Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

11216463 đoàn kim phương THML 15 đề số 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (431.82 KB, 16 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN

BÀI TẬP LỚN MÔN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Đề tài: Quan điểm của triết học Mác - Lênin về
bản chất con người và sự vận dụng quan điểm đó trong
nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên.
Họ và tên:

Đồn Kim Phương

Mã số:

36

Mã sinh viên:

11216463

Lớp tín chỉ:

Triết học Mác – Lênin 15

GV hướng dẫn:

TS. Lê Thị Hồng


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
B. NỘI DUNG ............................................................................................................... 1


I. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người .............................. 1
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội ................... 1
2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người ....................... 2
3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử .......................... 3
4. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội ........................................... 4
5. Ý nghĩa phương pháp luận ......................................................................................... 5
II. Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người trong
nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên ......................................................... 6
1. Thực trạng nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay ........................ 6
2. Vai trò của học tập, rèn luyện đối với sinh viên và với sự phát triển của xã hội....... 7
3. Giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên ....... 8
C. KẾT LUẬN ............................................................................................................ 12
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO


A. MỞ ĐẦU
Vấn đề con người luôn là chủ đề trung tâm của lịch sử triết học từ cổ đại đến hiện đại.
Trong lịch sử triết học trước Mác, các trường phái triết học phương Đơng và phương
Tây đều tìm cách lý giải vấn đề bản chất con người. Ví như đối với triết học Hy Lạp cổ
đại khởi điểm của tư duy triết học, bước đầu phân biệt con người với tự nhiên tuy nhiên
mới dừng lại ở phần bên ngoài về sự tồn tại của con người. Với triết học tôn giáo
phương Tây, triết học Tây Âu trung cổ người ta cho rằng con người do Thượng đế sinh
ra được an bài, sắp đặt. Cuộc sống này chỉ là tạm bợ con người ta mong ước rằng sẽ
hạnh phúc và hưởng lạc nơi thiên đường khi đã chết.
Đến thời triết học phương Tây phục hưng - cận đại đã có sự tiến bộ vượt bậc người ta
đề cao vai trị của trí tuệ, con người được xem như là một thực thể trí tuệ nhưng vẫn
cịn hạn chế khi chưa nhận thức rõ về bản chất sinh học và xã hội của con người. Đối
với Triết học cổ điển Đức quan điểm về con người phát triển theo chủ nghĩa duy tâm
và nổi tiếng nhất với quan điểm của Hêghen và Phoiơbắc. Hêghen cho rằng con người
là hiện thân của tinh thần tuyệt đối là chủ thể của của lịch sử, đồng thời con người cũng

là kết quả của quá trình phát triển lịch sử. Phoiơbắc thì khẳng định rằng con người do
sự vận động của thế giới tự nhiên tạo nên, là con người phi lịch sử, phi giai cấp và trừu
tượng.
Nhìn chung các quan niệm này mới chỉ có cái nhìn phiến diện, khái qt cịn nhiều hạn
chế. Tuy nhiên vẫn có những trường phái đạt được những thành tựu trong phân tích,
quan sát, hướng con người đến tự do. Tất cả là tiền đề cho việc hình thành tư tưởng về
con người của triết học Mác- Lênin
Do vậy, việc tìm hiểu và phân tích quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và bản
chất con người cũng như ý nghĩa lý luận và thực tiễn của quan điểm trên là vô cùng cần
thiết.
Đề tài: “Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người và sự vận dụng
quan điểm đó trong nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên” sẽ trả lời các câu
hỏi cơ bản của triết học Mác Lênin: Con người là gì? Bản tính, bản chất con người?
Mối quan hệ giữa con người và thế giới? Con người có thể làm gì để giải phóng mình,
đạt tới tự do? Từ đó, giúp nhận thức, hiểu rõ về con người cũng chính là bản thân ta,
cùng với đó, ta biết cách vận dụng những lý thuyết đó vào thực tế học tập, nghiên cứu
của sinh viên.


B. NỘI DUNG
I. Quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người
Triết học Mác đã kế thừa quan niệm về con người trong lịch sử triết học. Với triết
học Mác – Lênin, lần đầu tiên vấn đề con người được giải quyết một cách đúng đắn
trên quan điểm biên chứng duy vật. Theo Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội
ở trình độ cao nhất của giới tự nhiên và lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo
nên tất cả thành tựu của văn minh và văn hóa.
1. Con người là một thực thể thống nhất giữa mặt tự nhiên và mặt xã hội
Theo C.Mác, con người là một sinh vật có tính xã hội ở trình độ phát triển cao nhất
của giới tự nhiên và của lịch sử xã hội, là chủ thể của lịch sử, sáng tạo nên tất cả các
thành tựu của văn minh và văn hóa. Về phương diện sinh học, con người là một thực

thể sinh vật, là sản phẩm của giới tự nhiên, là một động vật xã hội. “Bản thân cái sự
kiện là con người từ loài động vật mà ra, cũng đã quyết định việc con người khơng bao
giờ hồn tồn thốt ly khỏi những đặc tính vốn có của con vật” . Điều đó có nghĩa rằng
con người cũng như mọi động vật khác phải tìm kiếm thức ăn, nước uống, phải “đấu
tranh sinh tồn” để ăn uống, sinh đẻ con cái, tồn tại và phát triển. Nhưng không được
tuyệt đối hóa điều đó. Khơng phải đặc tính sinh học, bản năng sinh học, sự sinh tồn thể
xác là cái duy nhất tạo nên bản chất của con người, mà con người còn là một thực thể
xã hội. Khi xem xét con người, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, không thể
tách rời hai phương diện sinh học và xã hội của con người thành những phương diện
biệt lập, duy nhất, quyết định phương diện kia.
Không chỉ là một thực thể sinh học, mà con người cũng còn là một bộ phận của giới
tự nhiên. “Giới tự nhiên…là thân thể vô cơ của con người, … đời sống thể xác và tinh
thần của con người gắn liền với giới tự nhiên”. Về phương diện thực thể sinh học, con
người còn phải phục tùng các quy luật của giới tự nhiên, các quy luật sinh học như di
truyền, tiến hóa sinh học và các q trình sinh học của giới tự nhiên. Con người là một
bộ phận đặc biệt, quan trọng của giới tự nhiên, nhưng lại có thể biến đổi giới tự nhiên
và chính bản thân mình, dựa trên các quy luật khách quan. Đây chính là điểm khác biệt
đặc biệt, rất quan trọng giữa con người và các thực thể sinh học khác. Về mặt thể xác,
con người sống bằng những sản phẩm tự nhiên, dù là dưới hình thức thực phẩm, nhiên
liệu, áo quần, nhà ở, v.v... Bằng hoạt động thực tiễn con người trở thành một bộ phận
của giới tự nhiên có quan hệ với giới tự nhiên, thống nhất với giới tự nhiên, bởi giới tự
nhiên là “thân thể vô cơ của con người”. Vì thế con người phải dựa vào giới tự nhiên,
gắn bó với giới tự nhiên, hịa hợp với giới tự nhiên mới có thể tồn tại và phát triển.
Quan điểm này là nền tảng lý luận và phương pháp luận rất quan trọng, có tính thời sự
trong bối cảnh khủng hoảng sinh thái và yêu cầu phát triển bền vững hiện nay.

1


Con người cịn là một thực thể xã hội có các hoạt động xã hội. Hoạt động xã hội

quan trọng nhất của con người là lao động sản xuất. “Người là giống vật duy nhất có
thể bằng lao động mà thốt khỏi trạng thái thuần túy là lồi vật” . Nếu con vật phải sống
dựa hoàn toàn vào các sản phẩm của tự nhiên, dựa vào bản năng thì con người lại sống
bằng lao động sản xuất, bằng việc cải tạo tự nhiên, sáng tạo ra các vật phẩm để thỏa
mãn nhu cầu của mình. Nhờ có lao động sản xuất mà con người về mặt sinh học có thể
trở thành thực thể xã hội, thành chủ thể của “lịch sử có tính tự nhiên”, có lý tính, có
“bản năng xã hội”. Lao động đã góp phần cải tạo bản năng sinh học của con người, làm
cho con người trở thành con người đúng nghĩa của nó. Lao động là điều kiện kiên quyết,
cần thiết và chủ yếu quyết định sự hình thành và phát triển của con người cả về phương
diện sinh học lẫn phương diện xã hội.
Trong hoạt động con người khơng chỉ có các quan hệ lẫn nhau trong sản xuất, mà
cịn có hàng loạt các quan hệ xã hội khác. Những quan hệ đó ngày càng phát triển phong
phú, đa dạng, thể hiện những tác động qua lại giữa họ với nhau. Xã hội, xét đến cùng,
là sản phẩm của sự tác động qua lại lẫn nhau giữa những con người. Tính xã hội của
con người chỉ có trong “xã hội lồi người”, con người khơng thể tách khỏi xã hội và đó
là điểm cơ bản làm cho con người khác với con vật. Hoạt động của con người gắn liền
với các quan hệ xã hội khơng chỉ phục vụ cho con người mà cịn cho xã hội, khác với
hoạt động của con vật chỉ phục vụ cho nhu cầu bản năng sinh học trực tiếp của nó. Hoạt
động và giao tiếp của con người đã sinh ra ý thức người. Tư duy, ý thức của con người
chỉ có thể phát triển trong lao động và giao tiếp xã hội với nhau. Cũng nhờ có lao động
và giao tiếp xã hội mà ngôn ngữ xuất hiện và phát triển. Ngôn ngữ và tư duy của con
người thể hiện tập trung và nổi trội tính xã hội của con người, là một trong những biểu
hiện rõ nhất phương diện con người là một thực thể xã hội. Chính vì vậy, khác với con
vật, con người chỉ có thể tồn tại và phát triển trong xã hội loài người.
2. Con người là sản phẩm của lịch sử và của chính bản thân con người
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin phê phán quan niệm của Phoiơbắc đã
xem xét con người tách khỏi điều kiện lịch sử cụ thể và hoạt động thực tiễn của họ,
xem xét con người chỉ như là đối tượng cảm tính, trừu tượng, khơng có hoạt động thực
tiễn. Phoiơbắc đã khơng nhìn thấy những quan hệ hiện thực, sống động giữa người với
người trong đời sống xã hội, đặc biệt là trong sản xuất. Do vậy, ơng đã tuyệt đối hóa

tình yêu giữa người với người. Hơn thế nữa, đó cũng khơng phải là tình u hiện thực
mà là tình u đã được ơng lý tưởng hóa. Phê phán quan niệm sai lầm của Phoiơbắc và
của các nhà tư tưởng khác về con người, kế thừa các quan niệm tiến bộ trong lịch sử tư
tưởng nhân loại và dựa vào những thành tựu của khoa học, chủ nghĩa Mác khẳng định
con người vừa là sản phẩm của sự phát triển lâu dài của giới tự nhiên, vừa là sản phẩm
của lịch sử xã hội lồi người và của chính bản thân con người. Mác đã khẳng định trong
2


tác phẩm Hệ tư tưởng Đức rằng, tiền đề của lý luận duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của các ông là những con người hiện thực đang hoạt động, lao động sản xuất và làm
ra lịch sử của chính mình, làm cho họ trở thành những con người như đang tồn tại. Cần
lưu ý rằng con người là sản phẩm của lịch sử và của bản thân con người, nhưng con
người, khác với con vật, không thụ động để lịch sử làm mình thay đổi, mà con người
còn là chủ thể của lịch sử.
3. Con người vừa là chủ thể của lịch sử, vừa là sản phẩm của lịch sử
Con người vừa là sản phẩm của lịch sử tự nhiên và lịch sử xã hội, nhưng đồng thời,
lại là chủ thể của lịch sử bởi lao động và sáng tạo là thuộc tính xã hội tối cao của con
người. Con người và động vật đều có lịch sử của mình, nhưng lịch sử con người khác
với lịch sử động vật. Lịch sử của động vật “là lịch sử nguồn gốc của chúng và sự phát
triển dần dần của chúng cho đến trạng thái hiện nay của chúng. Nhưng lịch sử ấy không
phải do chúng làm ra, và trong chừng mực mà chúng có tham dự vào việc làm ra lịch
sử ấy, thì điều đó diễn ra mà chúng không hề biết và không phải do ý muốn của chúng.
Ngược lại, con người càng cách xa con vật hiểu theo nghĩa hẹp của từ này bao nhiêu,
thì con người lại càng tự mình làm ra lịch sử của mình một cách có ý thức bấy nhiêu”.
Hoạt động lịch sử đầu tiên khiến con người tách khỏi con vật, có ý nghĩa sáng tạo chân
chính là hoạt động chế tạo công cụ lao động, hoạt động lao động sản xuất.
Nhờ chế tạo công cụ lao động mà con người tách khỏi loài vật, tách khỏi tự nhiên
trở thành chủ thể hoạt động thực tiễn xã hội. Chính ở thời điểm đó con người bắt đầu
làm ra lịch sử của mình. “Sáng tạo ra lịch sử” là bản chất của con người, nhưng con

người không thể sáng tạo ra lịch sử theo ý muốn tùy tiện của mình, mà là phải dựa vào
những điều kiện do quá khứ, do thế hệ trước để lại trong những hoàn cảnh mới. Con
người, một mặt, phải tiếp tục các hoạt động trên các tiền đề, điều kiện cũ của thế hệ
trước để lại, mặt khác, lại phải tiến hành các hoạt động mới của mình để cải biến những
điều kiện cũ. Lịch sử sản xuất ra con người như thế nào thì tương ứng, con người cũng
sáng tạo ra lịch sử như thế ấy. Từ khi con người tạo ra lịch sử cho đến nay con người
luôn là chủ thể của lịch sử, nhưng cũng luôn là sản phẩm của lịch sử.
Con người tồn tại và phát triển luôn luôn ở trong một hệ thống mơi trường xác định.
Đó là tồn bộ điều kiện tự nhiên và xã hội, cả điều kiện vật chất lẫn tinh thần, có quan
hệ trực tiếp hoặc gián tiếp đến đời sống của con người và xã hội. Đó là những điều kiện
cần thiết, tất yếu, khơng thể thiếu đối với sự tồn tại và phát triển của con người. Một
mặt, con người là một bộ phận của giới tự nhiên, để tồn tại và phát triển phải quan hệ
với giới tự nhiên, phải phụ thuộc vào giới tự nhiên, thu nhận và sử dụng các nguồn lực
của tự nhiên để cải biến chúng cho phù hợp với nhu cầu của chính mình. Mặt khác, là
một bộ phận của tự nhiên, con người cũng phải tuân theo các quy luật của tự nhiên,
3


tuân theo các quá trình tự nhiên như cơ học, vật lý, hóa học, đặc biệt là các q trình y,
sinh học, tâm sinh lý khác nhau. Về phương diện sinh thể hay sinh học, con người là
một tiểu vũ trụ có cấu trúc phức tạp, là một hệ thống mở, biến đổi và phát triển không
ngừng, thay đổi và thích nghi khá nhanh chóng so với các động vật khác trước những
biến đổi của mơi trường. Nó vừa tiếp nhận, thích nghi, hịa nhịp với giới tự nhiên, nhưng
cũng bằng cách đó cải biến giới tự nhiên để thích ứng và biến đổi chính mình.
Con người cũng tồn tại trong mơi trường xã hội. Chính nhờ mơi trường xã hội mà
con người trở thành một thực thể xã hội và mang bản chất xã hội. Con người là sản
phẩm của hồn cảnh, của mơi trường trong đó có mơi trường xã hội. Môi trường xã hội
cũng là điều kiện và tiền đề để con người có thể thực hiện quan hệ với giới tự nhiên ở
quy mô rộng lớn và hữu hiệu hơn. Trong thực chất thì mơi trường xã hội cũng là một
bộ phận của tự nhiên với những đặc thù của nó. So với mơi trường tự nhiên mơi trường

xã hội có ảnh hưởng trực tiếp và quyết định đến con người, sự tác động của môi trường
tự nhiên đến từng cá nhân con người thường phải thông qua môi trường xã hội và chịu
ảnh hưởng sâu sắc của các nhân tố xã hội. Môi trường xã hội cũng như mỗi cá nhân
con người thường xuyên phải có quan hê với mơi trường tự nhiên và tồn tại trong mối
quan hệ tác động qua lại, chi phối và quy định lẫn nhau.
Do sự phát triển của công nghiệp, của cách mạng khoa học - công nghệ, nhiều loại
mơi trường khác đã và đang được phát hiện. Đó là những môi trường, như môi trường
thông tin, kiến thức, mơi trường từ tính, mơi trường điện, mơi trường hấp dẫn, môi
trường sinh học, v.v.. Nhưng cần lưu ý rằng, có những mơi trường trong số đó mới
được phát hiện và đang được nghiên cứu, nên cịn có nhiều ý kiến, quan niêm khác
nhau, thậm chí đối lập nhau. Mơi trường sinh học, môi trường cậ ̣ n tâm lý, môi trường
tương tác yếu, đang được nghiên cứu trong khoa học tự nhiên là những môi trường như
vậy. Tuy nhiên, dù chưa được nhận thức đầy đủ, mới được phát hiện hay cịn có những
ý kiến, quan niêm khác nhau, thì chúng đều hoặc là ̣ thuộc về mơi trường tự nhiên, hoặc
là thuộc về mơi trường xã hội. Tính chất, phạm vi, vai trò và tác động của chúng đến
con người là khác nhau, khơng giống hồn tồn như môi trường tự nhiên và môi trường
xã hội. Chúng là những hiện tượng, quá trình cụ thể của tự nhiên hoặc xã hội, có tác
động, ảnh hưởng ở một khía cạnh hẹp, cụ thể và xác định ở phương diện tự nhiên hoặc
xã hội.
4. Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội
Con người vượt cả ở cả ba phương diện khác nhau: quan hệ với tự nhiên, quan hệ
với cộng đồng (xã hội) và quan hệ với chính bản thân mình. Cả ba mối quan hệ ấy suy
đến cùng đều mang tính xã hội, trong đó quan hệ xã hội giữa người với người là quan

4


hệ bản chất, bao trùm tất cả các mối quan hệ khác và mọi hoạt động trong chừng mực
liên quan đến con người.
Để nhấn mạnh bản chất con người, C.Mác đã nêu lên luận đề nổi tiếng trong Luận

cương về Phoiơbắc : “Bản chất con người không phải là một cái trừu tượng cố hữu của
cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những
quan hệ xã hội”. Luận đề khẳng định rằng, khơng có con người trừu tượng thốt ly mọi
điều kiện, hồn cảnh lịch sử xã hội. Con người ln luôn cụ thể, xác định sống trong
một điều kiện lịch sử cụ thể nhất định, một thời đại nhất định. Trong điều kiện lịch sử
đó, bằng mọi hoạt động thực tiễn của mình, con người tạo ra những giá trị vật chất và
tinh thần để tồn tại và phát triển cả thể lực và tư duy trí tuệ. Chỉ trong toàn bộ các mối
quan hệ xã hội con người mới bộc lộ tồn bộ bản chất xã hội của mình.
Điều cần lưu ý là luận đề trên khẳng định bản chất xã hội khơng có nghĩa là phủ
nhận mặt tự nhiên trong đời sống con người; trái lại, điều đó muốn nhấn mạnh sự phân
biệt giữa con người và thế giới động vật trước hết là ở bản chất xã hội và đấy cũng là
để khắc phục sự thiếu sót của các nhà triết học trước Mác không thấy được bản chất xã
hội của con người. Mặt khác, cái bản chất với ý nghĩa là cái phổ biến, cái mang tính
quy luật chứ khơng thể là duy cái duy nhất. Do đó cần phải thấy được các biểu hiện
riêng biệt, phong phú và đa dạng của mỗi cá nhân về cả phong cách, nhu cầu và lợi ích
trong cộng đồng xã hội.
5. Ý nghĩa phương pháp luận
Sự hình thành và phát triển của nhân cách con người chịu ảnh hưởng bởi các điều
kiện kinh tế - xã hội, môi trường mà một người đang sống cũng như bối cảnh lịch sử,
không gian và thời gian là quy định then chốt ảnh hưởng đến bản chất, nhân cách của
con người ấy. Chính vì vậy trong q trình tồn tại, các mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân
và xã hội phải được kết hợp hài hịa trong mơi trường sống. Bên cạnh đó, nhân cách
con người cịn là tổng hịa của các yếu tố để hình thành giá trị mới, đó là sự tổng hòa
giữa cả tri thức và đạo đức. Như Hồ chủ tịch đã dạy: “Có tài mà khơng có đức là người
vơ dụng, có đức mà khơng có tài thì làm việc gì cũng khó”, chỉ một trong hai phẩm đức
trên khơng thể thành cơng và có giá trị với bản thân và cộng đồng. Tài và đức là hai
yếu tố tuy khác nhau nhưng có thể hịa tan vào nhau để trọn vẹn một cá thể con người,
chính vì vậy nền giáo dục tồn diện là một phần quan trong trong việc hình thành nhân
cách con người.
Con người cịn chịu sự ảnh hưởng bởi văn hóa - xã hội, mỗi cá thể sống ở nền văn

hóa nào cũng đều mang đậm những tính chất, những phong tục, tập quán, lối suy nghĩ
của nền văn hóa đó. Mà văn hóa được định hình từ kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội ở
thời đại, khơng gian, thời gian mà chúng ta sống, chính vì vậy trong q trình chúng ta

5


hình thành những yếu tố thuộc về nhân cách hay bản chất thì các yếu tố tri thức, niềm
tin, lý tưởng, pháp luật, thẩm mỹ và đạo đức phải được xác lập dựa trên các mối quan
hệ xã hội, nền văn hóa văn minh hiện hành để hình thành và định hình bản thân chúng
ta. Con người “là một thực thể xã hội” nhưng nhân cách và bản chất xã hội không phải
là nhân cách riêng của mỗi cá nhân.
II. Vận dụng quan điểm của triết học Mác - Lênin về bản chất con người trong
nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên
1. Thực trạng nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay
1.1. Điểm mạnh
Trước hết, chúng ta có thể khẳng định sinh viên sinh viên hiện nay rất năng động,
nhạy bén với cuộc sống và cơng việc, bên cạnh đó họ tiếp thu được nhiều phẩm chất
tốt đẹp: chăm chỉ, kiên chì và nỗ lực. “Họ có nhiều điều kiện để phát chuyển khả năng
sáng tạo, do có đầy đủ thơng tin, cuộc sống chắt lược tốt hơn, và chủ động hơn trong
việc lựa chọn nghề nghiệp tốt cả những cái đó làm họ năng động hơn”, Giáo sư Bạch
Hưng Khang, Viện trưởng viện công nghệ thông tin khẳng định trên báo Hoa Học Trị.
“Số đơng đều có kiến thức sâu rộng về nhiều mặt, ham hiểu tìm tịi, chiếm lĩnh những
lĩnh vực mới lạ”, phát biểu của NSND Chu Thúy Quỳnh trên báo Hoa Học Trị. Vì thế
những huy chương vàng, huy chương bạc quốc tế các mơn văn hố cũng như thể thao
đều lọt vào tay đội tuyển Việt Nam. Chúng ta không thể quên các thế hệ học sinh sinh
viên đạt giải quốc tế các mơn: Tốn, Vật lý, hố học… mà gần đây nhất là gương mặt
đội tuyển toán Việt Nam với năm huy chương bạc, một huy chương vàng đã làm dạng
danh trí tuệ Việt Nam.
Sinh viên Việt Nam du học ngày càng nhiều ở rất nhiều nước trên thế giới đã mang

về cho đất nước những tiến sĩ trẻ nắm vững kiến thức chuyên ngành đảm nhiệm phát
chuyển những ngành mũi nhọn nhằm đẩy mạnh sự phát chuyển kinh tế, khoa học, kỹ
thuật.
Đối với sinh viên hiện nay, rất nhiều người vừa đi học vừa đi làm là rất phổ biến,
điều đó chứng tỏ sinh viên Việt Nam rất cần cù, chịu khó và đặc biệt là họ có thể tự lập
sinh viên làm việc ở khắp mọi nơi làm đủ mọi nghề lương thiện giúp họ tự chu cấp tiền
học hành và cuộc sống bản thân, nổi bật nhất là sinh viên từ nông thôn ra thành thị
những cơng việc họ làm có thể là gia sư, tiếp thị… đã chứng tỏ sinh viên ngày nay đã
nhận thức “lao động là vinh quang”. Ngoài ra trước đây sinh viên, sinh viên ra trường
được Nhà nước xếp việc làm thì ngày nay, sinh viên ra trường phải tự tìm việc, điều
này có nhiều thuận lợi vì họ có cơ hội lựa chọn được cơng việc phù hợp, rất nhiều sinh
viên ngay từ khi ngồi trên ghế nhà trường đã được nhiều Công ty đến mời đi làm việc.

6


1.2. Điểm yếu
“Số sinh viên thực sự chăm học, tự rèn luyện tu dưỡng thì khơng nhiều, có trường
chỉ dưới 10%. Đa số sinh viên mờ nhạt về lý tưởng, khơng có sự phấn đấu.” (Giáo sư
Phạm Minh Hạc, ngun Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)
Thứ nhất vẫn còn một bộ phận lớn sinh viên trước khi lên lớp khơng đọc trước giáo
trình, mặc dù khi giáo viên bắt đầu giảng dạy một học phần mới ngoài việc giới thiệu
đề cương chương trình, hình thức thi, thời gian thi, chúng tơi cịn giới thiệu rất nhiều
loại tài liệu: tài liệu chính, tài liệu tham khảo và đơi khi còn giới thiệu cả kinh nghiệm
và phương pháp học tập của học phần đó cho học sinh - sinh viên.
Thứ hai việc học bài cũ thì đại đa số sinh viên có học nhưng khơng tn theo một
quy luật nào cả, thời gian ơn bài cũ cũng rất ít, ngẫu hứng, chưa thật sự tập trung và
khơng có phương pháp học cụ thể. Môn chuyên ngành (nhiều tiết, thi tốt nghiệp) thì
học nhiều hơn, cịn các mơn cơ sở ngành thì học cho qua khơng thi lại là được. Việc
giải bài tập thì sách bài tập có ở thư viện, hoặc mượn của thầy cơ giáo phơ tơ có thể có

đáp số, hoặc đáp án của các anh chị khố trước thì phơ tơ mỗi người một bản khơng
cần phải giải nữa. Khi giáo viên kiểm tra bài tập, nhiều sinh viên còn xung phong lên
bảng giải (nhưng thực chất là chép lại), và cũng khơng biết mình chép đúng hay sai.
Thứ ba học đã khơng có sự chuẩn bị kỹ càng thi lại càng tệ hơn. Đến tận ngày thi,
ngày kiểm tra nhiều sinh viên học vội, học vàng rồi rủ nhau đến các điểm phơ tơ tìm
phao cứu sinh. Số lượng học sinh sinh viên đến thư viện hoặc học tổ, học nhóm thì đếm
trên đầu ngón tay. Hầu hết số đến thư viện thường là những sinh viên học chăm chỉ,
chịu khó.

2. Vai trị của học tập, rèn luyện đối với sinh viên và với sự phát triển của xã
hội
Học tập và rèn luyện giúp cá nhân con người hòa nhập với cộng đồng và giao lưu
với xã hội. Quá trình học tập, nghiên cứu và rèn luyện không chỉ mang lại cho con
người tri thức, kĩ năng và kinh nghiệm mà còn rèn giũa nhân cách, phẩm chất đạo đức
con người. Tâm sự của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc nói chuyện với cán bộ năm
1961: “Tôi năm nay 71 tuổi, ngày nào cũng phải học… khơng học thì khơng theo kịp,
cơng việc nó sẽ gạt mình lại phía sau…” cho ta thấy được tầm quan trọng của việc
nghiên cứu, học tập và rèn luyện trong một xã hội văn minh, tiên tiến.
Thế nhưng thực trạng học tập và rèn luyện của sinh viên hiện nay, bên cạnh những
mặt tích cực, vẫn cịn tồn đọng những thiếu sót, khiếm khuyết chưa được kịp thời giải
quyết, thậm chí khơng được coi trọng. Do đó, cần thiết đề xuất những giải pháp nhằm
nâng cao chất lượng nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên. Vận dụng những

7


quan điểm của triết học Mác Lênin về bản chất con người sẽ giúp ta có hình dung bao
qt và định hướng đúng đắn về các giải pháp cho vấn đề của sinh viên.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng nghiên cứu, học tập và rèn luyện của sinh viên
3.1. Đối với sinh viên

3.1.1. Xác định đúng mục tiêu, động cơ học tập và rèn luyện
Sinh viên ngay từ đầu sẽ phải xác định cho mình mục đích rõ ràng là học để có tri
thức, kĩ năng phục vụ cho hoạt động nghề nghiệp của mình sau này. Từ nhận thức như
vậy người học mới có tinh thần tích cực đối với hoạt động tự học và do đó, mới có ý
thức thường xuyên nâng cao năng lực học tập của bản thân.
3.1.2. Xây dựng kế hoạch nghiên cứu, học tập và rèn luyện phù hợp
Đối với bất kì ai muốn việc học thật sự có hiệu quả thì mục đích, nhiệm vụ và kế
hoạch học tập phải được xây dựng cụ thể, rõ ràng. Trong đó kế hoạch phải được xác
định với tính hướng đích cao. Tức là kế hoạch ngắn hạn, dài hơi thậm chí từng mơn,
từng phần phải được tạo lập thật rõ ràng, nhất quán cho từng thời điểm từng giai đoạn
cụ thể sao cho phù hợp với điều kiện hồn cảnh của mình. Vấn đề kế tiếp là phải chọn
đúng trọng tâm, cái gì là cốt lõi là quan trọng để ưu tiên tác động trực tiếp và dành thời
gian cơng sức cho nó. Nếu việc học dàn trải thiếu tập trung thì chắc chắn hiệu quả sẽ
không cao. Sau khi đã xác định được trọng tâm, phải sắp xếp các phần việc một cách
hợp lí, logic về cả nội dung lẫn thời gian, đặc biệt cần tập trung hoàn thành dứt điểm
từng phần, từng hạng mục theo thứ tự được thể hiện chi tiết trong kế hoạch. Điều đó sẽ
giúp q trình tiến hành việc học tập và rèn luyện được trôi chảy thuận lợi.
3.1.3. Phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông tin phục vụ hoạt động học
tập, nghiên cứu của sinh viên
Trong thời đại hiện nay, với sự bùng nổ thơng tin trên tồn cầu diễn ra nhanh chóng,
hoạt động học tập của sinh viên khơng chỉ bó hẹp trong phạm vi nhà trường mà còn mở
rộng ra nhiều mơi trường xã hội khác nhau. Vì vậy, thơng tin là một trong những yếu
tố cơ bản, cần thiết để sinh viên bổ sung và hoàn thiện vốn tri thức nghề nghiệp cho
bản thân. Sau khi thu nhận thông tin, sinh viên phải biết cách xử lý, chọn lọc, phân loại
thông tin nhằm phục vụ cho chuyên môn, nghiên cứu, rèn luyện nghiệp vụ nghề nghiệp,
làm giàu vốn tri thức cho bản thân. Phát huy năng lực tiếp nhận, xử lý, tổng hợp thông
tin phục vụ hoạt động học tập, rèn luyện của sinh viên góp phần nâng cao tính tích cực,
chủ động học tập và nghiên cứu khoa học cho bản thân sinh viên.

8



3.1.4. Xây dựng thói quen học tập và rèn luyện tích cực, nắm vững kiến thức chun
mơn và phương pháp học tập khoa học trong sinh viên
Việc hình thành thói quen học tập tích cực là rất quan trọng, nó giúp cho quá trình
học tập diễn ra liên tục và lâu dài. Để có được một thói quen học tập tốt, sinh viên cần:
học có chọn lọc, học có đam mê và học có q trình. Để nắm vững tri thức chuyên
môn,sinh viên phải vận dụng sáng tạo các nguyên tắc, quan điểm, phương pháp luận
biện chứng duy vật vào nắm bắt hệ thống khái niệm, đồng thời phải có những hiểu biết
về các môn khoa học cơ bản, liên ngành, kiến thức về đời sống xã hội. Sinh viên cần
nhạy bén, linh hoạt khi lựa chọn phương pháp học tập, tích lũy chun mơn phù hợp
với khả năng của bản thân.
3.1.5. Nâng cao năng lực trí tuệ và tư duy, tự học, tự nghiên cứu
Hình thành thói quen tự học, tự nghiên cứu: Bước ra khỏi bậc học Phổ thông và lên
bậc học Cao đẳng, Đại học sinh viên phải tiếp xúc với phương pháp học mới và tự hình
thành cho mình thói quen tự học, tự nghiên cứu. Việc hình thành thói quen học tập tích
cực là rất quan trọng, nó giúp cho q trình học tập, đặc biệt là tự học diễn ra liên tục
và lâu dài. Để có được một thói quen tự học tốt, sinh viên cần: học có chọn lọc, học có
đam mê và học có q trình. Kho tàng kiến thức là vơ tận, nguồn tài liệu tham khảo cho
môn học cũng rất phong phú, sinh viên khi đọc tài liệu phải biết chọn lọc, cần tìm hiểu
kĩ, lựa chọn đúng những tri thức và kỹ năng cần được trang bị, tránh cách học dàn trải,
hời hợt, cái gì cũng biết nhưng chỉ lống thống, khơng hiểu rõ bản chất của vấn đề.
3.1.6. Nâng cao khả năng học tập và rèn luyện thông qua khả năng tiếp thu bài giảng
Để có thể tiếp thu bài giảng tốt, sinh viên cần đi học đầy đủ, ghi chép cẩn thận.
Trong giờ học cần cố gắng tập trung và tích cực tương tác với giảng viên, ln đặt câu
hỏi khi có thắc mắc. Điều này sẽ giúp sinh viên ghi nhớ lâu hơn, góp phần kích thích
tư duy, đặc biệt là tư duy sáng tạo. Năng lực học tập vì thế sẽ dần được nâng cao thông
qua sự phát triển của tư duy, của khả năng tiếp thu.
Bên cạnh đó, sinh viên cần được trang bị và thực hành tốt các phương pháp học tập
như: phương pháp tìm tài liệu, đọc tài liệu, nghe giảng, sơ đồ hóa kiến thức, học với

giáo trình, học với phương tiện dạy học, học thơng qua xêmina, học nhóm, học thông
qua nghiên cứu khoa học, học khi đi thực tập, thực tế; ...
Cùng với đó là các phương pháp ghi nhớ thông tin, diễn đạt ý kiến, viết các đoạn
văn khoa học; các phương pháp tự kiểm tra, đánh giá; ... Đồng thời, sinh viên cũng cần
được trang bị và thực hiện tốt các kỹ năng mềm như kỹ năng quản lý thời gian, kỹ năng
làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng giải quyết vấn đề,...

9


3.2. Đối với Nhà trường và các tổ chức đoàn thể
3.2.1. Phát triển đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển đào tạo
trên cả hai phương diện quy mô và chất lượng. Theo mục tiêu phát triển hệ thống các
trường cao đẳng, đại học, các trung tâm đào tạo kỹ thuật của đất nước, nhu cầu đòi hỏi
phải tăng cường đào tạo đội ngũ giảng viên là rất lớn.
Có kế hoạch, chương trình thường xuyên thực hiện bồi dưỡng, đào tạo nâng cao
trình độ chun mơn,... trên cơ sở đó để thực hiện hiệu quả việc đổi mới nội dung,
phương pháp đào tạo nguồn nhân lực. Mỗi giảng viên phải tự trao dồi, tích lũy kiến
thức, nâng cao trình độ cả bề rộng lẫn chiều sâu, có cách thức tổ chức dạy học khách
quan, khoa học.
Về phía các khoa, phải thường xuyên trao đổi chuyên môn, sinh hoạt chuyên đề
khoa học để nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ cho các giảng viên của khoa
mình. Tổ chức các cuộc hội thảo khoa học, những buổi tọa đàm, trao đổi xoay quanh
vấn đề nâng cao năng lực tự học của sinh viên, qua đó giúp sinh viên có thể học hỏi
được những phương pháp và kinh nghiệm để vận dụng vào q trình tự học của bản
thân.
3.2.2. Hồn thiện mơi trường học tập, tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên
Thường xuyên nắm bắt ý kiến phản hồi, đóng góp từ phía sinh viên để hồn thiện
quy chế quản lý. Bên cạnh đó các tổ chức Đồn, Hội sinh viên cần triển khai các hoạt

động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao lành mạnh thu hút đông đảo sinh viên tham
gia tích cực, nhằm rèn luyện sức khỏe, giáo dục đạo đức, lý tưởng sống cao đẹp cho
mỗi sinh viên.
Cần thường xuyên mở rộng cơ chế, cách thức tiếp xúc, gặp gỡ lấy ý kiến sinh viên
về những vấn đề liên quan đến học tập như khung chương trình, chất lượng dạy học,
kiểm tra đánh giá của cán bộ giảng viên. Bên cạnh đó, việc đánh giá, xếp loại rèn luyện
cũng như chính sách học bổng, khen thưởng và kỷ luật đối với sinh viên trong từng học
kỳ, từng năm học hay cả quá trình đào tạo phải đảm bảo nguyên tắc khách quan, công
bằng, hiệu quả, tạo động lực thúc đầy phong trào thi đua học tập trong sinh viên.
3.2.3. Tăng cường cơ sở vật chất trường học
Cơ sở vật chất ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dạy và học. Thông qua điều kiện
vật chất, giảng viên có thể đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy và
học. Cải tạo, nâng cấp, trang bị thêm những phương tiện kỹ thuật hiện đại phục vụ cho
quá trình dạy học là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Cơ sở vật chất hiện đại, thuận lợi phù

10


hợp với yêu cầy dạy học không chỉ thuận lợi cho việc nắm vững tri thức khoa học mà
còn rèn luyện cho sinh viên kỹ năng và phương pháp sử dụng có hiệu quả các phương
tiện kỹ thuật đó vào nghiên cứu và phát triển chuyên môn, nghề nghiệp, nâng cao chất
lượng công việc sau này.
Bảo đảm tốt nhất về cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động học tập của sinh viên,
trang bị thêm nguồn tài liệu tham khảo cho mơn học, có thêm nhiều máy tính để cho
sinh viên có thể truy cập và tìm tài liệu để tự nghiên cứu cho môn học tại thư viện. Tăng
cường hỗ trợ sinh viên về mặt tài liệu học tập bằng cách tiếp tục phát triển hệ thống thư
viện đọc và thư viện online với nguồn tài liệu phong phú và cập nhật, khai thác thuận
tiện và dễ dàng, đáp ứng được nhu cầu học tập của sinh viên.

11



C. KẾT LUẬN
Quan điểm triết học Mác-Lênin về con người và bản chất con người đã khẳng định
rằng con người hiện thực là sự thống nhất giữa yếu tố tự nhiên và xã hội. Trong tính
hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hòa những quan hệ xã hội. Con người vừa
là chủ thể vừa là sản phẩm của lịch sử. Để phát triển bản chất con người theo hướng
tích cực, cần phải làm cho hồn cảnh ngày càng mang tính người nhiều hơn. Hồn cảnh
đó chính là tồn bộ mơi trường tự nhiên và xã hội tác động đến con người theo khuynh
hướng phát triển nhằm đạt tới các giá trị có tính mục đích, tự giác, có ý nghĩa định
hướng giáo dục.
Có thể khẳng định, quan điểm của Mác về bản chất con người đến nay vẫn cịn
ngun giá trị lý luận và thực tiễn, đó là những bài học hết sức quý báu trong việc phát
huy nguồn lực con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, góp phần sớm
hiện thực hóa mục tiêu “đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo
định hướng xã hội chủ nghĩa”.
Đặc biệt, vận dụng quan điểm đúng đắn của triết học Mác Lênin về bản chất con
người còn giúp cho học sinh, sinh viên vạch ra những định hướng đúng đắn và phù hợp
trong quá trình cải thiện chất lượng nghiên cứu, học tập và rèn luyện; từ đó tạo đà cho
sự phát triển nghề nghiệp và cuộc sống trong tương lai, góp phần vào cơng cuộc xây
dựng và phát triển đất nước Việt Nam ngày càng ấm no, hạnh phúc.

12


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph.Ăngghen(1994), Toàn tập, t.20. Sdd.
2. C.Mác và Ph.Ăngghen(1995). Tồn tập, t.3, Nxb. Chính trị QGHN
3. C.Mác và Ph.Ăng-ghen toàn tập: Tập 3 (1845-1847), Hội đồng xuất bản C.Mác và
Ph.Ăng-ghen tồn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995.

4. Tư tưởng Các Mác về con người, giải phóng con người và phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam.
5. GS.TS. Phạm Văn Đức, Giáo trình Triết học Mác - Lênin, Nhà Xuất Bản Chính Trị
Quốc Gia Sự Thật, 2021.
6. Giáo trình Triết học Mác-Lênin (Dùng trong các trường đại học, cao đẳng) - Bộ giáo
dục và đào tạo, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.
7. Con người Việt Nam và công cuộc đổi mới kỷ yếu hội nghị khoa học từ 28 - 29
/7/1993. Tại TPHCM
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận - thực tiễn
qua 20 năm đổi mới (1986 - 2006), tr.78-79.
9. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật,
Hà Nội, 2021, t. I, tr. 111 – 112
10. Nghị quyết số 14/2005/NQ-CP đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục đại học Việt
Nam giai đoạn 2006 - 2020 do Chính phủ ban hành
11. Ths. Phạm Thị Huyền, Ths. Võ Thị Thanh Nữ - Giảng viên Khoa cơ bản – Trường
Cao đẳng Cộng đồng Cà Mau, Giải pháp nâng cao năng lực tự học, tự nghiên cứu trong
sinh viên tỉnh Cà Mau, Trung tâm Thông tin và Ứng dụng Khoa học Công nghệ tỉnh
Cà Mau, 2021



×