Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Vai trò lãnh đạo của đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc giai đoạn 1930 1945

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (396.75 KB, 22 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................................... 1
2. Mục đích nghiên cứu ..................................................................................................... 1
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu .................................................................................... 2
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu.................................................................... 2
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn....................................................................................... 3
6. Kết cấu của tiểu luận ..................................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ................................ 4
1.1. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ......................................................................... 4
1.1.1. Bối cảnh quốc tế .................................................................................................. 4
1.1.2. Bối cảnh trong nước............................................................................................. 4
1.1.3. Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam ........................................ 5
1.2. Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng của Đảng trong giai đoạn
1930 - 1945 ....................................................................................................................... 6
CHƯƠNG 2: VAI TRÒ CỦA ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN ................................ 10
GIÀNH CHÍNH QUYỀN GIAI ĐOẠN 1930-1945 ....................................................... 10
2.1. Giai đoạn 1930-1939 ................................................................................................ 10
2.1.1. Phong trào cách mạng 1930-1931 và phục hồi tổ chức Đảng 1932 - 1935 ....... 10
2.1.2. Phong trào dân chủ 1936-1939 .......................................................................... 12
2.2 Phong trào dân tộc từ năm 1939 - 1945 đến cách mạng tháng 8 năm 1945 ............. 13
2.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng ................................ 13
2.2.2. Cao trào cách mạng và tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945 ........ 16
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 20
TÀI LIỆU THAM KHẢO


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta đã trải qua hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, từ thời Bắc thuộc đến
các cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mĩ, nhân dân ta đã luôn kiên cường đấu


tranh, quyết tâm giữ vững độc lập mặc cho kẻ thù là những cường quốc rất mạnh trên thế
giới. Ở mỗi thời kì khác nhau, ln có những cuộc nổi dậy, phong trào, khởi nghĩa, và để
những phong trào hoặc khởi nghĩa đó có quy mơ, tổ chức, lan rộng và đi đến thắng lợi thì
ln cần có tổ chức, cá nhân đứng đầu để lãnh đạo, điều đó là cực kì quan trọng khơng chỉ
riêng với cách mạng mà còn với tất cả các hoạt động mang tính tập thể trong xã hội. Đối với
cách mạng Việt Nam trong thời kì chống Pháp, Mĩ, một tổ chức cách mạng được ra đời vào
năm 1930 và trực tiếp lãnh đạo cách mạng trên mọi mặt trận, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam,
từ khi được thành lập và hoạt động, Đảng luôn áp dụng tư tưởng rõ ràng là chủ nghĩa Mác –
Lênin, có cơ cấu tổ chức tốt cùng với vị lãnh tụ Hồ Chí Minh đã dẫn dắt nhân dân ta kiên
cường đấu tranh và mang đến nhiều thắng lợi to lớn. Từ khi Đảng ra đời đã trải qua nhiều
giai đoạn đấu tranh khác nhau. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, sự nghiệp giải phóng
dân tộc được Đảng xác định là nhiệm vụ quan trọng nhất, giai đoạn từ năm 1930 đến năm
1945, là giai đoạn tình hình thế giới có nhiều biến động ảnh hưởng trực tiếp đến hồn cảnh
trong nước, tuy chưa có nhiều kinh nghiệm và gặp nhiều khó khăn trong việc tổ chức, lãnh
đạo cách mạng nhưng Đảng ta vẫn vượt qua, tận dụng thời cơ và đánh đổ thực dân Pháp,
khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sau thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945.
Từ đó, nhóm quyết định chọn đề tài “Vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng
dân tộc giai đoạn 1930 – 1945” để làm tiểu luận cuối kỳ kết thúc mơn học lịch sử Đảng Cộng
sản Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu
Về kiến thức: hiểu rõ vai trò lãnh đạo của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc,
thấy được ý nghĩa và tầm quan trọng trong việc Đảng lãnh đạo nhân dân ta chống lại kẻ
thù.

1


Về kỹ năng: phát huy tính chủ động, tích cực, sáng tạo của sinh viên trong việc làm
quen với nghiên cứu khoa học, bản thân học được các kỹ năng về đọc tài liệu, xử lí tài liệu.
Rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình.

Về thái độ: hình thành thái độ làm việc nghiêm túc, có trách nhiệm trong việc chung
của nhóm, trung thực trong việc tìm kiếm, phân tích và nghiên cứu thơng tin liên quan đến
đề tài để hoàn thành bài tiểu luận một cách hoàn chỉnh, đúng yêu cầu của giảng viên.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: tiểu luận tập trung nghiên cứu về Đảng Cộng sản Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu: vai trò lãnh đạo của Đảng đấu tranh chống thực dân Pháp giai
đoạn 1930 – 1945.
Nhiệm vụ nghiên cứu: nhóm xác định được 2 nhiệm vụ chính cần thực hiện, đó là:
Nhiệm vụ thứ nhất: nêu được q trình hình thành, đường lối, tư tưởng và Đảng vận
dụng và đi theo.
Nhiệm vụ thứ hai: trình bày khái quát các phong trào mà Đảng đóng vai trị lãnh đạo,
tổ chức trong giai đoạn 1930 – 1945, thắng lợi của cách mạng tháng 8/1945 để thấy được
vai trò quan trọng của Đảng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận: dựa trên những tài liệu ghi chép về sự thành lập, lãnh đạo của Đảng
trong giai đoạn 1930 – 1945 thông qua dự thảo giáo trình, sách, tư liệu trên báo đài, internet.
Phương pháp nghiên cứu:
Để thực hiện hai nhiệm vụ trên, nhóm sử dụng phương pháp tìm kiếm, thu thập thơng
tin từ nhiều nguồn như giáo trình, sách tham khảo, tạp chí, tài liệu trên Internet và những
thơng tin đó được nhóm phân tích, đánh giá, chọn lọc những nội dung phù hợp nhất với đối
tượng nghiên cứu. Khái quát hóa nội dung, nhiệm vụ một cách rõ ràng.

2


Riêng với nhiệm vụ thứ hai, nhóm cịn dựa trên phương pháp liệt kê, so sánh và đối
chiếu, từ đó chắt lọc ra những cuộc khởi nghĩa, phong trào tiêu biểu nhất để trình bày một
cách rõ ràng, cụ thể.
Cuối cùng, nhóm dùng phương pháp khái qt hóa, mơ hình hóa để hệ thống lại tất cả
nội dung một cách logic, cụ thể.

5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
Tổng quát được quá trình hình thành, đường lối tư tưởng mà Đảng vận dụng để xây
dựng và điều hành xã hội.
Thấy được những vai trò, tầm quan trọng từ khi Đảng ra đời đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc của nhân dân ta.
Nhận thức được những vai trò của Đảng trong giai đoạn 1930 – 1945 mà vẫn còn áp
dụng và có tác dụng hiệu quả đến thời điểm hiện tại trong việc dẫn dắt, lãnh đạo và phát
triển đất nước.
6. Kết cấu của tiểu luận
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận được chia làm 2 chương:
Chương 1: Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam
Chương 2: Vai trò của Đảng lãnh đạo nhân dân giành chính quyền giai đoạn 19301945

3


CHƯƠNG 1
SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
1.1. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
1.1.1. Bối cảnh quốc tế
Chủ nghĩa tư bản chuyển từ tự do cạnh tranh sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Các
nước tư bản đế quốc vừa tăng cường bóc lột nhân dân lao động trong nước vừa xâm lược
và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm cho đời
sống nhân dân lao động các nước trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa
với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra
mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 cùng với sự ra đời của Quốc
tế Cộng sản (Quốc tế III) vào tháng 3/1919 đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào
cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trị quan trọng
trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.1.2. Bối cảnh trong nước
Từ năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược và từng bước thiết lập bộ
máy thống trị ở Việt Nam, biến một quốc gia phong kiến thành thuộc địa nửa phong kiến.
Dưới tác động của chính sách cai trị và chính sách kinh tế, văn hóa, giáo dục thực dân, xã
hội Việt Nam đã diễn ra q trình phân hóa sâu sắc.
Giai cấp địa chủ câu kết với thực dân Pháp tăng cường bóc lột, áp bức nơng dân. Tuy
nhiên, vẫn cịn một bộ phận địa chủ có lịng u nước, căm ghét chế độ thực dân đã tham
gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Giai cấp nông dân là
lực lượng đông đảo nhất trong xã hội Việt Nam, bị thực dân và phong kiến áp bức, bóc lột
nặng nề. Tình cảnh bần cùng khốn khổ của giai cấp nơng dân Việt Nam đã làm tăng thêm
lịng căm thù đế quốc và phong kiến tay sai, tăng thêm ý chí cách mạng của họ trong cuộc
đấu tranh giành lại ruộng đất và quyền sống tự do. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời từ
cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp, đa số xuất thân từ giai cấp nơng
dân, có quan hệ trực tiếp và chặt chẽ với giai cấp nông dân, bị đế quốc, phong kiến áp bức
bóc lột. Giai cấp tư sản Việt Nam bị tư sản Pháp và tư sản người Hoa cạnh tranh chèn ép,
4


do đó thế lực kinh tế và địa vị chính trị nhỏ bé và yếu ớt, có tinh thần dân tộc và yêu nước
ở mức độ nhất định. Tầng lớp tiểu tư sản Việt Nam bao gồm học sinh, trí thức, những người
làm nghề tự do… đời sống bấp bênh, dễ bị phá sản trở thành người vơ sản, có lịng u
nước, căm thù đế quốc, thực dân, có khả năng tiếp thu những tư tưởng tiến bộ từ bên ngoài
truyền vào.
Các giai cấp, tầng lớp trong xã hội Việt Nam lúc này đều mang thân phận người dân
mất nước và ở những mức độ khác nhau, đều bị thực dân áp bức, bóc lột. Vì vậy, trong xã
hội Việt Nam, ngoài mâu thuẫn cơ bản giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa
chủ và phong kiến, đã nảy sinh mâu thuẫn vừa cơ bản vừa chủ yếu và ngày càng gay gắt
trong đời sống dân tộc, đó là mâu thuẫn giữa tồn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp
xâm lược. Tính chất của xã hội Việt Nam là xã hội thuộc địa nửa phong kiến đang đặt ra
hai yêu cầu: Một là, phải đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược, giành độc lập cho dân tộc, tự

do cho nhân dân; Hai là, xóa bỏ chế độ phong kiến, giành quyền dân chủ cho nhân dân, chủ
yếu là ruộng đất cho nông dân. Trong đó, chống đế quốc, giải phóng dân tộc là nhiệm vụ
hàng đầu. Trước những yêu cầu đó, các phong trào yêu nước của nhân dân ta chống thực
dân Pháp diễn ra liên tục và sôi nổi nhưng đều không mang lại kết quả. Các phong trào yêu
nước từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX là sự tiếp nối truyền thống yêu nước, bất khuất của
dân tộc ta được hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử. Nhưng do thiếu đường lối đúng đắn,
thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Cách mạng
Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.
1.1.3. Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời ngày 3/2/1930 là sự kiện lịch sử cực kỳ trọng đại,
một bước ngoặt vô cùng quan trọng trong lịch sử cách mạng Việt Nam. Việc thành lập
Đảng do chỉ thị của Đông Phương Bộ yêu cầu Nguyễn Ái Quốc triệu tập các đại biểu cộng
sản Việt Nam họp từ ngày 6/1/1930 đến ngày 8/2/1930 tại căn nhà của một công nhân ở
bán đảo Cửu Long (Kowloon) đúng vào dịp Tết năm Canh Ngọ, trong hội nghị thành lập
Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là
tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất
các nhóm Cộng sản Đơng Dương”. Đáp ứng những địi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày
5


17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương
Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của
Hội Việt Nam cách mạng Thanh niên cũng quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng.
Ngày 1/1/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân
của Đảng) đã họp và thành lập Đơng Dương Cộng sản Liên Đồn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên,
ở một nước có tới ba tổ chức Cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và
tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành
lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào Cộng sản ở Việt
Nam. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là
Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện gồm: Chánh cương vắn tắt,

Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng và Lời kêu gọi của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến cơng
nhân, nơng dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân
dịp thành lập Đảng. Trong đó, Chánh cương vắn tắt của Đảng và sách lược vắn tắt của Đảng
phản ánh nội dung Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị
hợp nhất các tổ chức Cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng. Tại Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ III của Đảng (9/1960) đã quyết nghị lấy ngày 3 tháng 2 dương lịch mỗi
năm làm ngày Kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển đường lối cách mạng của Đảng trong
giai đoạn 1930 - 1945
Thắng lợi vĩ đại của cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền cách mạng tháng Tám
năm 1945 là mốc son chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Thành công đó bắt nguồn từ nhiều nhân tố, trong đó việc Đảng ta luôn quan tâm lãnh đạo
xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho phong trào đấu tranh
của nhân dân cả nước là nhân tố đặc biệt quan trọng. Ngay từ khi ra đời, nhận thức sâu sắc
tầm quan trọng của việc xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang đối với sự nghiệp giải
phóng dân tộc, trong Chính cương vắn tắt, Đảng ta chỉ rõ: “Trong tổ chức lực lượng cách
mạng, giai cấp công nhân và nông dân là động lực chủ yếu, quân đội công nông là công cụ
bạo lực sắc bén để cùng toàn dân tiến hành đấu tranh vũ trang thì mới đập tan được bộ máy
6


thống trị của đế quốc Pháp và phong kiến bản xứ có quân đội đánh thuê rất tàn bạo”[5;
tr.14]. Nhấn mạnh luận điểm này, Cương lĩnh tháng 10/1930 của Đảng một lần nữa khẳng
định “Mục đích của Đảng là lãnh đạo quần chúng võ trang bạo động”[3; tr.18]. Đây là
những văn kiện quan trọng không chỉ vạch ra đường hướng đấu tranh đúng đắn cho nhân
dân ta, mà đó cịn là những quan điểm đầu tiên về quân sự, tạo cơ sở để từng bước phát
triển tư tưởng quân sự, đường lối quân sự của Đảng trong giai đoạn cách mạng tiếp theo.
Tiếp tục khẳng định vị trí, vai trị của các đội tự vệ trong cuộc đấu tranh vì nền độc lập tự
do của dân tộc, tại Đại hội lần thứ nhất của Đảng (3/1935), Nghị quyết về đội tự vệ được

coi là một trong những Nghị quyết quan trọng trong chương trình nghị sự của Đại hội. Nghị
quyết nêu rõ mục đích của việc tổ chức đội tự vệ là ủng hộ quần chúng hàng ngày; ủng hộ
quần chúng trong các cuộc đấu tranh; ủng hộ các cơ quan cách mạng và chiến sĩ cách mạng
của công nông; quân sự huấn luyện cho lao động cách mạng, chống quân thù giai cấp tấn
công và làm cho vận động cách mạng phát triển thắng lợi. Nghị quyết nhấn mạnh: “Luôn
luôn phải giữ quyền chỉ huy nghiêm ngặt của Đảng trong tự vệ thường trực”[4; tr.95]. Nghị
quyết này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với việc hình thành tư tưởng quân sự của
Đảng. Lần đầu tiên những nguyên tắc xây dựng về chính trị cũng như về quân sự của lực
lượng vũ trang cách mạng đã được đề ra một cách cơ bản và tương đối toàn diện.
Phong trào đấu tranh của nhân dân ta ngày càng phát triển sâu rộng, nhưng đây cũng
là lúc nhân dân ta lâm vào tình cảnh một cổ hai trịng. Tháng 9/1940, chiến tranh Thái Bình
Dương bùng nổ, Nhật chiếm Đơng Dương. Trên đất nước ta lúc này cùng lúc có hai kẻ thù
là thực dân Pháp và phát xít Nhật. Tuy nhiên, không cam chịu cảnh nô lệ lầm than, nhân
dân ta đã anh dũng đứng lên tranh đấu với kẻ thù dân tộc. Tiếng súng Bắc Sơn (Lạng Sơn)
năm 1940 là minh chứng điển hình cho tinh thần đấu tranh quật cường đó. Sau khởi nghĩa
Bắc Sơn, ngày 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23/11/1940 - 14/1/1941) bùng nổ.
Đây là cuộc khởi nghĩa nổ ra với khí thế rất mạnh mẽ, quy mơ rộng lớn và có tính chất quần
chúng rộng rãi chưa từng có. Điều quan trọng, trong cuộc khởi nghĩa này đã xuất hiện một
đội quân hùng hậu đó là du kích Nam Kỳ. Với nhãn quan sâu rộng, Đảng ta nhanh chóng
có sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời để củng cố, xây dựng và phát triển du kích Nam Kỳ trở
thành hạt giống đỏ cho quá trình đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân. Sang năm
1943, cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít của nhân dân Liên Xô giành nhiều thắng lợi
7


lớn. Lúc này, ở Đông Dương, mâu thuẫn Nhật - Pháp ngày càng căng thẳng. Đây là điều
kiện thuận lợi để cách mạng nước ta tiến lên giành những thắng lợi quan trọng. Nắm bắt
được tình hình, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp từ ngày 25 - 27/2/1943, quyết định
củng cố và phát triển Mặt trận Việt Minh, đồng thời ra sức chuẩn bị khởi nghĩa. Tháng
2/1944, Trung ương Đảng cử đồng chí Hồng Quốc Việt, Ủy viên Ban Thường vụ Trung

ương lên kiểm tra tình hình tại căn cứ địa Việt Bắc. Sau khi xem xét tình hình cụ thể, thay
mặt Trung ương Đảng, đồng chí Hồng Quốc Việt chỉ đạo chia Khu căn cứ Bắc Sơn - Vũ
Nhai (lúc đó là Chiến khu Hồng Hoa Thám) thành hai phân khu A và B (Phân khu A gọi
tên là Phân khu Quang Trung; Phân khu B gọi tên là Phân khu Nguyễn Huệ) và quyết định
phát triển thêm lực lượng vũ trang cách mạng tại hai phân khu. Theo chủ trương đó, ngày
25/2/1944, tại Khuổi Kịch thuộc châu Sơn Dương (Tuyên Quang), Trung đội Việt Nam
Cứu Quốc quân thứ 3 được thành lập.
Tuy nhiên, dưới hai tầng áp bức Pháp và Nhật, nếu chỉ dựa vào các hình thức đấu
tranh đơn giản, đặc biệt là không xây dựng được các đơn vị vũ trang đủ mạnh làm nòng cốt
cho nhân dân đánh giặc thì cách mạng rất khó thành công, bởi vậy, dù công việc chuẩn bị
khởi nghĩa đang riễn ra rất khẩn trương, nhưng Trung ương Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh
vẫn đặc biệt quan tâm xây dựng, phát triển các lực lượng vũ trang. Tháng 12/1944, tại căn
cứ địa Cao Bằng, lãnh tụ Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân. Chấp hành Chỉ thị đó, sau một thời gian gấp rút chuẩn bị, ngày 22/12/1944,
tại khu rừng giữa hai tổng Hoàng Hoa Thám và Trần Hưng Đạo, thuộc châu Ngun Bình,
tỉnh Cao Bằng, đồng chí Võ Ngun Giáp đã tuyên bố thành lập Đội Việt Nam Tuyên
truyền giải phóng quân. Đội gồm 34 chiến sĩ, trang bị 34 khẩu súng các loại, biên chế thành
3 tiểu đội, có chi bộ Đảng lãnh đạo, do đồng chí Xích Thắng làm Thư ký Chi bộ. Sự ra đời
của Đội Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân, đặc biệt là sự ra đời của Chi bộ Đảng
trong Đội là bước ngoặt quan trọng về công tác xây dựng Đảng trong lực lượng vũ trang.
Sau khi thành lập, thực hiện Chỉ thị của lãnh tụ Hồ Chí Minh: “Trong vịng một tháng
phải có hoạt động để gây tin tưởng cho các chiến sĩ và gây truyền thống hành động tích cực
nhanh chóng cho bộ đội”[9; tr.128], ngày 25/12/1944, Đội Việt Nam Tuyên truyền giải
phóng quân đã cải trang, dùng mưu tập kích diệt Đồn Phai Khắt (xã Tam Lộng, tổng Kim
Mã, châu Nguyên Bình, tỉnh Cao Bằng); ngày 26/12 diệt Đồn Nà Ngần (cách Phai Khắt 15
8


km về phía Đơng Bắc). Chiến thắng Phai Khắt và Nà Ngần của Đội Việt Nam Tuyên truyền
giải phóng quân có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu sự lãnh đạo, chỉ đạo đúng đắn của

Chi bộ Đảng ngay từ buổi đầu mới thành lập; đồng thời, mở đầu truyền thống đánh thắng
ngay từ trận đầu, đánh tiêu diệt và dũng cảm, mưu trí và linh hoạt của quân đội ta.
Đối với xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang, Hội nghị quyết định thống nhất
Cứu Quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền giải phóng quân cùng các lực lượng vũ trang
khác, thành lập Việt Nam Giải phóng quân để cùng với nhân dân tiến hành khởi nghĩa từng
phần tiến tới Tổng khởi nghĩa. Những quyết định đúng đắn của Hội nghị Quân sự cách
mạng Bắc Kỳ đánh dấu bước phát triển cao về tư duy quân sự của Đảng, đặc biệt là xác
định cụ thể và thiết lập về tổ chức sự lãnh đạo của Đảng trong Việt Nam Giải phóng quân.
Sự ra đời, phát triển của các lực lượng vũ trang cách mạng Việt Nam thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền 1930 - 1945 là sự hiện thực hóa những chủ trương, đường lối đúng
đắn của Đảng trong lãnh đạo, chỉ đạo toàn dân đứng lên đấu tranh giành lại nền độc lập, tự
chủ của dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, các lực lượng vũ trang cách mạng
Việt Nam đã phát triển mau chóng, từ khơng đến có, từ nhỏ đến lớn và dần khẳng định
được vị trí, vai trị quan trọng của mình trong tiến trình đấu tranh cách mạng của dân tộc ta
ở giai đoạn lịch sử lúc bấy giờ.

9


CHƯƠNG 2
VAI TRÒ CỦA ĐẢNG LÃNH ĐẠO NHÂN DÂN GIÀNH CHÍNH QUYỀN
GIAI ĐOẠN 1930-1945
2.1. Giai đoạn 1930-1939
2.1.1. Phong trào cách mạng 1930-1931 và phục hồi tổ chức Đảng 1932 - 1935
Năm 1930, tình hình kinh tế khủng hoảng trầm trọng của chủ nghĩa tư bản lan đến
nước ta. Chính phủ Đông Dương do bọn tư bản độc quyền chi phối áp dụng hàng loạt biện
pháp kinh tế - tài chính nhằm tăng cường bóc lột, cướp bóc tài sản của nhân dân Việt Nam
để chống đỡ với tai họa của cuộc khủng hoảng. Chúng đặt thêm nhiều thứ thuế mới và tăng
mức các thứ thuế đã có, đặc biệt là thuế thân. Khủng hoảng kinh tế, sự tăng cường bóc lột
thuộc địa: thuế cao, sưu dịch nặng, quan lại cường hào áp bức hà khắc, địa chủ bóc lột tơ

tức nặng và chính sách khủng bố trắng tràn lan sau khởi nghĩa Yên Bái, những sự kiện dồn
dập ấy đã tác động làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân ta với đế quốc Pháp và bọn phong
kiến tay sai phát triển đến mức gay gắt. Trong hồn cảnh khó khăn đó, Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, lãnh đạo thống nhất trong cả nước, cũng như ở từng địa phương đã làm cho
phong trào cách mạng phát triển mạnh mẽ.
Ngày Quốc tế Lao động 1-5-1930 có ý nghĩa quan trọng đặc biệt đối với Đảng Cộng
sản Việt Nam, một đảng mới thành lập và xây dựng được cơ sở trong cả nước. Trung ương
Đảng chủ trương kỷ niệm ngày Quốc tế Lao động trong năm đầu Đảng ra đời một cách
trọng thể bằng cách phát động trong cả nước một phong trào đấu tranh rộng lớn. Ngày đó,
từ thành thị đến nông thôn ở cả ba miền Nam, Trung, Bắc, đều treo cờ Đảng, rải truyền
đơn, tổ chức mít tinh, biểu tình. Ở Nghệ - Tĩnh phong trào đấu tranh cách mạng của nhân
dân được phát động một cách rầm rộ, địch phản ứng mạnh. Phong trào đấu tranh chính trị
ở đây có khả năng chuyển thành khởi nghĩa vũ trang nên Trung ương Đảng chủ trương kêu
gọi nhân dân cả nước biểu tình, bãi cơng, hưởng ứng phong trào đấu tranh của nhân dân
Nghệ - Tĩnh.
Từ cuối năm 1931, phong trào cách mạng Việt Nam tạm thời lắng xuống nhưng bọn
cầm quyền Pháp ở Đông Dương chưa hết lo sợ. Một mặt chúng ra sức khủng bố, đàn áp,
mặt khác đưa ra những thủ đoạn mị dân, chia rẽ hịng làm mai một ý chí cách mạng của
10


quần chúng. Năm 1932, Pháp bày trị "Hồng Thượng hồi loan" tuyên truyền rùm beng cái
gọi là "chương trình cải cách" của tên vua bù nhìn Bảo Đại được ni dưỡng ở Pháp và mới
lên ngôi. Bị sức ép mạnh mẽ của phong trào công nông và quần chúng cách mạng, đế quốc
Pháp buộc phải nới tay lôi kéo giai cấp tư sản Việt Nam và củng cố bộ máy tay sai đã có
phần bị lung lay trước uy lực của cách mạng, chúng tìm cách tăng thêm số cơng chức người
Việt Nam trong một số cơ quan, tăng lương cho bọn quan lại người bản xứ và lính khố
xanh, tạo ra những điều kiện dễ dàng hơn cho một số người Việt Nam muốn vào "Làng
Tây" nhằm đánh lạc hướng quần chúng thanh niên. Đế quốc Pháp ra sức lợi dụng các tôn
giáo để mê hoặc quần chúng.

Sự khủng bố của địch tạm thời gây ra sự căng thẳng và dao động trong một bộ phận
nhân dân, nhưng qua các việc làm của những người cộng sản, nhân dân càng hiểu thêm
chính nghĩa của sự nghiệp do những người cộng sản phát động, tổ chức và lãnh đạo. Năm
1932 việc làm đường xe lửa xuyên Việt Nam được tiếp tục để nối đoạn Nha Trang - Đà
Nẵng. Việc hình thành đường sắt làm tăng thêm lực lượng công nhân và viên chức xuất
thân từ nơng dân. Các cơng trình đường sắt cũng là môi trường thuận lợi để các đồng chí ta
lần mị gây dựng lại tổ chức đảng và cơ sở quần chúng.
Vào giữa năm 1935, thực dân Pháp và bọn quan lại phá vỡ các tổ chức cách mạng ở
Quảng Ngãi. Ngày 12-7-1935, địch mở phiên tòa xử án 44 đồng chí ta mà chúng gọi là vụ
án "tái tổ Đảng Cộng sản Đơng Dương". Ít lâu sau, bọn thống trị Pháp phát hiện sự khôi
phục Đảng ở Khánh Hòa mà tài liệu của mật thám Pháp tại Nha Trang gọi là "một vụ có
liên hệ với địa phương chấp ủy ở Quảng Ngãi nhằm tái tổ Đảng Cộng sản ở Khánh Hịa".
Các đồng chí lãnh đạo đều bị địch bắt. Năm 1935, nhiều đảng viên mãn hạn tù trở về, số
này bị địch theo dõi, giám sát nghiêm ngặt. Trong số mãn hạn tù, một số khá đơng người ở
các tỉnh ngồi lánh vào Khánh Hịa làm ăn trên các công trường làm đường xe lửa, trong
các cơ sở công nghiệp của bọn thực dân, ở các đồn điền Suối Dầu, Đồng Trăng, khu dinh
điền Hòa Huỳnh. Đồng thời, những người quê Khánh Hòa đi làm ăn các nơi giác ngộ cách
mạng, tham gia phong trào nhưng để thoát khỏi sự theo dõi của địch, nay trở về q cũ, tìm
cách liên hệ móc nối nhau để hoạt động.

11


2.1.2. Phong trào dân chủ 1936-1939
Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của
quần chúng, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một
số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực
lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm
trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng
đấu tranh công khai, hợp pháp. Căn cứ vào tình hình trên và tiếp thu đường lối của Quốc tế

Cộng sản, Đảng Cộng sản Đông Dương nhận định rằng kẻ thù cụ thể trước mắt của nhân
dân Đông Dương lúc này là bọn phản động Pháp cùng bè lũ tay sai khơng chịu thi hành
chính sách của Mặt trận Nhân dân Pháp tại các thuộc địa. Từ đó, quyết định tạm thời hoãn
các khẩu hiệu "Đánh đổ đế quốc Pháp, Đơng Dương hồn tồn độc lập", "Tịch thu ruộng
đất của địa chủ chia cho dân cày" và nêu những nhiệm vụ trước mắt của nhân dân Đông
Dương là: "Chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống bọn phản động thuộc địa và
tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hồ bình". Để thực hiện các nhiệm vụ đó, Đảng Cộng
sản Đơng Dương đề ra chủ trương lập Mặt trận Nhân dân phản đế Đông Dương vào mùa
hè năm 1936 (đến tháng 3 - 1938, đổi thành Mặt trận Dân chủ Đông Dương), nhằm tập hợp
mọi lực lượng yêu nước, dân chủ tiến bộ, đấu tranh chống chủ nghĩa phát xít và bảo vệ hồ
bình thế giới.
Về hình thức và phương pháp đấu tranh, những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp,
công khai và nửa công khai được triệt để lợi dụng để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tổ
chức, giáo dục và mở rộng phong trào đấu tranh của quần chúng. Từ giữa năm 1936, được
tin Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp sắp cử một phái đồn sang điều tra tình hình thuộc
địa ở Đông Dương, Đảng chủ trương phát động một phong trào đấu tranh công khai rộng
lớn của quần chúng; mở đầu là cuộc vận động lập Ủy ban trù bị Đông Dương đại hội, nhằm
thu thập nguyện vọng của quân chúng, tiến tới triệu tập Đông Dương đại hội. Hưởng ứng
chủ trương trên, các "Uỷ ban hành động" nối tiếp nhau ra đời ở nhiều địa phương trong cả
nước. Quần chúng khắp nơi sơi nổi tổ chức các cuộc mít tinh, hội họp, diễn thuyết để thu
thập "dân nguyện", đưa u sách địi Chính phủ Mặt trận Nhân dân Pháp phải trả tự do cho
tù chính trị, thi hành luật lao động ngày làm 8 giờ vào đảm bảo số ngày nghỉ có lương trong
12


năm cho công nhân, cải thiện đời sống của nhân dân. Đến đầu năm 1937, nhiều cuộc mít
tính, biểu tỉnh, đưa "dân nguyện"... đã diễn ra, trong đó cơng nhân và nông dân là lực lượng
đông đảo và hăng hái nhất. Ngoài các yêu sách chung, mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp cịn đưa
ra các u sách riêng của mình. Cơng nhân địi tự do lập nghiệp đồn, tăng lương, bớt giờ
làm, thi hành luật lao động, thực hiện bảo hiểm xã hội, chống đuổi thợ, chống đánh đập,

cúp phạt... Nơng dân địi chia lại ruộng cơng, chống sưu cao, thuế nặng, địi giảm tơ, giảm
tức... Cơng chức, học sinh, tiểu thương, tiểu chủ đòi đảm bảo quyền lợi lao động, ban bố
các quyền tự do dân chủ, miễn giảm các thứ thuế... Một phong trào đấu tranh của quần
chúng với các cuộc bãi cơng, bãi thị, bãi khoa, mít tinh, biểu tình đã nổ ra mạnh mẽ, nhất
là ở các thành phố, khu mỏ và đồn điền cao su trong Nam, ngồi Bắc. Đặc biệt là phong
trào cơng nhân với cuộc tổng bãi công của công nhân Công ti than Hơn Gai (11 - 1936) và
cuộc bãi công của công nhân xe lửa Trường Thi (Vinh, tháng 7 - 1937).
Cuộc vận động dân chủ 1936 - 1939 là một cao trào cách mạng dân tộc, dân chủ rộng
lớn. Trong khi lãnh đạo phong trào quần chúng, trình độ chính trị và công tác của cán bộ
và đảng viên đã được nâng cao một bước rõ rệt. Uy tín và ảnh hưởng của Đảng được mở
rộng và thấm sâu trong nhân dân, chủ nghĩa Mác - Lênin cùng như đường lối chính sách
của Đảng, của Quốc tế Cộng sản được phổ biến, tuyên truyền và giáo dục sâu rộng. Các
sách báo của Đảng và của Mặt trận Dân chủ đã có tác dụng lớn trong việc động viên, giáo
dục, tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh, đồng thời đập tan những luận điệu tuyên
truyền xuyên tạc và những hành động phá hoại của bè lũ phản động, làm cho chúng càng
bị cơ lập. Trong hồn cảnh đó, tổ chức của Đảng đã được củng cố và phát triển. Đội quân
chính trị quần chúng gồm hàng triệu người ở thành thị và nông thôn được Đảng tập hợp,
xây dựng, giáo duc, đồng thời cũng bồi dưỡng được một đội ngũ cán bộ cách mạng đông
đảo, dày dặn trong đấu tranh, có nhiều kinh nghiệm.
2.2 Phong trào dân tộc từ năm 1939 - 1945 đến cách mạng tháng 8 năm 1945
2.2.1. Bối cảnh lịch sử và chủ trương chiến lược mới của Đảng
Tháng 9-1939, Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Ở Đơng Dương, thực dân Pháp
thi hành chính sách thời chiến, phát xít hóa bộ máy thống trị, thẳng tay đàn áp phong trào
cách mạng; thực hiện chính sách “kinh tế chỉ huy” nhằm tăng cường vơ vét sức người, sức
13


của để phục vụ cuộc chiến tranh đế quốc. Tháng 9-1940, quân phiệt Nhật vào Đông Dương,
thực dân Pháp đầu hàng và câu kết với Nhật để thống trị và bóc lột nhân dân Đơng Dương,
làm cho nhân dân Đơng Dương phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”.

Từ giữa năm 1941, tình hình trong nước và thế giới có nhiều biến chuyển. Ngay khi
Chiến tranh thế giới thứ hai mới bùng nổ, Đảng kịp thời rút vào hoạt động bí mật, chuyển
trọng tâm công tác về nông thôn, đồng thời vẫn chú trọng các đô thị. Ngày 29-9-1939,
Trung ương Đảng gửi tồn Đảng một thơng báo quan trọng chỉ rõ: “Hồn cảnh Đơng Dương
sẽ tiến bước đến vấn đề dân tộc giải phóng”[5; tr.536]. Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương Đảng (11-1939) tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định) phân tích tình hình và chỉ rõ:
“Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đơng Dương khơng có con đường nào khác hơn là
con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng
để giành lấy giải phóng độc lập”. Hội nghị nhấn mạnh “chiến lược cách mệnh tư sản dân
quyền bây giờ cũng phải thay đổi ít nhiều cho hợp với tình thế mới”. “Đứng trên lập trường
giải phóng dân tộc, lấy quyền lợi dân tộc làm tối cao, tất cả mọi vấn đề của cuộc cách mệnh,
cả vấn đề điền địa cũng phải nhằm vào cái mục đích ấy mà giải quyết”[5; tr.536]. Khẩu
hiệu “cách mạng ruộng đất” phải tạm gác và thay bằng các khẩu hiệu chống địa tô cao,
chống cho vay lãi nặng, tịch thu ruộng đất của đế quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân
tộc chia cho dân cày. Hội nghị chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế
Đông Dương, thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở
Đông Dương nhằm đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai, giành lại độc lập hồn tồn cho các
dân tộc Đơng Dương. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11-1939 đã đáp
ứng yêu đúng cẩu khách quan của lịch sử, đưa nhân dân bước vào thời kỳ trực tiếp vận
động giải phóng dân tộc. Sau hơn một tháng sau khi Nhật vào Đông Dương, Hội nghị cán
bộ Trung ương họp tháng 11-1940 lập lại Ban Chấp hành Trung ương và cho rằng: “Cách
mạng phản đế và cách mạng thổ địa phải đồng thời tiến, không thể cái làm trước, cái làm
sau”. “Mặc dù lúc này khẩu hiệu cách mạng phản đế - cách mạng giải phóng dân tộc cao
hơn và thiết dụng hơn song nếu không làm được cách mạng thổ địa thì cách mạng phản đế
khó thành cơng. Tình thế hiện tại khơng thay đổi gì tính chất cơ bản của cuộc cách mạng
tư sản dân quyền Đông Dương”[6; tr.68]. Trung ương Đảng vẫn còn trăn trở, chưa thật dứt
14


khốt với chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu được đề ra tại Hội nghị

tháng 11-1939. Tháng 5-1941, Nguyễn Ái Quốc chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban chấp hành
Trung ương Đảng, “Vấn đề chính là nhận định cuộc cách mạng trước mắt của Việt Nam là
một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, lập Mặt trận Việt Minh, khẩu hiệu chính là: Đồn
kết toàn dân, chống Nhật, chống Pháp, tranh lại độc lập; hỗn cách mạng ruộng đất”. Trung
ương bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư. Hội nghị Trung ương nêu rõ những nội
dung quan trọng:
Thứ nhất, hết sức nhấn mạnh mâu thuẫn chủ yếu đòi hỏi phải được giải quyết cấp
bách là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc phát xít Pháp - Nhật, bởi vì dưới hai
tầng áp bức Nhật - Pháp, “quyền lợi tất cả các giai cấp bị cướp giật, vận mạng dân tộc nguy
vong không lúc nào bằng”[6; tr.112].
Thứ hai, khẳng định dứt khoát chủ trương “phải thay đổi chiến lược” và giải thích:
“Cuộc cách mạng ở Đơng Dương hiện tại khơng phải là một cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, cuộc cách mạng phải giải quyết hai vấn đề: phản đế và điền địa nữa, mà là một cuộc
cách mạng chỉ phải giải quyết một vấn đề cần kíp “dân tộc giải phóng”. Trung ương Đảng
khẳng định: “Chưa chủ trương làm cách mạng tư sản dân quyền mà chủ trương làm cách
mạng giải phóng dân tộc”[6; tr.118,119]. Để thực hiện nhiệm vụ đó, Hội nghị quyết định
tiếp tục tạm gác khẩu hiệu “đánh đổ địa chủ, chia ruộng đất cho dân cày”, thay bằng các
khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng
đất công cho công bằng, giảm tô, giảm tức. Hội nghị chỉ rõ: “Trong lúc này quyền lợi của
bộ phận, của giai cấp phải đặt dưới sự sinh tử, tồn vong của quốc gia, của dân tộc. Trong
lúc này nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, nếu khơng địi được độc lập
tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp
ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không địi lại được. Đó là
nhiệm vụ của Đảng ta trong vấn đề dân tộc”.
Thứ ba, giải quyết vấn đề dân tộc trong khuôn khổ từng nước ở Đông Dương, thi hành
chính sách “dân tộc tự quyết”. Sau khi đánh đuổi Pháp - Nhật, các dân tộc trên cõi Đông
Dương sẽ “tổ chức thành liên bang cộng hòa dân chủ hay đứng riêng thành lập một quốc
gia tùy ý”. “Sự tự do độc lập của các dân tộc sẽ được thừa nhận và coi trọng”[6; tr.113]. Từ
15



quan điểm đó, Hội nghị quyết định thành lập ở mỗi nước Đơng Dương một mặt trận riêng,
thực hiện đồn kết từng dân tộc, đồng thời đoàn kết ba dân tộc chống kẻ thù chung.
Thứ tư, tập hợp rộng rãi mọi lực lượng dân tộc, “không phân biệt thợ thuyền, dân cày,
phú nông, địa chủ, tư bản bản xứ, ai có lịng u nước thương nịi sẽ cùng nhau thống nhất
mặt trận, thu góp tồn lực đem tất cả ra giành quyền độc lập, tự do cho dân tộc”. Các tổ
chức quần chúng trong mặt trận Việt Minh đều mang tên “cứu quốc”. Trong việc xây dựng
các đoàn thể cứu quốc, “điều cốt yếu không phải những hội viên phải hiểu chủ nghĩa cộng
sản, mà điều cốt yếu hơn hết là họ có tinh thần cứu quốc và muốn tranh đấu cứu quốc”[6;
tr.114].
Thứ năm, chủ trương sau khi cách mạng thành công sẽ thành lập nước Việt Nam dân
chủ cộng hịa theo tinh thần tân dân chủ, một hình thức nhà nước “của chung cả toàn thể
dân tộc”. Hội nghị chỉ rõ, “khơng nên nói cơng nơng liên hiệp và lập chính quyền Xơ viếtmà
phải nói tồn thể nhân dân liên hiệp và thành lập chính phủ dân chủ cộng hòa”[6; tr.127].
Thứ sáu, Hội nghị xác định chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang là nhiệm vụ trung tâm của
Đảng và nhân dân; “phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, nhằm vào cơ hội thuận
tiện hơn cả mà đánh lại quân thù”. Trong những hoàn cảnh nhất định thì “với lực lượng sẵn
có, ta có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương cũng có thể
giành sự thắng lợi mà mở đường cho một cuộc tổng khởi nghĩa to lớn”[6; tr.132]. Hội nghị
còn xác định những điều kiện chủ quan, khách quan và dự đoán thời cơ tổng khởi nghĩa.
Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh chủ trương chiến
lược được đề ra từ Hội nghị tháng 11-1939, khắc phục triệt để những hạn chế của Luận
cương chính trị tháng 10-1930, khẳng định lại đường lối cách mạng giải phóng dân tộc
đúng đắn trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng và lý luận cách mạng giải phóng
dân tộc của Nguyễn Ái Quốc. Đó là ngọn cờ dẫn đường cho tồn dân Việt Nam đẩy mạnh
cơng cuộc chuẩn bị lực lượng, tiến lên trong sự nghiệp đánh Pháp, đuổi Nhật, giành độc lập
tự do.
2.2.2. Cao trào cách mạng và tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8/1945
Sau Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng (5-1941), Nguyễn Ái
Quốc gửi thư (6-6-1941) kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc quyền lợi dân tộc giải phóng

16


cao hơn hết thảy, chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng
cứu giống nịi ra khỏi nước sơi lửa nóng”[7; tr.230]. Ngày 25-10-1941, Việt Minh công bố
Tuyên ngôn, nêu rõ: “Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) ra đời”. Chương trình Việt
Minh đáp ứng nguyện vọng cứu nước của mọi giới đồng bào, nên phong trào Việt Minh
phát triển rất mạnh, mặc dù bị kẻ thù khủng bố gắt gao. Năm 1943, Đảng cơng bố bản Đề
cương về văn hóa Việt Nam, xác định văn hóa cũng là một trận địa cách mạng, chủ trương
xây dựng một nền văn hóa mới theo ba nguyên tắc: dân tộc, khoa học và đại chúng. Cuối
năm 1944, Hội Văn hóa cứu quốc Việt Nam ra đời, thu hút trí thức và các nhà hoạt động
văn hóa vào mặt trận đấu tranh giành độc lập, tự do. Đảng vận động và giúp đỡ một số sinh
viên, trí thức yêu nước thành lập Đảng Dân chủ Việt Nam (6-1944). Đảng này tham gia
Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động, góp phần mở rộng khối đại đoàn kết dân tộc.
Việt Minh là mặt trận đại đoàn kết dân tộc Việt Nam, là nơi tập hợp, giác ngộ và rèn luyện
lực lượng chính trị rộng lớn, một lực lượng cơ bản và có ý nghĩa quyết định trong tổng khởi
nghĩa giành chính quyền sau này. Cùng với việc đẩy mạnh xây dựng lực lượng chính trị,
Đảng chú trọng chuẩn bị lực lượng vũ trang và căn cứ địa cách mạng.
Tháng 10-1944, Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào tồn quốc, thơng báo chủ trương
của Đảng về việc triệu tập Đại hội đại biểu quốc dân. Bức thư nêu rõ: “Phe xâm lược gần
đến ngày bị tiêu diệt. Các đồng minh quốc sắp tranh được sự thắng lợi cuối cùng. Cơ hội
cho dân tộc ta giải phóng chỉ ở trong một năm hoặc năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta
phải làm nhanh!”. Cuối năm 1944, ở Cao-Bắc-Lạng, cấp ủy địa phương gấp rút chuẩn bị
phát động chiến tranh du kích trong phạm vi ba tỉnh. Lúc đó, Hồ Chí Minh từ Trung Quốc
trở lại Cao Bằng, kịp thời quyết định đình chỉ phát động chiến tranh du kích trên quy mơ
rộng lớn vì chưa đủ điều kiện. Tiếp đó, Hồ Chí Minh ra Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân, xác định nguyên tắc tổ chức, phương thức hoạt động và
phương châm tác chiến của lực lượng vũ trang. Bản Chỉ thị này có giá trị như một cương
lĩnh quân sự tóm tắt của Đảng. Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng
quân do Võ Nguyên Giáp tổ chức ra đời ở Cao Bằng. Ba ngày sau, đội đánh thắng liên tiếp

hai trận ở Phai Khắt (25-12-1944) và Nà Ngần (26-12-1944). Đội đẩy mạnh vũ trang tuyên
truyền, kết hợp chính trịvà quân sự, xây dựng cơ sở cách mạng, góp phần củng cố và mở
rộng khu căn cứ Cao-Bắc-Lạng.
17


Với sự chuẩn bị từ trước, ngày 9-3-1945, Nhật nổ súng đảo chính lật đổ Pháp, độc
chiếm Đơng Dương. Pháp chống cự yếu ớt rồi nhanh chóng đầu hàng. Sau khi đảo chính
thành cơng, Nhật thi hành một loạt chính sách nhằm củng cố quyền thống trị. Chính phủ
Bảo Đại-Trần Trọng Kim được Nhật dựng ra với cái bánh vẽ “độc lập” để phục vụ cho nền
thống trị của chủ nghĩa phát xít. Dự đốn đúng tình hình, ngay trước lúc Nhật nổ sung lật
đổ Pháp, Tổng Bí thư Trường Chinh triệu tập Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đảng
họp mở rộng tại làng Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) để phân tích tình hình và đề ra chủ
trương chiến lược mới. Ngày 12-3-1945, Ban thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị “Nhật,
Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta”, chỉ rõ bản chất hành động của Nhật, ngày 9-31945 là một cuộc đảo chính tranh giành lợi ích giữa Nhật và Pháp; xác định kẻ thù cụ thể,
trước mắt và duy nhất của nhân dân Đông Dương sau cuộc đảo chính là phát xít Nhật; thay
khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật-Pháp” bằng khẩu hiệu “đánh đuổi phát xít Nhật”, nêu
khẩu hiệu “thành lập chính quyền cách mạng của nhân dân Đơng Dương” để chống lại
chính phủ thân Nhật. Bản chỉ thị ngày 12-3-1945 thể hiện sự lãnh đạo kiên quyết, kịp thời
của Đảng. Đó là kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng và Việt Minh trong cao trào
chống Nhật cứu nước và có ý nghĩa quyết định đối với thắng lợi của cuộc Tổng khởi nghĩa
Tháng Tám năm 1945. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Việt Minh, từ giữa tháng 3-1945 trở
đi, cao trào kháng Nhật cứu nước diễn ra sôi nổi, mạnh mẽ.
Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, thời cơ giành chính quyền chỉ tồn tại trong thời
gian từ khi Nhật tuyên bố đầu hàng Đồng minh đến trước khi quân Đồng minh vào Đông
Dương, vào khoảng nửa cuối tháng Tám năm 1945. Trong tình hình đó, Ngày 12-8-1945,
Ủy ban lâm thời khu giải phóng hạ lệnh khởi nghĩa trong khu. Ngày 13-8-1945, Trung ương
Đảng và Tổng bộ Việt Minh thành lập Ủy ban Khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Ủy
ban Khởi nghĩa toàn quốc ban bố “Quân lệnh số 1”, phát đi lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn
quốc. Ngày 14 và 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở Tân Trào, do lãnh tụ Hồ

Chí Minh và Tổng Bí thư Trường Chinh chủ trì, tập trung phân tích tình hình và dự đốn:
“Qn Đồng minh sắp vào nước ta và đế quốc Pháp lăm le khôi phục lại địa vị cũ ở Đông
Dương”. Hội nghị quyết định phát động toàn dân nổi dậy tổng khởi nghĩa giành chính quyền
từ tay phát xít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Khẩu hiệu đấu tranh lúc
này là: Phản đối xâm lược! Hoàn toàn độc lập! Chính quyền nhân dân! Hội nghị xác định
18


ba nguyên tắc chỉ đạo khởi nghĩa là tập trung, thống nhất và kịp thời. Phương hướng hành
động trong tổng khởi nghĩa: phải đánh chiếm ngay những nơi chắc thắng, khơng kể thành
phố hay nơng thơn; qn sự và chính trị phải phối hợp; phải làm tan rã tinh thần quân địch
và dụ chúng hàng trước khi đánh. Phải chộp lấy những căn cứ chính (cả ở các đơ thị) trước
khi quân Đồng minh vào, thành lập ủy ban nhân dân ở những nơi đã giành được quyền làm
chủ… Hội nghị cũng quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách đối nội và đối
ngoại cần thi hành sau khi giành được chính quyền. Tiếp sau Hội nghị tồn quốc của Đảng,
ngày 16-8-1945, Đại hội quốc dân họp tại Tân Trào. Thực hiện Nghị quyết Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền của Quốc dân đại hội, nhân dân Việt Nam đã nhất tề nổi dậy với ý chí
dù có hy sinh đến đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn, cũng phải giành cho được
chính quyền trong tồn quốc. Cuộc khởi nghĩa đã nhanh chóng giành được thắng lợi, tiêu
biểu là cuộc khởi nghĩa ở Hà Nội (ngày 19 tháng 8), Huế (ngày 23 tháng 8), Sài Gòn (ngày
25 tháng 8). Chính quyền trong cả nước đã thuộc về nhân dân. Vua Bảo Đại xin thoái vị để
“được làm dân tự do của một nước độc lập”. Ngày 25 tháng 8 năm 1945, theo đề nghị của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Uỷ ban dân tộc giải phóng do Quốc dân Đại hội Tân Trào cử ra
được cải tổ thành Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Ngày 27
tháng 8 năm 1945, Chính phủ đã ra Lời tun cáo nói rõ: “ Chính phủ lâm thời… thật là
một Chính phủ quốc gia thống nhất, giữ trọng trách là chỉ đạo cho toàn thể, đợi ngày triệu
tập được Quốc hội để cử ra một Chính phủ cộng hịa chính thức”. Ngày 2 tháng 9 năm
1945, tại Quảng trường Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào Thủ đơ, Chủ tịch Hồ Chí
Minh thay mặt Chính phủ lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, tuyên bố với
quốc dân và thế giới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời. Bản Tun ngơn khẳng

định: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự
do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng
và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt
Nam được khẳng định trong Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh cơng bố ngày
2 tháng 9 năm 1945 đã đặt cơ sở pháp lý quan trọng, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa.

19


KẾT LUẬN
Đảng Cộng sản Việt Nam - chính đảng của giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trong
phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Ngay từ đầu, Đảng Cộng
sản Việt Nam đã sớm đứng ra nhận sứ mệnh lịch sử to lớn mà giai cấp và dân tộc giao phó:
Lãnh đạo các tầng lớp nhân dân Việt Nam đấu tranh chống thực dân, phong kiến, giành độc
lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân. Trước sự bế tắc về lý luận cũng như đường lối của các
lực lượng cách mạng Việt Nam trong những năm 20 của thế kỷ XX, sự thất bại không tránh
khỏi của các phong trào chống Pháp do các sĩ phu yêu nước và các nhà cách mạng có xu
hướng tư sản lúc đó, dân tộc ta đã hướng đến con đường cứu nước mới, khác về chất, con
đường mà các thế hệ người Việt Nam yêu nước đã đi. Chính lúc dân tộc Việt Nam cần một
đường lối chính trị đúng đắn, một đội tiên phong dẫn đường, một bộ tham mưu lãnh đạo thì
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã đáp ứng kịp
thời và đầy đủ những đòi hỏi bức thiết của lịch sử trong từng thời kỳ, đặc biệt là giai đoạn
1930 – 1945 khi tình hình thế giới và trong nước có nhiều thay đổi nhanh chóng và Đảng
cũng mới thành lập và cịn non trẻ. Tuy nhiên, với sự quyết tâm, cố gắng và sự lãnh đạo tài
tình, sáng suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng các vị lãnh đạo mà Đảng đã từng bước hồn
thiện, đóng vai trị trực tiếp và quan trọng trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
đất nước khỏi ách đô hộ của bọn thực dân, phát xít. Giữ vững vai trị lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam là vấn đề chiến lược có tính ngun tắc, bởi vậy, cần kế thừa và phát
triển những bài học kinh nghiệm trong lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh giải phóng dân tộc

và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng ln tiếp
tục tích cực tổng kết thực tiễn kết hợp với nghiên cứu lý luận để nhận thức ngày càng sâu
sắc hơn về vai trò lãnh đạo của Đảng, khơng ngừng bổ sung, hồn thiện và nâng cao hiệu
lực, cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, xã hội nói chung và các lực lượng vũ
trang nhân dân Việt Nam nói riêng trong thời kỳ mới.

20


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và Đào tạo, dự thảo giáo trình “Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam”.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Bách khoa toàn thư, vi.wikipedia.org.
/>%BA%A3n_Vi%E1%BB%87t_Nam#:~:text=Ng%C3%A0y%2024%20th%C3%A1ng%
202%20n%C4%83m,3%20th%C3%A1ng%202%20n%C4%83m%201930.
3. Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt Nam, Lịch sử Đảng bộ Quân đội nhân dân Việt
Nam, tập 1, Nxb QĐND, Hà Nội. 2009.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. 2002, tập 5.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. 2002, tập 6.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội. 2000, tập 7.
7. Hồ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 3
8. Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Lịch sử công tác Đảng, cơng tác
chính trị trong Qn đội nhân dân Việt Nam (1944 - 2000), Nxb QĐND, Hà Nội. 2002.
9. Võ Nguyên Giáp, Những chặng đường lịch sử, Nxb Văn học, Hà Nội, 1997.




×