của người chủ
đồng thời khuyến khích lợi ích chính đáng, tính tích cực, sáng
tạo của họ.
- Việc làm, an toàn việc làm và an sinh xã hội là mối
quan tâm của người lao động, do đó mức tiền lương cần phải
đủ lớn để duy trì cuộc sống của họ trong ngày hôm nay và cho
cả khi họ không có sức lao động. Nói cách khác, tiền lương
cần bao gồm cả tiền lương cơ bản và một phần cho an sinh xã
hội phòng khi thất nghiệp. Về thực chất tiền lương này cao
hơn so với tiền lương của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa.
Các nguyên tắc cơ bản của tiền lương:
- Tiền lương bị chi phối không những bởi quy luật giá trị,
quy luật cung cầu lao động mà còn bị chi phối bởi các qui luật
kinh tế khác, trong đó có qui luật về mức sống tối thiểu.
- Cách biệt về tiền lương giữa những người thấp nhất và
cao nhất không như tiền lương trong nền kinh tế tư bản chủ
nghĩa.
- Tiền lương có tính bảo đảm cao, không những bảo đảm
mức sống cho người lao động trong quá trình làm việc mà còn
bảo đảm cho họ có mức sống khi suy giảm sức lao động tạm
thời hoặc vĩnh viễn.
- Tiền lương dựa trên điều kiện lao động tốt, các tiêu
chuẩn lao động và chế độ làm việc ngày càng được hoàn
thiện.

- Tiền lương linh hoạt tương đối, không những thể hiện
giá trị lao động mà cả hiệu suất lao động do sự tham gia của
người lao động vào quá trình phân phối lần đầu và lần 2 trong
nội bộ doanh nghiệp.
- Mức tiền lương tăng dựa trên sự khai thác các yếu tố
tiềm năng trong sản xuất. Tiền lương là kết quả của mối liên
kết quản lý lao động, không dựa vào sự chiếm đoạt của người
sử dụng lao động đối với người lao động.
Tuy nhiên Việt Nam hiện tại trong thời kỳ quá độ, từ nền
sản xuất nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội, vì vậy,
không thể tránh khỏi những yếu tố của nền kinh tế thị trường
tư bản chủ nghĩa như: sự cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không
lành mạnh), phá sản, tình trạng thất nghiệp, sự phân hoá mạnh
của các mức lương, sự phân hoá về thu nhập, mức sống của
xã hội và các tầng lớp dân cư. Vì vậy cần thiết phải chấp nhận
một sự phân biệt về tiền lương theo vùng, ngành, theo kết quả
sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp.
1.4. Yêu cầu và các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức tiền
lương
Tổ chức tiền lương là quá trình thực hiện chi trả cho
người lao động theo các yêu cầu và nguyên tắc của pháp luật
hiện hành.
Tổ chức tiền lương bao gồm toàn bộ quá trình từ việc
xây dựng quỹ tiền lương đến việc áp dụng các chế độ hình
thức trả lương để phân phối đến tay người lao động. Tổ chức
tiền lương là một mảng quản lý rất phức tạp, đòi hỏi kiến
thức, kinh nghiệm và bảo đảm các nguyên tắc.
t Nguyên tắc của tổ chức tiền lương
- Trả lương như nhau cho những lao động
như nhau

Ở đây công bằng được hiểu theo công bằng dọc. Nguyên
tắc được đưa ra dựa trên cơ sở quy luật lao động theo phân
phối theo lao động. Trong điều kiện sản xuất như nhau (số
lượng, chất lượng) người lao động phải được hưởng lương
ngang nhau không phân biệt giới tính, lứa tuổi, dân tộc.
Nguyên tắc này đã được đưa ra từ rất sớm. Ngay sau khi cách
mạng tháng tám thành công, sắc lệnh của Chủ tịch nước Việt
nam dân chủ cộng hoà ghi rõ: "Công dân là đàn bà hay trẻ
em mà làm cùng một công việc như công dân đàn ông, được
tính tiền lương của công dân đàn ông."
Và cho đến nay đây vẫn là một nguyên tắc được chú
trọng hàng đầu trong công tác tổ chức tiền lương. Nó có ý
nghĩa quan trọng trong quản trị nhân lực và tạo động lực lao
động cho người lao động.
- Tốc độ tăng tiền lương chậm hơn tốc độ tăng năng suất
lao động
Tiền lương bình quân tăng lên do nhiều yếu tố như năng
suất lao động, cải tiến công nghệ, tiết kiệm nguyên, nhiên vật
liệu trong sản xuất. Do đó để có thể tái sản xuất mở rộng, tăng
tiền lương phải đảm bảo tăng chậm hơn tăng năng suất lao
động, tạo cơ sở giảm giá thành sản phẩm, tăng sức cạnh tranh.
Đối với nền kinh tế, thực chất mối quan hệ này là mối
quan hệ giữa tiêu dùng và tích luỹ hay giữa tốc độ phát triển
của khu vực sản xuất tư liệu sản xuất và khu vực sản phẩm
tiêu dùng. Mức tăng của tổng sản phẩm xã hội (tư liệu tiêu
dùng + tư liệu sản xuất) lớn hơn mức tăng tiêu dùng làm cho
sản phẩm xã hôi tính bình quân theo đầu người tăng lên, năng
suất lao động tăng nhanh hơn tiền lương. Nguyên tắc này
mang tính kinh tế nên cần được duy trì tuyệt đối, nhằm đảm
bảo sư tồn tại và phát triển của các donah nghiệp và của cả xã

hội.
- Đảm bảo mối quan hệ hợp lý về tiền lương giữa những
người lao động làm trong các lĩnh vực, ngành nghề khác
nhau trong nền kinh tế quốc dân
Cơ sở của nguyên tắc này là đảm bảo kết hợp hài hoà
giữa quá trình phân công lao động và phát triển xã hội. Tính
phức tạp về kỹ thuật giữa các ngành trong nền kinh tế quốc
dân đòi hỏi trình độ lành nghề của người lao động là khác
nhau dẫn đến tiền lương bình quân của các ngành là khác
nhau. Nguyên tắc này khẳng định một sự phân biệt cần thiết
các điều kiện lao động nhằm phục vụ chính sách kinh tế xã
hội. Mức lương cao hơn với một yêu cầu về kỹ năng, trình độ,
kinh nghiệm sẽ thúc đẩy người lao động tự học hỏi, tích luỹ
kinh nghiệm và nâng cao năng suất lao động.Nguyên tắc này
thể hiện tính xã hội của tiền lương, do đó không thể coi nhẹ.
Nó bao hàm ý nghĩa kinh tế của mỗi ngành trong nền kinh tế
quốc dân. Xét trong tòan bộ nền kinh tế, mỗi ngành có một
vai trò khác nhau trong các giai đoạn, thời kỳ phát triển khác
nhau. Những ngành có vai trò quan trọng, mang tính mũi
nhọn được chú trọng cần được tập trung tài nguyên, nhân lực
để thúc đẩy phát triển kéo theo sự phát triển của các ngành
khác và các ngành mũi nhọn đó được áp dụng hưởng mức
lương cao hơn so với các ngành khác. Sự khác nhau về môi
trường, khí hậu, dân cư, giá cả sinh hoạt sẽ tạo ra sự chênh
lệch nội dung. Sự khác nhau đó được bù lại bằng chế độ chính
sách mà tiền lương là một phần trong đó. Nguyên tắc này đã
được cụ thể hoá trong Bộ Luật Lao động nước ta.
Mỗi nguyên tắc trên đây phản ánh một khía cạnh khác
nhau của tiền lương, chúng kết hợp hài hoà và bổ sung cho
nhau một cách thống nhất và tạo ra vai trò quan trọng của tiền

lương.
l Yêu cầu của tổ chức tiền lương
- Bảo đảm tái sản xuất sức lao động và không ngừng
nâng cao đời sống vật chất cho người lao động
Sức lao động là năng lực lao đông, là toàn bộ thể lực và
trí lực của con người. Sức lao động thể hiện ở trạng thái thể
lực và tinh thần trạng thái tâm, sinh lý thể hiện ở trình độ
nhận thức, kỹ năng lao động. Sức lao động là một trong 3 yếu
tố của quá trình sản xuất, nó là yếu tố quan trọng nhất vì sức
lao động có khả năng phát động và đưa các tư liệu lao động,
đối tượng lao động và quá trình sản xuất.
- Làm cho năng suất lao động không ngừng nâng cao
Tiền công là đòn bẩy quan trọng để nâng cao năng suất
lao động, tạo cơ sở quan trọng nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Do đó, tổ chức tiền lương phải đạt được yêu cầu là làm tăng
năng suất lao động. Mặt khác đây cũng là yêu cầu đặt ra với
việc phát triển, nâng cao trình độ và khả năng của người lao
động.
- Phải đơn giản, rõ ràng, dễ hiểu
Tổ chức tiền lương luôn là vấn đề phức tạp, tuy nhiên
cần phải rõ ràng, dễ hiểu để người lao động nhận thấy được sự
công bằng, khách quan trong tiền lương.
- Phải hợp pháp
Tổ chức tiền lương trong bất kỳ một doanh nghiệp nào
trên lãnh thổ Việt nam cũng đều phải tuyệt đối chấp hành
nghiêm chỉnh pháp luật Việt Nam. Bộ Luật Lao động nước ta
cũng đã có một chương quy định về các vấn đề xung quanh
công tác xây dựng và quản lý tiền lương trong các doanh
nghiệp Nhà nước.
1.5. Các yếu tố chi phối tiền lương

Khi tổ chức tiền lương cần phải nghiên cứu kỹ các yếu tố
xác định và ảnh hưởng đến tiền lương nếu không tiền lương
sẽ mang tính chủ quan và thiên lệch. Các yếu tố chi phối tiền
lương , đó là:
- Giá trị công việc
- Trình độ phát triển kinh tế chung của đất nước và của
từng vùng
- Kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và cá
nhân trong từng thời kỳ
- Mô hình phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp
- Thâm niên làm việc trong doanh nghiệp
- Các khoản chi phí khác về tiền lương (nếu có).
Sơ đồ các yếu tố ảnh hưởng đến tiền lương:
Công việc
Kỹ năng
Nỗ lực
Trách nhiệm
Điều kiện l m vià ệc
Tiền lương,
thu nhập
Xã hội
-Cung cầu lao
động
-Điều kiện KT
quốc gia
-Giá cả sinh
hoạt
-Luật pháp
-Quan niệm
th nh kià ến

Công ty
-Định mức
LĐKT
-Khả năng chi
trả
-Chính sách
chiến lược
-Đặc điểm hoạt
động
Người lao động
Kinh nghiệm
Khả năng phát triển
Thâm niên l m vià ệc
Thái độ tinh thần
2. Quản lý Nhà nước về tiền lương, thu nhập trong các doanh
nghiệp Nhà nước
2.1.Quản lý Nhà nước về tiền lương
Chính sách tiền lương là một bộ phận quan trọng trong hệ
thống chính sách kinh tế xã hội của đất nước. Chính sách này
liên quan trực tiếp đến lợi ích của đông đảo người lao động
trong xã hội và được Nhà nước quản lý. Nhà nước quản lý
thống nhất về tiền lương. Đối với người lao động là công nhân
viên chức, Nhà nước trực tiếp quản lý tiền lương (theo các chỉ
tiêu cụ thể về đối tượng hưởng lương, bậc lương và tiền lương
tối thiểu). Nhà nước cũng thực hiện một cơ chế kiểm soát
trong thực hiện chính sách và chế độ tiền lương, trên cơ sở
luật pháp về tiền lương, các hợp đồng lao động và thuế thu
nhập. Đối với người lao động không phải là công nhân viên
chức Nhà nước, Nhà nước cũng thực hiện quản lý và kiểm
soát tiền lương trên cơ sở luật pháp về lao động và tiền

lương.
* Việc quản lý Nhà nước về tiền lương được phân cấp
thực hiện như sau :
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan quản
lý Nhà nước về tiền lương ở cấp cao nhất. Bộ Lao động
- Thương binh và Xã hội ban hành các văn bản pháp
luật để hướng dẫn các doanh nghiệp phương pháp xây
dựng đơn giá tiền lương, các thông số tiền lương và các
hệ số điều chỉnh cần thiết và thông báo các thông tin
cần thiết về tiền lương trong phạm vi toàn bộ nền kinh
tế. Qua đó chỉ đạo việc quản lý tiền lương của các Bộ,
ngành và địa phương trong toàn quốc.
- Các Bộ quản lý ngành, các đại phương (cấp tỉnh, thành
phố) có trách nhiệm và quyền hạn quản lý công tác tiền
lương của các doanh nghiệp, cơ quan trong phạm vi của
mình trên cơ sở chỉ đạo của Bộ LĐ - TB&XH. Trong
đó, phải báo cáo thường xuyên lên Bộ LĐ - TB&XH về
công átc quản lý tiền lương tại Bộ, ngành mình.
- Các doanh nghiệp có trách nhiệm thực hiện công tác
lao động, tiền lương theo quy định, trong đó công tác tổ
chức, xây dựng đơn giá và thực hiện các thủ tục hành
chính cần thiết trong hoạt động tiền lương; và báo cáo
lên cơ quan quản lý cấp trên về tiền lương và thu nhập
của doanh nghiệp mình.
* Quản lý tiền lương, thu nhập của Nhà nước có những
nội dung cụ thể sau :
- Nghiên cứu ban hành hệ thống văn bản pháp lý về tiền
lương, thu nhập như :
+ Từng thời kỳ ban hành mức tiền lương tối thiểu chung,
mức tiền lương tối thiểu theo khu vực, mức tiền lương tối

thiểu theo vùng;
+ Xác định hệ thống thước đo giá trị thông qua hệ thống
thang lương, bảng lương, chế độ phụ cấp lương;
+ Quy định các chế độ trả lương và cơ chế quản lý tiền
lương của từng khu vực;
+ Ban hành các tiêu chuẩn nghề, tiêu chuẩn cấp bậc kỹ
thuật công nhân, tiêu chuẩn chuyên môn, nghiệp vụ và các
phương pháp xây dựng định mức lao động tổng hợp cho các
thành phần kinh tế.
- Xây dựng chương trình mục tiêu, chủ trương, phương
hướng, kế hoạch về tiền lương, tiền công chung và của
từng thành phần kinh tế cho từng thời kỳ.
- Tổ chức kiểm tra, kiểm soát việc thực hiện chính sách
tiền lương, thu nhập, các tiêu chuẩn, định mức trong
các thành phần kinh tế nói chung cũng như các doanh
nghiệp nói riêng.
2.2.Quản lý Nhà nước về tiền lương đối với doanh nghiệp
Nhà nước
Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần,
Nhà nước phải đứng trên giác độ chung để quản lý lao động,
tiền lương trong phạm vi toàn xã hội nhưng đồng thời Nhà
nước cũng phải tăng cường biện pháp quản lý tiền lương đối
với doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước nhằm tạo điều kiện
cho các doanh nghiệp này hoạt động có hiệu quả, ổn định việc
làm, thu nhập cho người lao động và tiếp tục phát triền giữ vai
trò chủ đạo trong nền kinh tế.
Khi nói đến quản lý tiền lương, thu nhập trong doanh
nghiệp Nhà nước là nói đến việc xác định quan hệ phân phối
lợi ích giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Nói
đến quan hệ phân phối thì chính là nói đến sở hữu, đến vai trò

quyết địnhcủa chủ sở hữu, đến mối quan hệ giữa quyền sở
hữu và quyền sử dụng. Sở hữu là vấn đề cốt lõi trong quan hệ
sản xuất, vì người nào nắm quyền sở hữu thì người đó sẽ có
quyền chiếm dụng, quyền định đoạt và quyền hưởng thụ.
Cũng vì lẽ đó, sở hữu là xuất phát điểm, làm cơ sở cho chủ sở
hữu quyết định sẽ quản lý tài sản của mình ra sao, sẽ phân
phối kết quả sản xuất kinh doanh mà tài sản đó mang lại như
thế nào.
Trong kinh tế quốc doanh, tính chất sở hữu ở đây chính
là sở hữu toàn dân mà Nhà nước là người đại diện chủ sở hữu
do vậy đương nhiên Nhà nước đóng vai trò quyết định chính
sách phân phối. Nhưng vấn đề đặt ra trong quá trình đổi mới
doanh nghiệp Nhà nước thì Nhà nước quản lý như thế nào,
quản lý đến đâu và cụ thể là ai?
Trong thời kỳ quản lý tập trung chúng ta đã tuyệt đối hoá
vai trò của Nhà nước. Trung ương quyết định tất cả, quản lý
tất cả, trong lĩnh vực lao động, tiền lương quyết định từ tuyển
dụng, đào tạo đến mức lương, tổng quỹ lương... của doanh
nghiệp. Sự tuyệt đối hoá có tính quan liêu này đã phải trả giá
không nhỏ là triệt tiêu tính chủ động, sáng tạo, tự chịu trách
nhiệm của doanh nghiệp. Nhà nước trở thành chỗ dựa vững
chắc cho các doanh nghiệp tồn tại, tiền lương do Ngân sách
chi trả mang nặng tính bình quân, không gắn với năng suất,
hiệu quả của từng người, của từng doanh nghiệp.
Nhận thấy những tồn tại trên, từ những năm đầu của thập
kỷ 80 chúng ta đã bắt đầu đổi mới tổ chức, quản lý doanh
nghiệp, bước đầu tách hai chức năng sở hữu và kinh doanh.
Song xác định ai là người cụ thể đại diện chủ sở hữu trong

×