Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

VIẾNG LĂNG BÁC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.79 KB, 12 trang )

VIẾNG LĂNG BÁC
A. TÁC GIẢ: Viễn Phương, An Giang
- Trưởng thành qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp – Mỹ
- Một trong những người có mặt sớm nhất của lực lượng văn học, văn nghệ giải phóng
miền Nam
- Thơ ơng giàu nhạc điệu, hình ảnh đẹp và chứa chan cảm xúc
B. TÁC PHẨM
1. Hoàn cảnh sáng tác: 1976 (đánh dấu ba mốc lịch sử quan trọng)
- Miền Nam hoàn toàn giải phóng
- Đất nước thống nhất
- Lăng Bác được khánh thành
2. Nội dung
- Niềm xúc động, thiêng liêng, thành kính, niềm tự hào xen lẫn xót đau, tiếc thương vơ
hạn của nhà thơ khi lần đầu tiên ra lăng viếng Bác
3. Nghệ thuật
- Thể thơ: tự do (8 chữ)
- Nhiều hình ảnh ẩn dụ đẹp, gợi cảm
- Giọng điệu trang trọng, tha thiết
4. Mạch cảm xúc: Theo trình tự thời gian
- Phù hợp với hành trình một chuyến vào lăng viếng Bác từ lúc bắt đầu đến lúc kết
thúc.
- Mạch cảm xúc được phát triển:
+ Niềm xúc động, thiêng liêng, thành kính
+ Tự hào, ngưỡng mộ, biết ơn
+ Đau đớn, xót xa, tiếc thương vơ hạnh
+ Niềm đau chia ly, tâm trạng lưu luyến và khát vọng được mãi mãi bên Bác
5. Nhận định về bài thơ, về tác giả
– Viếng Lăng Bác là một nén tâm hương mà Viễn Phương thành kính dâng lên Người.
– Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy ắp ẩn dụ, những những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể
hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người Viếng Lăng Bác
của VP là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về Chủ Tịch Hồ Chí Minh, lãnh


tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.
– “Viếng lăng Bác” là bài thơ giàu chất suy tưởng,chất trữ tình đằm thắm với cách sử
dụng nhiều luyến láy ngơn ngữ, phong phú âm điệu khiến bài thơ mau chóng được
đơng đảo bạn đọc tiếp nhận.
– Có thể nói bài thơ là một thứ tiếng lòng giản dị, hồn nhiên mà âm vang của nó cịn
làm thổn thức lịng người mãi mãi.
– Hình ảnh Bác Hồ là trung tâm của bài thơ. Những hình ảnh ẩn dụ trong bài về Bác
nhấn mạnh vào sự trường tồn, vĩnh cửu của Bác, của những tư tưởng, tình cảm mà
Bác để lại cho dân tộc. Nếu mặt trời gợi lên sự lớn lao, vĩ đại thì vầng trăng lại gợi lên
vẻ thanh cao, trong sáng. Một bên là vẻ đẹp của trí tuệ, tư tưởng, một bên là vẻ đẹp
của tâm hồn, tình cảm.
– Thơ Viễn Phương nền nã, thì thầm, man mác, bâng khuâng, day dứt, không gút mắt,
cầu kỳ, kênh kiệu, khoa ngơn. Hình ảnh nào trong đời sống anh cũng tìm thấy chất thơ.
Khơng đợi đến Tiếng tù và trong sương đêm, Hoa lục bình trơi man mác tím, bơng lau
bát ngát nắng chiều hay Chòm xanh điên điển nhuộm vàng mặt nước… Một mái lá khô


hanh trong rừng vắng anh cũng đưa vào đấy cái thực, cái hư, rất thơ mà thực, rất thực
mà thơ.
– Viễn Phương là một con người rất đa mang, rất nặng lòng với quá khứ, với cách
mạng, quá khứ đấu tranh của dân tộc lẫn vào sâu sắc với thơ anh, với hồn anh, với đời
anh.
– Cũng như Tố Hữu, Viễn Phương có một mối tình lớn nhất, thuỷ chung nhất trong thơ:
đó là mối tình với cách mạng.
– Thơ Viễn Phương chân tình, đằm thắm, chân thực. Anh viết trong trào lưu thơ cách
mạng – chiến đấu nhưng bằng kinh nghiệm sống và chất tâm hồn của riêng anh. Nhiều
bài thơ của anh đã nổi tiếng, trở thành bài hát được mọi người yêu mến.
– Trong thơ, Viễn Phương ít có sự bứt phá, thơ của ơng giản dị, thiên về tự sự, phản
ánh hiện thực.
C. PHÂN TÍCH

1. Niềm xúc động thành kính, nỗi mong chờ, trơng ngóng
a, Niềm xúc động thành kính
*Chuyển ý: Mở đầu thi phẩm là niềm xúc động, thành kính, nỗi mong chờ trơng ngóng
của nhà thơ khi lần đầu ra thăm viếng Bác:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
*Hỏi - Trả lời:
- Câu thơ là lời giới thiệu, thông báo → bộc lộ sự chân thành, bồi hồi, xúc động
- Cách xưng hô “con” gợi điều gì?
+ Tình cảm ruột thịt, ấm áp như một gia đình
+ Sự giản dị, gần gũi, thân thiết
+ Lời tự xưng của những đứa con xa nay đã về đây
→ Tình cảm quần chúng hốn dụ đan xen, hịa quyện trong tình cha con ấm áp
- Điều mà ta nhận ra qua cách tự xưng của tác giả?
+ Khơng cịn khoảng cách giữa một vị lãnh tụ - người dân
+ Gia đình hóa
- Nhắc đến “miền Nam” là nhắc đến điều gì?
+ Khoảng cách địa lý xa xơi nghìn dặm
+ Một nửa miền đất nước vừa thốt khỏi bom đạn chiến tranh
+ Một phần máu thịt của đất nước
+ Là “nhà” mà bác Hồ luôn đau đáu muốn vào thăm mà chưa có dịp
+ Là tiếng gọi thiêng liêng luôn thường trực vang lên lúc sinh thời “Miền Nam luôn trong
trái tim tôi”
- Tại sao không dùng “viếng” mà lại “thăm” → phép nói giảm nói tránh: giảm đi nỗi đau
xót vơ vàn
- “Thăm” cịn là: người con Nam Bộ ra đây để thăm nhà, thăm người cha già kính u
của dân tộc
*Lập luận:
Khơng như những nhà thơ khác dùng lời mỹ miều để miêu tả một cuộc viếng thăm, câu
thơ mở ra chỉ là lời thông báo, giới thiệu thật mộc mạc và giản dị. Nhưng người đọc lại
tìm được đằng sau cái đơn sơ ấy là cả một tấm lòng chân thành, sự bồi hồi, xúc động

mà tác giả đã gửi gắm thật tinh tế và kín đáo biết bao. Cách xưng hơ “con” - “Bác” vang
lên trong câu thơ thật gần gũi, thân thiết, quen thuộc đồng thời cũng vơ cùng đặc biệt
bởi đó là lời xưng hô của những đứa con xa nay đã về đây với người cha già của cả Tổ


Quốc, của mn triệu con người Việt Nam. Đó là một tình cảm ruột thịt, là sự ấm áp
như một gia đình, nào cịn có thể thấy sự xa cách, lạ lẫm giữa một vị lãnh tụ với người
dân. Đọc đến đây, ta lại liên tưởng đến những câu thơ mà Tố Hữu đã từng viết:
“Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”
hay trong thơ Minh Huệ cũng đã từng nhắc tới:
“Người cha mái tóc bạc
Đốt lửa cho anh nằm “
Và như thế, ta có thể khẳng định tình cảm quần chúng đã được hốn dụ đan xen, hịa
quyện trong tình cha con thiêng liêng, ấm áp. Hai tiếng “miền Nam” vang lên trong nỗi
xúc động nghẹn ngào gợi ra một khoảng cách địa lý xa xơi nghìn dặm; là một nửa miền
đất nước vừa mới thốt khỏi khói lửa, bom đạn chiến tranh không lâu; là một phần máu
thịt của Tổ Quốc và đấy cũng là “nhà” mà bác Hồ luôn đau đáu muốn vào thăm mà
chưa có dịp; là tiếng gọi thiêng liêng luôn thường trực vang lên lúc sinh thời “Miền Nam
luôn trong trái tim tôi”. Trong bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu, ông đã khái quát cho ta thấy
“nỗi nhớ nhà” của Bác, “nỗi mong cha” của nửa miền đất nước:
“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha”
Đi ra từ miền Nam là đi ra từ những máu lửa, đạn bom, Viễn Phương đã dồn nén biết
bao niềm xúc động, sự bồi hồi, nỗi chờ trơng, mong ngóng của những đứa con xa về
viếng thăm người cha đã khuất. Và như thế vốn từng là hai mặt đất, hai địa cầu đất
nước, nay đã được nối liền lại bằng một cuộc hành hương. Tại sao tác giả lại dùng từ
“thăm” mà không mà không phải “viếng”. Bởi “thăm” nghĩa gặp gỡ, trò chuyện với
người cịn sống, ta dễ dàng nhận ra đó chính là một dụng ý nghệ thuật vô cùng tinh tế
của tác giả nhằm giảm đi nỗi xót đau vơ vàn, sự mất mát lớn của cả dân tộc. Khơng chỉ

vậy, đó còn là cái “thăm” của người con Nam Bộ ra đây để thăm nhà, thăm vị cha già
kính yêu dường như vẫn đang cịn sống mãi.
b, Hình ảnh hàng tre trong sương sớm
*Chuyển ý: Lần đầu tiên đến với Bác, nhà thơ thật sự xúc động bởi đã nhìn thấy hình
ảnh hàng tre hiện ra trong sương sớm
“ Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn thẳng hàng”
*Hỏi - Trả lời:
- “ thấy” - “trong sương”: sự mờ ảo, không rõ ràng
- Giải nghĩa từ “bát ngát”: mênh mông, rộng lớn
- Hình ảnh “hàng tre”:
+ Biểu tượng của dân tộc Việt Nam bao đời nay
+ Tượng trưng: phẩm chất, vẻ đẹp, tính cách của con người Việt Nam: bất khuất, kiên
trì, bền bỉ, dẻo dai, khơng gục ngã.
- “Xanh xanh”: dùng để biểu đạt
+ Con người Việt Nam mãi “xanh” một màu bất diệt
+ Lớp con cháu nối tiếp lớp cha ông luôn mạnh mẽ để bảo vệ dân tộc ta
- Ẩn dụ “Bão táp mưa sa”: những khó khăn, gian khổ
- “vẫn” là sự tiếp tục, tiếp diễn không bao giờ thay đổi
- Ẩn dụ “thẳng hàng”: kiên cường, vững chãi, không lùi bước, luôn vững vàng


(Trước đó nên có câu giải thích nghĩa tả thực)
- Thấy hàng tre bên lăng Bác, tác giả đã như thấy điều gì?
+ Cả dân tộc Việt Nam thủy chung, sắt son bên Bác
+ Làng quê, xứ sở, quê hương, nguồn cội
+ Sự mộc mạc, bình dị, n bình, thơn dã
→ Mãi trường sinh
→ Cảnh quan dịu đi bởi bóng, mát và lời ru rì rào

⟹ Sự xúc động của nhà thơ: chất lãng mạn, chất tình nhưng cũng đầy thực tế
*Lập luận:
Dưới cái nhìn “trong sương” của buổi sớm mai mờ mờ ảo ảo, không rõ ràng, thi nhân
vẫn cảm nhận được sự “bát ngát” gợi ra không gian quanh lăng Bác rộng lớn, mênh
mông. Tre bao đời nay đã trở thành biểu tượng của dân tộc, tượng trưng cho phẩm
chất, vẻ đẹp, tính cách của con người Việt Nam ln kiên trì, bất khuất, bền bỉ, dẻo dai,
khơng bao giờ gục ngã. Ấn tượng của nhà thơ chợt biến thành một sự cảm thán, chữ
“ôi” vang lên đầy bất ngờ, tha thiết cùng sâu lắng, cô đọng nhiều cảm xúc. Ta cùng
chung một nhịp với tác giả, hình như đã ngỡ ra một điều gì đó thật đặc biệt. Từ láy
“xanh xanh dùng để biểu đạt, phải chăng đó chính là lời khẳng định con người Việt
Nam lúc nào cũng vậy, sẽ mãi mang một màu xanh bất diệt, lớp con cháu kế tiếp lớp
cha ông, luôn mạnh mẽ, vững vàng để bảo vệ dân tộc. Hình ảnh ẩn dụ “bão táp mưa
sa” gợi cho người đọc liên tưởng đến những khó khăn, gian khổ, những tai họa đến liên
tiếp, dồn dập; “vẫn” là sự tiếp tục, tiếp diễn không bao giờ thay đổi; “thẳng hàng” nghĩa
kiên cường, vững chãi, không bao giờ lùi bước, luôn vững vàng dẫu có phải đối mặt với
bao gian truân, trắc trở, phong ba bão táp. Mượn tre để nói về phẩm chất của những
con người đất Việt, ta lại nhớ đến bài thơ “Tre Việt Nam” của thi sĩ Nguyễn Duy:
“Tre xanh,
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh.
Thân gầy guộc, lá mong manh,
Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi,
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu.”
Thấy hàng tre bên lăng Bác, nhà thơ thực sự xúc động bởi như thấy cả dân tộc Việt
Nam luôn thủy chung, sắt son bên cạnh Bác, bảo vệ cho giấc ngủ yên bình của Người.
Đồng thời qua hàng tre ấy, ta còn thấy cả làng quê, xứ sở, quê hương nguồn cội, thấy
sự mộc mạc, bình dị, n bình, thơn dã mãi trường sinh, bất diệt theo cùng năm tháng.
Có phải chăng cảnh quan như đã dịu đi và trở nên thật gần gũi, thân quen bởi bóng
mát và lời ru rì rào.

2. Niềm tự hào, tơn kính và lịng biết ơn vơ hạn trước công lao to lớn, trời biển
của Người
a, Niềm tự hào, tơn kính
*Chuyển ý: Đứng trước lăng Bác, nhà thơ bày tỏ niềm tự hào, tơn kính và biết ơn vơ
hạn trước công lao to lớn trời biển của Người:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
*Hỏi - Trả lời:
- “Mặt trời đi trên lăng”: mặt trời của thiên nhiên


- “Mặt trời trong lăng”: mặt trời của dân tộc Việt Nam - Bác Hồ
→ Hai hình ảnh có nghĩa tương đồng, đối sánh
- Mặt trời của thiên nhiên:
+ Đem lại sự sống
+ Đem ánh sáng cho mn lồi
- Bác Hồ:
+ Soi sáng cho con đường cách mạng
+ Con thuyền chỉ hướng cho nhân dân vượt mọi khó khăn
+ Dẫn dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất
→ Hiện thân của sự vĩ đại, cao cả, lớn lao sánh ngang trời đất
⟹ Trường tồn, bất tử, vĩnh cửu và mãi mãi
- Tên tuổi, sự nghiệp Bác lan tỏa khắp bốn bể năm châu, để lại tiếng thơm, lưu truyền
muôn đời sau
⟹ Khẳng định công lao của Bác
Thể hiện niềm tơn kính, tự hào và biết ơn
- “ngày ngày” là gì?
+ Vịng tuần hồn của thời gian mãi lặp đi lặp lại
+ Khẳng định, nhấn mạnh sự xuất hiện đồng thời của hai “mặt trời”
→ Bác mãi trong trái tim muôn triệu người dân

*Lập luận:
Trước quảng trường Ba Đình rợp nắng, trong lịng nhà thơ bỗng trào dâng nên một
niềm tơn kính, tự hào khó tả, có lẽ vì vậy mà ơng đã có một cảm nhận, quan sát thật tự
nhiên với hai hình ảnh song song đồng hiện ở cùng một thời điểm trong cùng một
không gian. “Mặt trời đi trên lăng” là mặt trời của thiên nhiên, của đại ngàn rừng núi,
mn lồi thì “mặt trời trong lăng” là mặt trời của nhân dân Việt Nam, là vị cha già kính
u của dân tộc. Hai hình ảnh ấy mang ý nghĩ tương đồng đối sánh. Nếu mặt trời của
thiên nhiên đem lại sự sống, ánh sáng cho mn lồi thì Bác lại là ánh sáng rọi soi cho
con đường cách mạng cùng đồng thời là con thuyền chỉ hướng cho nhân dân vượt mọi
khó khăn, dẫn dân tộc Việt Nam đi qua những ngày tăm tối nhất. Có thể nói Bác chính
là hiện thân của sự vĩ đại, cao cả, lớn lao sánh ngang trời đất; là chân lý chói bừng rực
rỡ xua tan đi những màn đêm đen tưởng chừng như vô tận của ách nô lệ đang dần tàn
lụi, mang lại hạnh phúc cho tồn nhân loại:
“Bác ơi tim Bác mênh mơng thế
Ơm trọn non sơng, mọi kiếp người”
Phải chăng trong lịng tác giả hay mỗi người dân đất Việt, Bác Hồ đã trở thành sự
trường tồn, bất tử, vĩnh cửu và mãi mãi cùng với tên tuổi, sự nghiệp của Bác lan tỏa
khắp bốn bể năm châu; để lại tiếng thơm, lưu truyền muôn đời sau. Câu thơ đã khẳng
định công lao của bác, đồng thời thể hiện niềm tơn kính, tự hào và biết ơn sâu sắc chân
thành dâng lên Bác. “Ngày ngày” là vịng tuần hồn của thời gian, của vũ trụ mãi lặp đi
lặp lại. Đó là sự khẳng định, nhấn mạnh sự xuất hiện đồng thời của hai “mặt trời”. Bác
mãi trong trái tim muôn triệu người dân, là sự hiện thân của đất trời. Cũng là so sánh
Bác với mặt trời, trong bài “Sáng tháng năm”, Tố Hữu đã từng viết:
“Người rực rỡ một mặt trời cách mạng
Còn đế quốc là loài dơi hốt hoảng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người”
b, Lịng biết ơn vơ hạn trước công lao to lớn, trời biển của Người


*Chuyển ý: Hòa vào trong dòng người xếp hàng vào lăng viếng Bác, nhà thơ thực sự

xúc động bởi tấm lịng biết ơn của mn triệu người dân kính dâng lên Người:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
*Hỏi - Trả lời:
- “Ngày ngày”: điệp từ lần hai khi dòng người vào viếng thăm lăng Bác
- Ý nghĩa của hình ảnh?
+ Sự lặp lại của thời gian
+ Nhấn mạnh tấm lòng của người dân Việt Nam
+ Sự giản dị, thường niên giống như mặt trời sớm chiều tỏa nắng
- “Dòng người” → sự tinh tế trong cách sử dụng, thể hiện
+ Sự tĩnh lặng
+ Sự trải dài miên mang vô tận của hàng người
+ Sự lặng lẽ “đi trong thương nhớ”
→ Cảm xúc bỗng đâu ùa về, trào dâng trong lòng tác giả
⤹ Liên tưởng kết hợp “dòng người” + “tràng hoa”
- Tả thực: hình ảnh mọi người xếp hàng vào lăng viếng Bác ghép thành một vòng trong
gợi liên tưởng → tràng hoa
- Ẩn dụ:
+ Nỗi xúc động, bồi hồi, lòng tiếc thương vơ hạn, kính cẩn kết thành một vịng hoa
+ Tràng hoa của mn triệu tấm lịng
→ Dịng chảy bất tận khơng bao giờ ngơi nghỉ
- “Bảy mươi chín mùa xuân”
+ Số tuổi của Bác
+ (nhấn mạnh) Cả cuộc đời cống hiến cho dân tộc, không giây phút nào ngơi nghỉ
- “Mùa xuân” tách riêng mang ý nghĩa (gợi ý liên tưởng đến ý nghĩa của mùa xuân)
gì?
+ Sự tươi đẹp, sự sinh sôi nảy nở, mang sức sống mãnh liệt
+ Bác để cho đời những mùa xuân
+ Bác mang mùa xuân cho quê hương, đất nước
*Lập luận:

“Ngày ngày” lại một lần nữa vang lên khi dòng người vào viếng thăm lăng Bác. Đó là sự
lặp lại của thời gian đồng thời nhấn mạnh tấm lòng của người dân Việt Nam dâng lên
Bác cũng giản dị, thường niên giống như mặt trời sớm chiều tỏa nắng. Chỉ với từ “dịng
người” nhưng Viễn Phương đã thành cơng thể hiện sự khéo léo, tài năng của mình
trong cách sử dụng và thể hiện từ ngữ. Ta có thể khẳng định đó đồng thời cũng là một
dụng ý nghệ thuật hết sức tinh tế gợi cho người đọc sự liên tưởng về một khơng gian
tĩnh lặng mà nổi bật trong đấy chính là sự trải dài miên mang tưởng chừng như vô tận
của hàng người từ khắp mọi miền đất nước tụ họp về đây trước lăng Bác bằng tất cả
sự chân thành, xúc động lắng sâu. Họ đi, đi trong vô vàn thương nhớ và cũng cùng với
không gian đặc biệt ấy, ta cảm nhận được một cảm xúc không tên bỗng đâu ùa về, trào
dâng trong lòng tác giả. Đọc đến đến dòng thơ tiếp theo, người đọc như ngỡ ngàng
nhận ra sự liên tưởng kết hợp vô cùng độc đáo, ăn khớp giữa “dòng người” cùng với
“tràng hoa”:
“Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
(Dẫn câu thơ lần 2 để tạo khoảng cách dòng tránh quá dày chữ)


Nghĩa tả thực là hình ảnh mọi người xếp hàng vào lăng viếng Bác ghép thành một vòng
tròn giống như một tràng hoa. Hình ảnh ấy vốn đã đẹp nhưng khi ta nhìn về phía ẩn dụ
thì hình ảnh ấy cịn đẹp hơn nữa, đầy gợi cảm, xúc động. Đó là sự bồi hồi, lịng tiếc
thương vơ hạn, kính cẩn kết thành một vịng hoa, vịng hoa của mn triệu tấm lịng
như một dịng chảy bất tận khơng bao giờ ngơi nghỉ kính dâng lên “người cha mái tóc
bạc”. “Bảy mươi chín mùa xuân” là số tuổi của Bác, cả cuộc đời cống hiến cho sự
nghiệp cách mạng của dân tộc, không giây phút nào ngơi nghỉ. “Mùa xuân” là sự tươi
đẹp, sự sinh sôi nảy nở, mang sức sống mãnh liệt. Bác để cho đời những mùa xuân,
Bác mang mùa xuân cho mọi miền quê hương, đất nước, Tổ Quốc.
3. Nỗi đau đớn, xót xa, niềm tiếc thương vơ hạn
a, Khung cảnh trong lăng
*Chuyển ý: Đứng trước anh linh Bác, dường như những hình ảnh “hàng tre”, “mặt trời”
đều lùi lại phía sau để những chỗ cho nỗi niềm đau đớn, xót xa và tiếc thương vơ hạn

mà trước hết là khung cảnh trong lăng:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”
*Hỏi - Trả lời:
- Khung cảnh trong lăng thanh tĩnh như nung kết cả thời gian và không gian
- Những bàn chân nhẹ bước, những đôi mắt lắng sâu
→ Trang nghiêm → Niềm xúc động thành kính
⟹ Thế giới tâm linh, tưởng niệm
- Nhà thơ được gần Bác → vừa gần lại vừa xa ( lý do - âm dương ly biệt)
- Phép nói giảm nói tránh “giấc ngủ bình n” có tác dụng gì?
+ Gợi sự nhẹ nhàng, thanh thản
+ Giấc ngủ của một người trọn đời không ngủ bởi lo lắng, băn khoăn cho đất nước
+ Ước mong sinh thời: đất nước được hịa bình
→ Giờ đây Bác ra đi với giấc ngủ ngàn thu, thanh thản, yên bình
- Trong nỗi niềm xúc động thành kính, nhà thơ có sự quan sát, liên tưởng gần gũi, tự
nhiên → Bác nằm giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ, hiền hòa
→ Miêu tả những ánh đèn quanh Bác như một vầng trăng đang soi sáng
⟹ Không gian vừa mơ, vừa thực
- “Trăng” đi cùng bác lúc sinh thời → trăng đã trở thành gì của Bác?
+ Tri âm, tri kỷ
+ Người bạn đồng hành dẫu trong đêm Việt Bắc hay trong chốn tù đày
→ Trăng thủy chung, tình nghĩa, mãi bên Bác
- Nay đi xa, trăng như vẫn cùng đi theo → vỗ về, nâng niu, trìu mến
- Hình ảnh cuộc đời và “mặt trời”, “vầng trăng” và “giấc ngủ” → hoàn thiện vẻ đẹp của
Bác
- Cuộc đời Người: vầng thái dương chiếu tỏa, vĩ đại, lớn lao sánh ngang trời đất
- Tâm hồn Người: sáng đẹp, dịu hiền, thanh mát tựa vầng trăng
→ Người là thánh nhân, hiền nhân; vừa là vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, vừa là vị cha già
giản dị của nhân dân Việt Nam
⟹ Những yếu tố tưởng đối lập (mặt trời - mặt trăng; vĩ đại, lớn lao - giản dị, hiền

hòa;...) lại hòa quyện, thống nhất trong một con người


*Lập luận:
Khung cảnh trong lăng thanh tĩnh như ngưng kết, cô đọng lại cả thời gian và không
gian. Những bàn chân nhẹ bước, những đôi mắt lắng sâu trong nỗi niềm xúc động
thành kính giữa khơng khí trang nghiêm, uy nghi và sâu lắng. Phải chăng bằng ngòi bút
tài ba của mình, tác giả đã mở ra một thế giới của tâm linh, tưởng niệm. Chưa bao giờ
nhà thơ được gần Bác như lúc này, có lẽ vì thế mà ta đã tìm thấy trong đó là cảm xúc
của tác giả đang trào dâng mãnh liệt. Và quả thực như một lời nhận xét “thơ Viễn
Phương đến từ cảm xúc chân thực nhất”, người đọc dường như được hóa thân vào
dòng người cùng theo bước chân của thi nhân tiến vào lăng Bác, cảm nhận được nỗi
nghẹn ngào đang dâng lên trong lòng nhà thơ khi được bên cạnh Bác nhưng thực chất
là quá đỗi cách xa mà khoảng cách này đâu phải tính bằng dặm mà là được tạo ra bởi
hai miền sinh tử, là sự âm dương ly biệt. Một lần nữa, phép nói giảm nói tránh được sử
dụng thể hiện qua cụm từ “giấc ngủ bình yên”. Những trái tim đồng điệu với cảm xúc
của thi ca cảm nhận được trong từng câu từ, con chữ ấy là sự nhẹ nhàng, thanh thản
trong giấc ngủ của một người trọn đời không ngủ bởi lo lắng, băn khoăn cho đất nước.
“Làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do” là ước
mong sinh thời của Bác và giờ đây khi ước mơ ấy đã được thực hiện, Bác ra đi với giấc
ngủ ngàn thu, thanh thản, yên bình. Trong bài thơ “Chúng cháu canh giấc Bác ngủ, Bác
Hồ ơi” của Hải Như, ơng đã khẳng định:
“Suốt cuộc đời Bác có ngủ ngon đâu
Nay Bác ngủ chúng ta canh giấc ngủ”
Trong nỗi niềm xúc động thành kính, có thể nói Viễn Phương đã có sự quan sát, liên
tưởng vơ cùng gần gũi, tự nhiên. Bác như nằm giữa một vùng ánh sáng nhè nhẹ, hiền
hịa. Có phải hay khơng những ánh đèn quanh Bác là một vầng trăng đang soi sáng.
Phủi đi lớp bụi mờ của ngôn từ trên bề mặt, ta cảm nhận được đằng sau ấy là không
gian vừa mơ, vừa thực. Nhớ đến năm xưa, trăng chẳng biết từ bao giờ đã trở thành tri
âm, tri kỷ, người bạn đồng hành trong những đêm dài Việt Bắc:

“Trăng vào cửa sổ địi thơ
Việc qn đang bận xin chờ hơm sau”
hay trong chốn tù đày:
“Người ngắm trăng soi ngoài cửa sổ
Trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ”
Và nay khi Bác đã đi xa, trăng như vẫn cùng đi theo vỗ về, nâng niu, trìu mến. Từ đó ta
thấy được hình ảnh bên cạnh Người vẫn có một vầng trăng vẫn ln thủy chung, tình
nghĩa, mãi đồng hành cùng Bác. Trong bài “Trăng lên”, Phạm Ngọc Cảnh từng chia sẻ:
“Trong lăng Bác vừa chợp nghỉ
Như sau mỗi việc làm
Trăng ơi trăng biết thế
Nên trăng bước nhẹ nhàng”
Đi sóng đơi cùng với hình ảnh cuộc đời và “mặt trời”, “vầng trăng” và “giấc ngủ” đã hồn
thiện vẻ đẹp vốn có của Bác. Nếu như cuộc đời Người là thái dương chiếu tỏa, vĩ đại,
lớn lao sánh ngang trời đất, khơng ai có thể sánh kịp thì tâm hồn Người lại sáng đẹp,
dịu hiền, thanh mát tựa vầng trăng. Người vừa là một thánh nhân, vừa là một hiền
nhân; vừa là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, vừa là người cha già giản dị đáng kính
của nhân dân Việt Nam. Những yếu tố tưởng chừng đối lập nhưng lại được thống nhất
trong một con người.


b, Nỗi đau tiếc thương vô hạn
*Chuyển ý: Tuy nhiên càng cảm nhận nhân cách cao cả, vĩ đại của Bác, nhà thơ càng
cảm nhận được sâu sắc nỗi đau đớn, tiếc thương khi mất Bác:
“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
*Hỏi - Trả lời:
- “Vẫn biết” - “mà sao” → sự mâu thuẫn, xáo trộn trong tâm trí
- Những điều “vẫn biết”:
+ Quy luật sinh tử của tạo hóa

+ Bác là trời xanh bất tử, hóa thân vào cỏ cây, sơng núi Việt Nam
- Mà sao trong lịng vẫn nhói đau → Bác khơng cịn nữa là sự thật khơng thể chối cãi
⟹ Nỗi đau đớn, xót xa, niềm tiếc thương vơ hạn
- “trời xanh” – “mãi mãi”: sự bất diệt, vĩnh hằng, bất tử cùng non sơng
- “nhói ở trong tim”
+ Nỗi đau cùng cực khơng một từ nào có thể trọn vẹn hết
+ Sự đau xót trong nghẹn ngào, thổn thức
- Ngày “miền Nam đang thắng, mơ ngày hội”, ngày vui thống nhất mong được đón Bác
vào thăm mà khơng thể thực hiện.
*Lập luận:
Hai đầu câu thơ là hai từ đối lập nhau “vẫn biết” - “mà sao” như diễn tả mâu thuẫn, xáo
trộn trong tâm trí của tác giả. Vẫn biết chuyện sống chết là quy luật ở đời không ai tránh
khỏi, vẫn biết Bác đã trở thành trời xanh bất tử, hóa thân vào cỏ cây, sơng núi Việt
Nam, di sản quý báu Bác để lại cho dân tộc sẽ còn mãi mãi và tên tuổi, sự nghiệp của
Người vẫn cịn mãi trong trái tim tấm lịng của mn triệu người dân, như lời khẳng
định. “Người sống mãi trong sự nghiệp của chúng ta”.
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn cỏ mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già”
Hai chữ “mà sao” vang lên với bao niềm xúc động, cảm xúc bởi nhà thơ dường như
khơng thể kìm nén lịng mình khi đứng trước di hài Bác, trong lịng nhói đau có phải
chăng lẽ vì khi nhìn đến thực tại Bác khơng cịn nữa là sự thật khơng có bất cứ ai có
thể chối cãi, phủ nhận. Lắng đọng hồn mình trong từng câu thơ, từng con chữ, người
đọc phát hiện ra nỗi đau cùng xót xa cùng niềm tiếc thương vơ hạn trong tâm hồn, tấm
lịng của thi nhân. “Nhói ở trong tim” là nỗi đau mà khơng một từ nào có thể diễn tả trọn
vẹn hết được, đồng thời cũng chính là sự đau xót của Viễn Phương trào dâng trong
nghẹn ngào, thổn thức. Dường như đó cũng là nỗi đau đớn, tiếc thương của cả đồng
bào Việt Nam dành cho Bác, ngày “miền Nam đang thắng, mơ ngày hội”, ngày vui
thống nhất mong được đón Bác vào thăm mà khơng thể thực hiện. Ta tìm thấy những

dịng thơ đầy cảm xúc đồng điệu cùng với sự xúc động của nhà thơ:
“Bác đã đi rồi sao Bác ơi
Mùa thu đẹp lắm, nắng xanh trời”
Một nỗi đau như nén chặt lại, ý thơ gợi những tháng ngày rợp trời khăn tang áo trắng,
cả đất trời lặng trong tiếng khóc người tiễn đưa
“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”


Nếu câu trên là lý trí, câu dưới là niềm riêng nhưng đều tất cả có một cái chung là tập
trung diễn tả sự rung cảm chân thành, xúc động với nỗi đau tê tái và quặn thắt của một
người con mất cha, tâm trạng của những người con xa xơi giờ về thăm mà cha đã
khơng cịn nữa.
4. Nỗi đau chia li, khát vọng được mãi gần bên Bác
a, Nỗi đau chia li, tâm trạng lưu luyến
*Chuyển ý: Bài thơ được khép lại bằng nỗi đau chia li, tâm trạng lưu luyến và khát
vọng được mãi gần bên Bác:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”
*Hỏi - Trả lời:
- Lời chia li, giã biệt
→ Lời giản dị → diễn tả nhiều cảm xúc
→ Nghẹn ngào, nức nở, đầy xúc động
- Chữ “thương”
+ Niềm xúc động, sâu lắng
+ Sự bình dị, mộc mạc
+ Sự trân trọng, kính trọng, biết ơn
+ Chân thành, đầy tiếng lòng
- “trào nước mắt”: nỗi nhớ thương khơng kìm nén
- “Miền Nam”: lặp lần 2
+ Khoảng cách địa lý xa xơi nghìn dặm

+ Một phần máu thịt của đất nước
* Lập luận:
Câu thơ hiện ra nghe như lời giã biệt, chia ly. Tuy chỉ là lời nói giản dị mà diễn tả, gợi ra
cho người đọc biết bao cảm xúc. Và quả thật “thơ là một bức họa để cảm nhận thay vì
để ngắm”, người đọc tìm được đằng sau đó là nỗi nhớ thương, xót xa, đau đớn trong
nghẹn ngào, xúc động vốn được nén chặt trong trái tim nhưng giờ đây khơng thể kìm
nén được nữa mà đã trào dâng trong dòng lệ nhạt nhòa. Chữ “thương” vang lên gợi
cho ta niềm xúc động, sâu lắng trong tâm hồn thi sĩ đồng thời cũng là sự bình dị, mộc
mạc cùng tấm lịng trân trọng, biết ơn và chân thành mà ở đó chất chứa đầy tiếng lòng
của một con người. Một lần nữa, “Miền Nam” đã được lặp lại gợi về khoảng cách xa xơi
nghìn dặm, một phần máu thịt của đất nước. “Thương trào nước mắt” - nước mắt của
niềm đau khổ tột cùng, của niềm tiếc nuối khôn nguôi. Nước mắt của nỗi đau khi phải
chia ly nhưng đâu phải chỉ là khoảng cách địa lý, người Nam kẻ Bắc, nghìn trùng cách
trở mà là chia ly theo ý nghĩa sinh tử, âm dương cách biệt.
b, Khát vọng được mãi gần bên Bác
*Chuyển ý: Trong niềm xót thương, lưu luyến, nhà thơ đã bày tỏ những ước nguyện
thật chân thành:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
*Hỏi - Trả lời:
- Điệp từ “muốn làm”: 3 lần nhấn mạnh điều gì?
+ Ước nguyện của nhà thơ
+ Ước nguyện ln thường trực trong tâm trí, cháy bỏng, mãnh liệt
- Khát vọng hóa thân: “con chim”, “bơng hoa”, “cây tre”


+ Giản dị, gần gũi, cụ thể
+ Chân thành, khiêm nhường, tự nhiên
+ Cụ thể, hữu ích

- Đặc sắc “cây tre trung hiếu”:
+ Nguyện trung thành suốt đời với Bác, với lý tưởng của Bác
+ Canh giấc ngủ cho Bác
+ Kết cấu đầu cuối tương ứng
→ Sự nhấn mạnh trùng lặp
→ Sự phát triển của ý thơ: Tre thủy chung, sắt son bên Bác
*Lập luận:
Điệp từ “muốn làm” được lập lại ba lần trên đầu mỗi dòng thơ gợi ra ước nguyện của
Viễn Phương, ước nguyện mà luôn thường trực trong tâm trí ơng, cháy bỏng, mãnh liệt.
Có thể nói ngịi bút của Viễn Phương là vơ cùng tinh tế, ông muốn được hóa thân thành
“con chim” trong vô vàn con chim hót quanh lăng Bác, “đóa hoa” trong mn vạn đóa
hoa “ tỏa hương” đâu đây. Hình như ta cũng đã từng bắt gặp ước muốn ấy trong tác
phẩm “Mùa xuân nho nhỏ” của nhà thơ Thanh Hải:
“Ta làm con chim hót
Ta làm một nhành hoa
Ta nhập vào hịa ca
Một nốt trầm xao xuyến.”
Đó đều là hình ảnh giản dị, gần gũi mà thân thiết nhưng cụ thể và hữu ích như một
mong muốn, khát vọng chân thành, nhỏ bé muốn được làm một điều gì đó để đáp lại
công ơn biển trời mà Bác đã mang lại đất nước tựa như “một con chim mang tiếng hót”,
“đóa hoa mang đến sắc hương”. Nhưng đặc sắc nhất cũng độc đáo và ấn tượng nhất
chính là ước muốn được làm “cây tre trung hiếu”. Lại một lần nữa “cây tre” được nhắc
đến như lời thề nguyện trung thành suốt đời với Bác, với lý tưởng của Bác, phải chăng
nhà thơ muốn canh giấc ngủ cho Bác. Không hổ là “hạt ngọc” trong thi phẩm, hình ảnh
“cây tre” hiện lên cịn là tạo ra kết cấu đầu cuối tương ứng, vừa tạo ra sự nhấn mạnh
trùng lặp, vừa nói đến sự phát triển của ý thơ từ cảm nhận về hình ảnh hàng tre bên
lăng Bác như tấm lòng thủy chung, tình nghĩa của dân tộc bên Người. Nhà thơ đã
mong muốn được hóa thân trở thành một thành viên trong hàng tre trung hiếu ấy, mãi
sắt son, thủy chung bên bác. Lời thề ấy thiêng liêng, lan tỏa và vang vọng:
“Có cái chết hóa thành bất tử

Có những lời hơn mọi bài ca
Có những con người như chân lý sinh ra”
(Hãy nhớ lấy lời tôi - Tố Hữu + Nguyễn Kim Thành)
D. SƠ ĐỒ KIẾN THỨC
1. Niềm xúc động, thành kính, nỗi mong chờ, trơng ngóng
a, Niềm xúc động thành kính
- Cách xưng hơ “con” - “Bác”: gần gũi, ruột thịt
- Phép nói giảm nói tránh “thăm”: giảm đi nỗi xót đau
- “Miền Nam”: khoảng cách địa lý xa xơi nghìn trùng, một nửa miền đất nước
b, Hình ảnh hàng tre bên lăng Bác
- Làm rõ được hình ảnh hàng tre
+ Ý nghĩa (đứng riêng): tượng trưng cho dân tộc Việt Nam


+ Ý nghĩa (khi đứng bên lăng Bác): Thủy chung, sắt son, tình nghĩa
2. Niềm tự hào, tơn kính và lịng biết ơn vơ hạn trước cơng lao to lớn, trời biển
của Người
a, Niềm tự hào, tơn kính
- Làm rõ hình ảnh mặt trời thiên nhiên - mặt trời dân tộc Việt Nam (Bác Hồ)
- Tìm được sự tương đồng trong hai hình ảnh: bất tử, vĩnh hằng, tỏa sáng:
+ Mặt trời thiên nhiên: rọi soi cho mn lồi
+ Bác: rọi soi cho con đường cách mạng, dân tộc Việt Nam
b, Lịng biết ơn vơ hạn trước cơng lao to lớn, trời biển của Người
- Tam lòng của người dân Việt Nam
- Liên tưởng kết hợp: “dòng người” - “tràng hoa”: dịng chảy bất tận
- “Bảy mươi chín mùa xn”: Tuổi của Bác
- Bác mang mùa xuân đi mọi miền Tổ Quốc
3. Nỗi đau đớn, xót xa, niềm tiếc thương vơ hạn
a, Khung cảnh trong lăng
- Thanh tĩnh, n bình

- Phép nói giảm nói tránh “giấc ngủ bình n”
- Làm rõ hình ảnh vầng trăng: dịu hiền, thủy chung, tình nghĩa
b, Nỗi đau tiếc thương vô hạn
- “Vẫn biết” - “Mà sao”: sự đối lập trong cách sử dụng
- Làm rõ sự đối lập ấy
- “Nhói ở trong tim”: Đau đớn, xót xa
4. Nỗi đau chia li, khát vọng được mãi gần bên Bác
a, Nỗi đau chia li, tâm trạng lưu luyến
- Làm rõ được cảm xúc của tác giả qua các chi tiết
b, Khát vọng được mãi gần bên Bác
- Điệp từ “muốn làm”: ước nghuyện mãnh liệt của nhà thơ
- Làm rõ ý nghĩa của khát vọng hóa than: “con chim”, “đóa hoa”, “cây tre” (Lưu ý phân
tích chi tiết “cây tre trung hiếu”

Tổng hợp: NTKN



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×