Tải bản đầy đủ (.pdf) (33 trang)

Kiểm toán nội bộ công cụ hữu hiệu của hoạt động kiểm soát

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (319.48 KB, 33 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong giai đoạn mở cửa hội nhập với các nước trên thế giới
và trong khu vực, thêm vào đó nhiều vấn đề chưa được giải quyết đồng bộ như
các yếu tố về pháp luật, về luật định, về các chính sách kinh tế -xã hội… Do đó,
việc điều hành quản lý hoạt động của các doanh nghiệp hiện nay ít nhiều bị ảnh
hưởng. Thực tế xảy ra ở nhiều doanh nghiệp có những biểu hiện không đồng bộ,
khổn thống nhất, cácvụ việc vi phạm quy chế, nghiệp vụ vẫn lặp đi lặp lại chưa
được giải quyết triệt để. Muốn uốn nắn và phát hiện sai sót kịp thời nhằm nâng
cao hiệu quả kkinhdoanh của doanh nghiệp địi hỏi phải có một bộ phận kiểm
tốn nội bộ hoạt động một cách có hiệu quả tại mỗi doanh nghiệp.
Việc hình thành một tổ chức kiểm tốn nội bộ trong doanh nghiệp sẽ làm
chi phí quản lý tăng lên trong khi các doanh nghiệp chưa thấy được các lợi ích
mang lợi từ kiểm tốn nội bộ. Đây là một trong những lý do làm cho các doanh
nghiệp nhất là các doanh nghiệp có quy mơ hoạt động nhỏ chưa tổ chức bộ phận
kiểm toán. Các doanh nghiệp này thường kết hợp giữa bộ phận kế toán với bộ
phận kiểm toán. Điều này trái với nguyên tắc “bất kiêm nhiệm” và khơng đúng
với tính chất, nội dung của kiểm tốn nội bộ. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp
hiện nay đã có bộ phận kiểm tốn nội bộ nhưng hoạt động cịn yếu kém, chỉ
mang tính hình thức nên tác dụng giám sát và kiểm tra còn yếu . Một phần do
kiểm toán viên chưa được đào tạo đầy đủ về chun mơn kiểm tốn, thiếu kinh
nghiệm trong kiểm tốn. Mặt khác kiểm toán viên cũng chưa được giao đầy đủ
“quyền hạn trách nhiệm”. Vì vậy đơi khi cơng tác kiểm tốn mất tính khách
quan, chỉ kiểm tốn và đưa ra những kết luận tốt, những mặt ưu điểm còn sai sót
thì bỏ qua.
Chính vì vậy, việc hình thành một hệ thống kiểm toán nội bộ là một tất yếu
đối với các doanh nghiệp hiện nay. Đồng thời việc hoàn thiện các công tác này là
một điều rất cần thiết khơng chỉ cho bản thân các doanh nghiệp mà cịn cho cả hệ
thống nền kinh tế.
Nhận thức được tầm quan trọng của kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp
và xuất phát từ mong muốn muốn tìm hiểu thêm nữa về cơng tác kiểm tốn nội


1


bộ nên em đã chọn đề tài là: “Kiểm toán nội bộ - Công cụ hữu hiệu của hoạt
động kiểm sốt”.
Ngồi Lời mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo đề án môn học
của em gồm các phần chính như sau:
Phần I: Hệ thống kiểm sốt nội bộ trong doanh nghiệp hiện nay.
Phần II: Kiểm toán nội bộ - cơng cụ hữu hiệu của cơng cụ kiểm sốt.
Phần III: Đánh giá về kiểm tốn nội bộ.
Đề án mơn học này được hồn thành, em xin bày tỏ lịng biết ơn sâu sắc
tới thầy giáo thạc sỹ Phan Trung Kiên đã nhiệt tình chỉ dẫn và giúp đỡ em rất
nhiều trong q trình thực hiện và hồn thành bản đề án này.
Em xin chân thành cảm ơn!

2


PHẦN I:
HỆ THỐNG KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG DOANH NGHIỆP
HIỆN NAY
1. Bản chất của hệ thống kiểm soát nội bộ
Kiểm sốt ln là một khâu quan trọng trong mọi quy trình quản trị, do đó
các nhà quản lý thường quan tâm nhiều hơn đến việc hình thành và duy trì các
hoạt động kiểm soát để đạt được các mục tiêu của tổ chức. Với ý nghĩa đó, kiểm
sốt có thể được hiểu theo nhiều chiều: cấp trên quản lý cấp dưới thơng qua
chính sách hoặc biện pháp cụ thể, đơn vị này kiểm sốt đơn vị khác thơng qua
chi phối đáng kể về quyền sở hữu và lợi ích tương ứng, nội bộ đơn vị kiểm sóat
lẫn nhau thơng qua quy chế và thủ tục quản lý v.v… Tuy nhiên, thơng dụng nhất
vẫn là kiểm sốt nội bộ đơn vị.

Đối với một tổ chức, doanh nghiệp, việc kiểm tra, kiểm sốt đối với hoạt
động hàng ngày càng có ý nghĩa quan trọng hơn. Điều đó địi hỏi doanh nghiệp,
tổ chức phải có một hệ thống kiểm sốt nội bộ hữu hiệu.
Theo liên đồn Kế tốn Quốc tế (IFAC), hệ thống kiểm sốt nội bộ là một
hệ thống chính sách và thủ tục nhằm bốn mục tiêu: bảo vệ tài sản của đơn vị, bảo
đảm độ tin cậy của các thông tin, bảo đảm việc thực hiện các chế độ pháp lý, và
bảo đảm hiệu quả của hoạt động.
Tuy nằm trong một thể thống nhất song bốn mục tiêu trên đôi khi cũng có
sự mâu thuẫn với nhau như tính hiệu quả của hoạt động với mục đích bảo vệ tài
sản, sổ sách hoặc cung cấp thông tin đầy đủ và tin cậy. Vì vậy nhiệm vụ của các
nhà quản lý là xây dựng một hệ thống kiểm soát nội bộ hữu hiệu và kết hợp hài
hòa bốn mục tiêu trên.
Theo Chuẩn mực kiểm toán số 400 quy định: “Hệ thống kiểm soát nội bộ
là các quy định và các thủ tục kiểm soát do đơn vị được kiểm toán xây dựng và
áp dụng nhằm đảm bảo cho đơn vị tuân thủ pháp luật và các quy định, để kiểm
tra, kiểm sốt, ngăn ngừa và phát hiện gian lận, sai sót để lập báo cáo tài chính
trung thực và hợp lý; nhằm bảo vệ, quản lý và sử dụ ng có hiệu quả tài sản của
đơn vị”.

3


Về bản chất, có thể hiểu hệ thống kiểm sốt nội bộ như sau:
- Kiểm soát nội bộ là một q trình, bao gồm một chuỗi hoạt động kiểm
sốt hiện diện ở mọi bộ phận trong đơn vị và được kết hợp với nhau thành một
thể thống nhất.Quá trình kiểm soát là phương tiện để giúp đơn vị đạt được các
mục tiêu của mình.
- Kiểm sốt nội bộ được thiết kế và vận hành bởi con người. Kiểm soát nội
bộ khơng chỉ đơn thuần là những chính sách, thủ tục, biểu mẫu … mà bao gồm
cả con người trong tổ chức như Hội đồng quản trị, Ban Giám đốc, các nhân viên

khác… Chính con người định ra mục tiêu, thiết lập cơ chế kiểm soát ở mọi nơi và
vận hành chúng.
- Kiểm soát nội bộ cung cấp một sự đảm bảo hợp lý, chứ không bảo đảm
tuyệt đối là các mục tiêu sẽ được thực hiện. Do trong khi vận hành hệ thống kiểm
sốt các sai phạm có thể xảy ra làm cho các mục tiêu không thực hiện được, hệ
thống kiểm sốt nội bộ có thể ngăn chặn các sai phạm nhưng không thể đảm bảo
chúng không bao giờ xảy ra.

2. Các yếu tố cơ bản của hệ thống kiểm sốt nội bộ
Mặc dù có sự khác biệt về tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ giữa các đơn
vị khác nhau song ở bất kỳ đơn vị nào hệ thống kiểm soát nội bộ cũng được cấu
thành bởi các bốn yếu tố cơ bản sau:
* Môi trường kiểm sốt:
Mơi trường kiểm sốt bao gồm tồn bộ nhân tố bên trong và bên ngoài đơn
vị tác động đến việc thiết kế, hoạt động và xử lý dữ kiệu của các loại hình kiểm
sốt nội bộ.
Các nhân tố thuộc mơi trường kiểm soát chủ yếu liên quan tới quan điểm,
thái độ và nhận thức cũng như hành động của các nhà quản lý trong doanh
nghiệp; bao gồm: Đặc thù về quản lý, Cơ cấu tổ chức, Chính sách nhân lực, Cơng
tác kế hoạch, Ủy ban kiểm sốt, Mơi trường bên ngồi. Nhưng trên thực tế, tính
hiệu quả của các hoạt động kiểm tra, kiểm soát trong các hoạt động của một tổ
chức phụ thuộc chủ yếu vào các nhà quản lý tại doanh nghiệp đó. Nếu các nhà
quản lý cho rằng cơng tác kiểm tra, kiểm sốt là quan trọng và không thể thiếu

4


được đối với mọi hoạt động trong đơn vị thhì mọi thành viên trong đơn vị đó sẽ
có nhận thức đúng đắn về hoạt động kiểm tra, kiểm soát và tuân thủ mọi quy
định cũng như chế độ đề ra. Ngược lại, nếu hoạt đọng kiểm tra, kiểm soát bị coi

nhẹ từ phía các nhà quản lý thì chắc chắn các quy chế về kiểm sốt nội bộ sẽ
khơng được vận hành một cách có hiệu quả bởi các thành viên của đơn vị.
* Hệ thống thông tin:
Hệ thống thông tin chủ yếu là hệ thống kế toán của đơn vị bao gồm hệ
thống chứng từ kế toán, hệ thống sổ kêư toán, hệ tống tài khoản kế toán, hệ thống
bảng tổng hợp cân đối kế tốn. Trong đó, q trình lập và ln chuyển chứng từ
đóng vai trị quan trọng trong cơng tác kíểm sốt nội bộ của doanh nghiệp.
Mục đích của hệ thống kế tốn của một tổ chức là sự nhận diết thu thập,
phân loại, ghi sổ và báo cáo các nghiệp vụ kinh tế tài chính của tổ chức đó, thỏa
mãn chức năng thơng tin và kiểm tra của hoạt động kế toán. Một hệ thống kế
toán hữu hiệu phải bảo đảm các mục tiêu kiểm tốn chi tiết:
- Tính có thực: cơ cấu kiểm sốt khơng cho phép ghi chép những nghiệp
vụ khơng có thực vào sổ sách của đơn vị.
- Sự phê chuẩn: bảo đảm mọi nghiệp vụ xảy ra phải được phê chuẩn hợp
lý.
- Tính đầy đủ: bảo đảm việc phản ánh trọn vẹn các nghiệp vụ kinh tế phát
sinh.
- Sự đánh giá: bảo đảm khơng có sai phạm trong việc tính tốn các khoản
giá và phí.
- Sự phân loại: bảo đảm các nghiệp vụ được ghi chép đúng theo sơ đồ tài
khoản và ghi nhận đúng đắn ở các sổ sách kế tốn.
- Tíng đúng kỳ: bảo đảm việc ghi sổ các nghiệp vụ phát sinh được ghi sổ
theo đúng quy định.
- Q trình chuyển sổ và tổng hợp chính xác: số liệu kế toán được ghhi
vào sổ phải được tổng cộng và chuyển sổ đúng đắn, tổng hợp chính xác trên các
Báo cáo tài chính của doanh nghiệp.

5



* Các thủ tục kiểm soát:
Các thủ tục kiểm soát do Ban giám đốc đơn vị thiết lập và thực hiện nhằm
đạt được mục đích quản lý cụ thể. Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 400 quy
định: “Kiểm toán viên phải hiểu biết các thủ tục kiểm soát của đơn vị để xây
dựng kế hoạch và chưong trình kiểm toán”. Các thủ tục kiểm soát chủ yếu bao
gồm:
-

Lập, kiểm tra, so sánh và phê duyệt các số liệu liên quan đến đơn vị.

-

Kiểm tra tính chính xác của các số liệu tính tốn.

-

Kiểm tra chưong trình ứng dụng và môi trường tin học.

-

Kiểm tra và phê duyệt các tài liệu kế toán.

-

Đối chiếu giữa số liệu nội bộ với bên ngoài.

-

So sánh, đối chiếu kết quả kiểm kê thực tế với số liệu trên sổ kế toán.


-

Giới hạn việc tiếp cận trực tiếp với các tài sản và các tài liệu kế tốn.

-

Phân tích, so sánh giữa số liệu thực tế với dự toán, kế hoạch.
Các thủ tục kiểm soát được thiết lập dựa trên ba nguyên tắc cơ bản:

nguyên tắc phân công phân nhiệm rõ ràng; nguyên tắc bất kiêm nhiệm; nguyên
tắc ủy quyền và phê chuẩn.
* Kiểm toán nội bộ:
Kiểm toán nội bộ là một bộ phận độc lập được tiến hành trong đơn vị tiến
hành công việc kiểm tra và đánh giá các hoạt động phục vụ yêu cầu quản trị nội
bộ đơn vị.
Theo liên đoàn kế toán Quốc tế IFAC, kiểm toán nội bộ là một hoạt động
đánh giá được lập ra trong một doanh nghiệp như là một loại dịch vụ cho doanh
nghiệp đó, có chức năng kiểm tra, đánh giá và giám sát thích hợp và hiệu quả của
hệ thống kế tốn và kiểm soát nội bộ.
Là một ttrong những nhân tố cơ bản trong hệ thống kiểm soát nội bộ của
doanh nghiệp, bộ phận kiểm toán nội bộ cung cấp một sự quan sát, đánh giá
thường xuyên về toàn bộ hoạt động của doanh nghiệp, bao gồm cả tính hiệu quả
của việc thiết kế và vận hành các chính sách và thủ tục kiểm soát nội bộ. Bộ phận
kiểm toán nội bộ hữu hiệu sẽ giúp cho doanh nghiệp có được những thông tin kịp

6


thời và xác thực về các hoạt động của doanh nghiệp, chất lượng của hoạt đọng
kiểm soát nhằm kịp thời điều chỉnh và bổ sung các quy chế kiểm soát hợp lý và

hiệu quả. Tuy nhiên, bộ phận kiểm toán nội bộ chhỉ phát huy tác dụng nếu:
- Về tổ chức, bộ phận kiểm toán nội bộ phải trực thuộc một cấp cao đủ để
không giới hạn phạm vi hoạt động của nó. Đồng thời phải được giao một quyền
hạn tương đối rộng rãi và hoạt động tương đối độc lập với phịng kế tốn và bộ
phận được kiểm tra.
- Về nhân sự, bộ phận kiểm toán nội bộ phải tuyển chọn những nhân viên
có năng lực chun mơn và đạo đức nghề nghiệp phù hợp với quy định hiện
hành.

3. Những hạn chế tiềm tàng của kiểm soát nội bộ
Ở bất kỳ đơn vị nào, dù đã được đầu tư rất nhiều trong thiết kế và vận
hành hệ thống, thế nhưng một hệ thống kiểm sốt nội bộ vẫn khơng thể hồn
tồn hữu hiệu. Bởi vì ngay cả khi có thể xây dựng hệ thống hồn hảo về cấu trúc
thhì hiệu quả thật sự của nó vẫn phụ thuộc vào nhân tố chủ yếu là con người, tức
là phụ thuộc vào năng lực làm việc và tính đáng tin cậy của lực lượng dân sự. Do
đó hệ thống kiểm sốt nội bộ chỉ giúp hạn chế tối đa các sai phạm mà thơi vì nó
cá các hạn chế tiềm tàng xuất phát từ nguyên nhân sau:
- Những hạn chế xuất phát từ bản thân con người như sự vô ý, bất
cẩn,đãng trí hay ước lượng sai, hiếu sai chỉ dẫn của cấp trên hoặc các báo cáo của
cấp dưới…
- Khả năng đánh lừa, lẩn tránh của nhân viên thông qua sự thông đồng với
nhau hay với các bộ phận bên ngồi đơn vị.
- Hoạt động kiểm sốt thường chỉ nhằm vào cácnghiệp vụ thường xuyên
phát sinh mà ít chú ý đến những nghiệp vụ khơng thường xun, do đó những sai
phạm trong các nghiệp vụ này thường hay bị bỏ qua.
- Yêu cầu thường xuyên và trên hết của người quản lý là chi phí bỏ ra cho
hoạt đọng kiểm sốt phải nhỏ hơn giá trị thiệt hại được tính do sai sót hay gian
lận gây ra.

7



- Ln có khả năng là các cá nhân có trách nhiệm kiểm sốt đã lạm dụng
quyền hạn của mình nhằm phục vụ cho mưu đồ riêng.
- Điều kiện hoạt động của đơn vị thay đổi nên dẫn tới những thủ tục kiểm
sốt khơng cịn phù hợp…
Chính những hạn chế nói trên đây của kiểm sốt nội bộ là ngun nhân
khiến cho kiểm sốt nội bộ khơng thể bảo đảm tuyệt đối trong việc đạt được mục
tiêu của mình.

8


PHẦN II:
KIỂM TỐN NỘI BỘ-CƠNG CỤ HỮU HIỆU CỦA HỆ THỐNG
KIỂM SỐT
1. Sự cần thiết của kiểm tốn nội bộ
Hình thức kiểm toán nội bộ lần đầu tiên xuất hiện tại Mỹ vào những năm
30 của thế kỷ 20 và sau đó lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới. Tổ chức quốc
tế về kiểm toán nội bộ (IIA) đã thành lập năm 1941 tại Mỹ. Tổ chức này đã quy
định bản chất, mục tiêu, chức năng và phạm vi họat động của kiểm toán nội bộ.
Tổ chức kiểm toán nội bộ là thành viên của IFAC và INTOSAI. Từ những năm
60 cho đến nay, hoạt động kiểm toán nội bộ đã phát triển rộng rãi trên thế giới.
Từ quan điểm thuần túy về kế toán, nhằm phát hiện các sai sót và gian lận,
kiểm tốn nội bộ đã dần dần mở rộng phạm vi hoạt động trên tất cả các lĩnh vực
hoạt động của đơn vị hoặc của doanh nghiệp đồng thời hướng hoạt động kiểm
soát nội bộ vào việc cải thiện và nâng cao chất lượng hoạt động, tăng cường sức
mạnh cho cơ chế kiểm soát nội bộ. Trong các cơng ty, tập đồn kinh tế lớn có
nhiều chi nhánh với khối lượng chứng từ, sổ sách kế tố n khổng lồ thường có
thêm bộ phận kiểm tốn nội bộ. Đay chính là bộ phận quan trọng trong công ty,

là cánh tay phải của ban giám đốc trong việc quản lý hoạt đ ộng tài chính của
doanh nghiệp. Kiểm toán nội bộ là bộ phận chịu trách nhiệm xem xét lại một
cách định kỳ các biện pháp mà ban giám đốc và các nhà quản lý ở mọi cấp áp
dụng để quản lý và kiểm soát doanh nghiệp đồng thời chịu sự điều hành của ban
giám đốc nhưng hoàn toàn độc lập với tất cả các bộ phận khác. Bộ phận này quản
lý hoạt động của phòng ban kế tốn trong doanh nghiệp, tìm ra các sai phạm
trong quản lý tài chính của các bộ phận, phịng ban, chi nhánh, công ty con…để
kịp thời phản ánh với ban lãnh đạo công ty.
Ở các nước trên thế giới, kiểm tốn nội bộ khơng được quy định bởi pháp
luật hoạt động kiểm tốn cũng như các nhà chun mơn trong lĩnh vực kiểm tốn
nội bộ đều khơng phải tn thủ các quy định trừ những người là thành viên của
một tổ chức nghề nghiệp. Nói cách khác, khơng có quy định bắt một cơng ty hay
doanh nghiệp phải có kiểm tốn nội bộ. ở những đơn vị có quy mô nhỏ, các hoạt

9


động thường đơn giản hoặc ít phức tạp và rủi ro trong q trình quản lý cũng ít
xảy ra. Khi đó, nhà quản lý của đơn vị sẽ thực hiện việc kiểm tra và đánh giá về
những chính sách và các thủ tục kiểm soát trong đơn vị. Nhưng ở các đơn vị có
quy mơ lớn đến một mức nào đó, quyền hạn và trách nhiệm sẽ phải được phân
chia cho nhiều bộ phận. Điều này dẫn đến mối quan hệ giữa những bộ phận chức
năng và các nhân viên sẽ trở nên phức tạp, quá trình truyền đạt và thu nhận thơng
tin phảm hồi cũng trở nên khó khăn hơn, q trình truyền đạt và thu nhận thơng
tin phản hồi cũng trở nên khó khăn hơn; bên cạnh đó tài sản sẽ bị phân tán ở
nhiều nơi do được sử dụng cho các hoạt động và mục tiêu khác nhau…và rủi ro
gây ra ảnh hưởng nghiêm trọng đến các hoạt động và mục tiêu của đơn vị cúng
sẽ tăng lên. Lúc này, các nhà quản lý khó có thể trực tiếp tiến hành việc kiểm tra
và đánh giá sự tn thủ các chính sách và thủ tục kiểm sốt. Vì thế, cần phải có
một bộ phận chun mơn để giúp họ thực hiện điều này, đó chính là bộ phận

kiểm toán nội bộ.
Ở nước ta, khả năng dự báo và phân tích của các doanh nghiệp là rất hạn
chế, còn nhiều dáng dấp của thời quản lý bao cấp. Doanh nghiệp quốc doanh vẫn
muốn ỷ lại, dựa dẫm vào nhà nước. Doanh nghiệp chưa có hệ thống phân tích
chức năng, do đó việc tổ chức một bộ phận kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp
là hết sức đúng đắn. Kiểm toán nội bộ là tai mắt cho doanh nghiệp. Mục đích của
kiểm tốn nội bộ là tạo ra cơng cụ để phân tích tồn bọ hoạt động chiến lược, để
rút kinh nghiệm trong quản lý, trong điều hành, đòng thời đề ra chiến lược phát
triển của riêng doanh nghiệp, đảm bảo chi tiêu có lợi, tiết kiệm, minh bạch về số
liệu kế toán.
Sau khi Nhà nước ban hành Quyết định 832-TC/QĐ/CĐKT ngày 28 tháng
10 năm 1997 về viẹc ban hành quy chế kiểm toán nội bộ, ởt nhiều Tổng cơng ty
bộ phận kiểm tốn nội bộ đã được thành lập và đi vào hoạt động.

2. Bản chất, chức năng của kiểm toán nội bộ
2.1. Bản chất của kiểm toán nội bộ
Kiểm toán nội bộ là nhu cầu cần thiết khách quan cho việc kiểm soát chất
lượng hoạt động và bảo đảm chất lượng thông tin kinh tế, tài chính của bản thân

10


doanh nghiệp. Kiểm tốn nội bộ có vai trị rất lớn trong việc nâng cao chất lượng
hoạt động của doanh nghiệp và không chỉ giới hạn ở phạm vi kiểm tốn báo cáo
tài chính. ở phạm vi rộng hơn và quan trọng hơn, kiểm toán nội bộ phải kiểm
toán hoạt động và kiểm tốn tính tn thủ các quy định, các chế độ hiện hành của
Nhà nước và của doanh nghiệp… nhưng nhìn chung, kiểm tốn nội bộ là vấn đề
khá phức tạp và còn mới mẻ ở nước ta.
Hiệp hội kiểm toán viên nội bộ (IIA) đã định nghĩa về kiểm toán nội bộ
như sau:

“Kiểm toán nội bộ là hoạt động bảo đảm và tư vấn mang tính độc lập,
khách quan được thiết lập nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện cho các họat động
của tổ chức. Kiểm tốn nội bộ giúp cho tổ chức hồn thành mục tiêu thơng qua
việc đưa ra một cách tiếp cận có hệ thống và kỷ cương nhằm đánh giá và cải
thiện tính hữu hiệu trong quản trị rủi ro, kiểm sốt và giám sát”.
Theo các chuẩn mực hành nghề kiểm toán nội bộ ban hành tháng 5 năm
1978: “Kiểm toán nội bộ là một chức năng thẩm định độc lập được thiết lập bên
trong một tổ chức để xem xét và đánh giá các hoạt động của tổ chức đó với tư
cách là một sự trợ giúp cho tổ chức đó”.
Kiểm tốn nội bộ là một bộ máy thực hiện cơng việc kiểm tốn trong tổ
chức và do chính nhân viên trong tổ chức tiến hành. Khhi thực hiện công việc,
kiểm toán viên nội bộ phải độc lập và khách quan, tức không bị cản trở khi xác
định phạm vi công việc trong thực tiễn công việc, trong thực hhiện cong việc và
thơng báo kết quả của mình. Kiểm tốn viên nội bộ phải vô tư, công bằng và
không được khoan nhượng về chất lượng cộng việc; đồng thời không để cho sự
phán xét trong cơng việc của mình bị lệ thuộc vào người khác. Ngồi cơng việc
kiểm tra, kiểm tốn viên nội bộ có thể tư vấn cho các bộ phận trong đơn vị. Tính
chất và phạm vi của hoạt động này tùy theo sự thỏa thuận với bộ phận được tư
vấn và dự kiến về việc tăng thêm giá trị và cải thiện hoạt động tổ chức. Thí dụ,
các hoạt động tư vấn, trợ giúp, thiết kế quy trình và huấn luyện. Làm tăng thêm
giá trị hoặc lợi ích cho các chủ sở hữu,cổ đông, khách hàng… là mục đích của
mọi tổ chức. Giá trị có được thơngqua việc phát triển các sản phẩm và dịch vụ và
việc sử dụng tối đa các nguồn lực để thúc đẩy sựgia tăng của sản phẩm và dịch

11


vụ. Kiểm tốn viên nội bộ thơng qua q trình đánh giá rủi ro và thu th ập bằng
chứng, sẽ tăng cường sự hiểu biết và cơ hội cải thiện hoạt động, từ đó góp phần
làm tăng thêm lợi ích cho tổ chức. Các thơng tin hữu ích được kiểm tốn viên gửi

đến các cấp quản lý thích hợp bằng những văn bản hoặc ý kiến kiến nghị, đề
xuất. Kiểm tốn viên nội bộ phải ln cố gắng để ngày càng hồn thiện phương
pháp thực hiện cơng việc theo đúng những quy định về trách nhiệm nghề nghiệp
trong việc nhận định, phân tích, đánh giá, ghi chép và thơng báo kết quả; đồng
thời kiểm toán viên nội bộ cũng phải tuân thủ những quy định về mặt đạo đức
nghề nghiệp. Đánh giá và cải thiện là chức năng chủ yếu của kiểm tốn nội bộ,
họ phải tìm hiểu, phận tích sự việc để có những đánh giá thích hợp và đưa ra các
đề xuất để cải thiện hoạt động của tổ chức.
Mục đích của kiểm tốn nội bộ là thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát chất
lượng hoạt động và chất lượng thơng tin kinh tế, tài chính của doanh nghiệp, giúp
cho công tác điều hành của chủ sở hữu, nhà điều hành doanh nghiệp trong việc
giúp phát hiện và khắc phục khâu yếu, ngăn ngừa sai sót, gian lận trong hoạt
động kinh tế, tài chính của doanh nghiệp. Đồng thời, kết quả kiểm tốn nội bộ sẽ
góp phần đắc lực và hiệu quả vào việc đảm bảo thông tin kinh tế, tài chính cung
cấp cho các đối tựong bên ngồi doanh nghiệp.
Mục tiêu của kiểm tốn nội bộ :
- kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực, hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ.
- đảm bảo việc tuân thủ chủ trương chính sách, pháp luật của Nhà nước,
quy chế và quy trình nghiệp vụ của đơn vị, ngăn ngừa những hiện tượng vi ph ạm
hoặc không tuân thủ pháp luật, quy trình nghệp vụ dẫn đến rủi ro trong hoạt
động.
- đảm bảo hoạt động của từng bộ phận trong đơn vị được triển khai đúng
định hướng các biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ có hiệu lực và hiệu quả.
- xác định, đánh giá tính chính xác, đầy đủ, hợp lý của các thông tin trên
báo cáo tài chính và báo cáo nghiệp vụ của đơn vị.
- kiến nghị với các cơ quan chủ quản cấp trên trong việc sửa đổi, bổ sung,
kiến nghị hoặc ban hành mới các cơ chế, quy chế nhằm tăng cường biện pháp
bảo đảm an toàn tài sản, tăng hiệu quả hoạt động.

12



Đối tượng của kiểm toán nội bộ là các hoạt động kinh tế tài chính, kế tốn,
kinh doanh của đơn vị, của các phòng ban, bộ phận trong tổ chức, doanh nghiệp.
Cịn đối tượng phục vụ của kiểm tốn nội bộ gồm:
- ban giám đốc: “ Khách hàng được ưu tiên của kiểm toán viên”.
- các bộ phận được kiểm toán với các yêu cầu thường là khác nhau, nhưng
kiểm tốn viên sẽ khơng có hiệu quả nếu thiếu hoặc khơng có sự hợp tác của
người được kiểm tốn.
Phạm vi thực hiện của kiểm toán nội bộ là:
- Kiểm toán các báo cáo tài chính, báo cáo kế tốn quản trị của doanh
nghiệp và các đơn vị thành viên.
- Kiểm toán tuân thủ
- Kiểm toán hoạt động
2.2. Chức năng của kiểm toán nội bộ.
Số liệu, tài liệu kế toán của doanh nghiệp là căn cứ pháp lý để đánh giá
tình hình và kết quả họat động sản xuất kinh doanh, tình hình thực hiện nghĩa vụ
với Nhà nước, với các bên liên quan của doanh nghiệp. Doanh nghiệp phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật về tính đầy đủ, trung thực, hợp lý của các số liệu kế
tốn và các thơng tin trong báo cáo tài chính đã được cơng bố.
Chính vì lý do đó, nhà nước u cầu các doanh nghiệp phải thường xuyên
tổ chức kiểm toán nội bộ nhằm đánh giá về chất lượng và độ tin cậy của thơng tin
kinh tế, tài chính; về bảo vệ an tồn tài sản của doanh nghiệp; về chấp hành luật
pháp, chính sách, chế độ của Nhà nước, cũng như các quyết định của hội đồng
quản trị, của tổng giám đốc doanh nghiệp đối với hoạt động của doanh nghiệp.
Trước đây, chức năng của kiểm toán nội bộ được giới hạn trong việc kiểm
tra và đánh giá hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức. Trong những năm gần
đây, IIA đã mở rộng chức năng của kiểm toán nội bộ là đánh giá và cải thiện
mọi hoạt động của đơn vị. Phạm vi của hai chức năng này luôn gắn liền với
những nội dung công việc mà họ phải thực hiện, cụ thể như sau:

- Nhận định, phân tích và đánh giá những rủi ro có thể làm cho các thơng
tin hoạt động trở nên không đáng tin cậy; đề xuất những biện pháp để cải thiện
cách thức ghi nhận, đo lường, phân loại và báo cáo về những thông tin này.
13


- Nhận định, phân tích và đánh giá những rủi ro có thể làm cho tài sản của
đơn vị bị tham ô, biển thủ…; đề xuất những biện pháp để cải thiện sự hữu hiệu
trong phương thức bảo vệ tài sản.
- Nhận định, phân tích và đánh giá những vấn đề có thể làm cho các hoạt
động của đơn vị không hữu hiệu hoặc thiếu hiệu quả; đề xuất những biện pháp để
sử dụng tiết kiệm và có hiệu quả nguồn lực của đơn vị.
- Nhận định, phân tích và đánh giá những rủi ro có thể làm cho luật lệ và
các quy định không được tuân thủ, đề xuất những biện pháp cải thiện nhằm xây
dựng hệ thống quản lý hữu hiệu hơn.
Điều 6-Quy chế kiểm toán nội bộ của Việt Nam quy định kiểm tốn nội bộ
có ba chức năng là: kiểm tra, xác nhận và đánh giá.
- Chức năng kiểm tra bao gồm kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực, hiệu quả
của hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm tra các thơng tin kinh tế, tài chính và kiểm
tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động, quản lý kinh doanh. Kiểm tra tạo cơ sở
cho việc xác nhận và đánh giá. Chức năng kiểm tra gắn với hoạt động bảo đảm
của kiểm toán nội bộ theo định nghĩa của IIA.
- Chức năng xác nhận chủ yếu nhằm vào các thơng tin kinh tế tài chính
trên các báo cáo tài chính và báo cáo kế tốn quản trị. Việc xác nhận trong
trường hợp này mang lại sự tin cậy vào các báo cáo cho các nhà quản lý của đơn
vị trước khi ký duyệt. So sánh với định nghĩa của IIA, chức năng xác nhận cũng
thuộc về phạm vi của hoạt động bảo đảm của kiểm toán nội bộ. Tuy nhiên, sự
bảo đảm của kiểm toán nội bộ chỉ nhằm phục vụ cho các nhà quản lý của đơn vị
chứ khơng hướng tới đối tượng bên ngồi, vì kiểm tốn nội bộ do chính các nhân
viên đơn vị thực hiện.

- Chức năng đánh giá chủ yếu hướng đến tính phù hợp, hiệu quả, hiệu lực
của hệ thống kiểm soát nội bộ. Chức năng này cũng thuộc về hoạt động bảo đảm
của kiểm toán nội bộ. Đánh giá chính là cơ sở để kiểm tốn nội bộ đưa ra các
kiến nghị nhằm tăng thêm giá trị và cải thiện hoạt động của đơn vị.
Phạm vi kiểm tra, xác nhận và đánh giá của kiểm toán nội bộ bao gồm:
- Độ tin cậy của thơng tin tài chính kế tốn do kế tốn tổng hợp xử lý và
trình bày.

14


- Tính tuân thủ luật pháp và các quy chế, các quy định của Nhà nước, các
quy định của bản thân doanh nghiệp.
- Tính hiệu lực của hệ thống kiểm sốt nội bộ.
- Tính hiệu quả của các hoạt động kinh tế và việc sử dụng các nguồn lực,
lựa chọn các phương án, các quyết định kinh tế.
So sánh giữa những chức năng trong quy chế kiểm toán nội bộ của Việt
Nam với các chức năng theo định nghĩa của IIA, ta có thể thấy Quy chế chưa đề
cập đến chức năng cải thiện. Nguyên nhân là chức năng này trước đây được
ngầm hiểu là gắn chặt với chức năng đánh giá.
2.3. Nhiệm vụ của kiểm toán nội bộ
Để làm đúng và trọn vẹn chức năng của mình, kiểm tốn nội bộ có nhiệm
vụ sau:
- Kiểm tra tính phù hợp, hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội
bộ trong đơn vị, trong doanh nghiệp.
- Kiểm tra và xác nhận độ tin cậy của thông tin kinh tế, tài chính của báo
cáo tài chính, báo cáo kế tốn quản trị doanh nghiệp trước khi trình ký duyệt và
cơng bố.
- Kiểm tra sự tuân thủ các nguyên tắc hoạt động,quản lý kinh doanh, đặc
biệt sự tuân thủ luật pháp, chính sách, chế độ tài chính, kế tốn, chính sách, nghị

quyết, quyết định của Hội đồng quản trị, của Ban giám đốc doanh nghiệp.
- Phát hiện những sơ hở, yếu kém, gian lận, trong quản lý, trong bảo vệ tài
sản của doanh nghiệp; đề xuất các giải pháp nhằm cải tiến, hoàn thiện hệ thống
quản lý, điều hành kinh doanh của doanh nghiệp.

3. Các hình thức của kiểm tốn nội bộ
Hoạt động kiểm tốn nội bộ có thể tiến hành dưới nhiều hình thức khác
nhau. Mỗi hình thức kiểm tốn đem lại những kết quả nhất định và thỏa mãn
những yêu cầu khác nhau. Tùy từng điều kiện, hoàn cảnh và trong từng khoảng
thời gian, không gian cụ thể, cần và có thể vận dụng các hình thức kiểm tốn một
cách thật linh hoạt sao cho có hiệu quả.

15


3.1. Kiểm tốn phịng ngừa (tiền kiểm) và kiểm tốn sau hoạt động (hậu
kiểm)
* Kiểm tốn phịng ngừa (tiền kiểm)
Đây là loại hình kiểm tốn bao gồm những biện pháp phòng ngừa được áp
dụng trước ngay sau khi một nghiệp vụ kế toán phát sinh, nhằm bảo đảm cho bộ
máy kế toán hoạt động chuẩn xác và hợp thức, loại trừ các sai phạm trước hoặc
sau khi chúng xuất hiện.
* Kiểm tốn sau hoạt động (hậu kiểm):
Các cơng việc kế toán đã được thực hiện xong một thời gian khá lâu, các
nghiệp vụ kế toán đã được ghi vào sổ kế tốn và sổ tổng hợp lên báo cáo tài
chính. Trong trường hợp này, cuộc kiểm toán chỉ nhằm xem xét các sổ kế tốn có
trung thực hợp lý hay không đồng thời phát giác các vi phạm, gian lận (nếu có).
3.2. Kiểm tốn tồn diện và kiểm tốn đặc biệt
Kiểm tốn tồn diện nhằm vào hoạt động kinh doanh, hoạt động kế tốn
với mục đích xem xét sự chính xác của các tài liệu kế tốn đồng thời tìm hiểu

xem các tài liệu này đã phản ánh trung thực tình hình họat động của cơ quan, tình
hình kinh doanh của doanh nghiệp chưa.
Trái lại, kiểm toán đặc biệt tập trung vào số nghiệp vụ nhất định, ví dụ như
kiểm toán hoạt động bán hàng, kiểm toán ngân quỹ, kiểm tốn chi phí, lợi
nhn…
3.3. Kiểm tốn thường xun và kiểm toán định kỳ
Kiểm toán thường xuyên là thực hiện các việc thẩm tra, xem xét liên tục,
hàng tuần, hàng tháng, trong suốt năm. Hình thức này tỏ ra khá hữu hiệu vì có
thể giúp cho việc phát hiện mau chóng kịp thời các sai sót, nhờ đó có thể hạn
chế, ngăn chặn các sai phạm. Nhờ được thực hiện thường xun các cuộc kiểm
tốn này có tác dụng phịng ngừa, ngăn chặn rất hiệu quả.
Kiểm toán định kỳ chỉ nhằm theo dõi tình hình qua các báo c áo tài chính
kế tốn hàng tháng, hàng q hoặc cả năm nghiên cứu đánh giá bảng cân đối kế
toán giữa năm hoặc cuối năm, để đưa ra những nhận xét, kết luận, đánh giá về
công việc kinh doanh của doanh nghiệp.

16


Do khoảng cách về thơì gian kiểm tốn khá xa, nên nhiều khi không mang
lại kết quả mong muốn về các sai trái, tiêu cực (nếu có) đã gây ra hậu quả khó có
thể khắc phục được.

4. Gian lận trong hoạt động kiểm tốn nội bộ.
Gian lận và sai sót đều là sai phạm. Tuy nhiên về mặt bản chất, gian lận và
sai sót có nhiều điểm khác nhau và được biểu hiện thông qua yếu tố ý đồ. Gian
lận là hành vi cố ý lừa dối, giấu diếm, xuyên tạc sự thất với mục đích tư lợi; sai
sót là lỗi không cố ý, thường được hhiểu là sự nhầm lẫn, bỏ sót hoặc do yếu kém
về năng lực gây ra sai phạm. Trong lĩnh vực tài chính kế tốn, gian lận có thể là
sự trình bày sai lệch có chủ định các thơng tin trên báo cáo tài chính xo một hay

nhiều người trong ban giám đốc công ty, các nhân viên, hoặc các bên thứ ba thực
hiện như làm giả tài liệu, tham ô tài sản, giấu diếm hoặc cố tình bỏ sót các kết
quả nghiệp vụ; ghi chép nghiệp vụ khơng có thật; chủ định áp dụng sai chế độ kế
tốn tài chính… sai sót có thể là do lỗi số học, bỏ sót hoặc hiểu sai sự việc một
cách vơ tình; áp dụng sai ngun tắc, chế độ kế tốn tài chính do thiếu năng lực.
Do vậy, gian lận và sai sót đều là hành vi sai phạm, đều làm sai lệch thông tin,
phản ánh sai thực tế. Hơn nữa, cho dù là bất cứ ai thực hiện hành vi gian lận và
sai sót thì trách nhiệm luôn liên quan tới những nhà quản l ý tài chính, kế tốn nói
riêng và nhà quản lý nói chung.
Gian lận và sai sót xảy ra và gia tăng có thể do các yếu tố sau:
-

Quản lý mang tính độc đoán, chuyên quyền;

-

Các quyết định quản lý bị độc quýền bởi một cá nhân hoặc một nhóm
nhỏ;

-

Thái độ của ban quản lý rất hiếu thắng;

-

Đánh giá kết quả trên phương diện ngắn hạn;

-

Luôn đưa thông tin phản hồi theo dạng chỉ trích hoặc thiếu lạc quan

cho cấp dưới gây sự thất vọng, chán nản cho cấp dưới;

-

Môi trường kiểm sốt yếu;

-

Mơi trường kinh doanh gặp nhiều rủi ro, khó khăn trong ngành nghề
hoặc sản phẩm đương thời;

17


-

Các nghiệp vụ bất thường xảy ra…

Bằng việc gian lận trong kế tốn các cơng ty có thể làm cho báo cáo kế
toán sai lệch đi một cách trọng yếu như khai tăng doanh thu và tài sản, khai giảm
chi phí và cơng nợ, hoặc đưa ra những thơng tin thiếu trung thực, khơng đầy đủ.
Nhìn chung các báo cáo tài chính có chứa gian lận nhằm trình bày tốt hơn tình
hình tài chính so với sự thật của nó. Kiểm toán viên cần phải nắm những dấu
hiệu để phát hiện ra các hành vi sai phạm của ban quản lý khiến các báo cáo tài
chính bị sai lệch.
Có rất nhiều hình thức gian lận có thể xảy ra nhưng có thể kể đến một số
dạng điển hình như sau:
-

Gian lận tiền bạc và tài sản:


Trên thực tế loại gian lận này có thể nói là “thiên hình vạn trạng” nhưn g
các dạng phổ biến nhất thường là: lén đánh cắp séc do khách hàng trả cho xí
nghiệp để lĩnh tiền, đồng thời ngụy tạo một số bút toán để che giấu việc gian lận,
lạm dụng một số tiền do doanh nghiệp giao cho đi nộp ngân hàng, mạo danh
doanh nghiệp để thu tiền của khách hàng. Đối tượng thực hiện gian lận thường là
các nhân viên có trách nhiệm liên quan đến tiền bạc của công ty (thủ quỹ, nhân
viên thu ngân, nhân viên bán hàng…). Việc bài trừ tệ nạn này thường địi hỏi
phải có tổ chức kiểm toán nội bộ: kiểm tra thường xuyên quỹ tiền mặt, cách ly
nhân viên làm nhiệm vụ kế toán, tài vụ, tổ chức tốt việc bảo quản hàng hóam vật
tư xuất, nhập bằng một hệ thống kế toán, vật liệu hữu hiệu (sổ theo dõi tình hhình
xuất, nhập kho; thẻ kho, phiếu nhập-xuất).
-

Tạo dựng tình huống:

Hình thức gian lận này nhằm đưa ra một tình hình giả tạo khác xa với thực
trạng doanh nghiệp. Các hình thức phổ cập là: ngụy tạo tình hình lỗ giả để trốn
thuế bằng các phương pháp như giấu doanh thu, khai giảm hàng tồn kho, hạch
tốn chi phí khống, lập khấu hao và dự phịng quá mức.. Hình thức gian lận này
thường do các cấp chỉ huy hoặc lãnh đạo hoặc người có trách nhiệm chủ xướng.
Gian lận là mối đe dọa hơn bao giờ hết đối việc sử dụng hiệu quả các
nguồn lực và vì thế sẽ ln là mối quan tâm chính của bộ máy lãnh đạo cũng như
các bên có liên quan thuộc tất cả các tổ chức. Cần phát hiện ra những gian lận

18


hiện đang tồn tại và ngăn chặn trong phạm vi có thể, những gian lận có khả năng
xảy ra. Trách nhiệm cơ bản trong lĩnh vực này thuộc về bộ máy lãnh đạo -bao

gồm cả đường lối chính sách và các cán bộ kế tốn của bộ máy đó. Tuy nhiên, bộ
máy lãnh đạo cần sự giúp đỡ và hoàn tồn đúng đắn khi trơng đợi vào các kiểm
tốn viên đặc biệt là các kiểm toán viên nội bộ của họ với mong muốn nhận được
tất cả sự trợ giúp có thể.
Vì thế vấn đề lúc này là phạm vi trách nhiệm đối với các hành vi gian lận
mà kiểm toán viên nội bộ trực tiếp hay gián tiếp phải chịu. Ngăn chặn tất cả các
gian lận là điều không thể. Ngay cả khi kiểm toán viên nội bộ thực hiện việc
kiểm tra rất chi tiết thì các giao dịch không được vào sổ, việc bỏ quên và sự
thông đồng móc ngoặc khơng bị phát hiện vẫn có khả năng tồn tại. Và cũng sẽ
tốn kém nếu vượt quá mức độ hợp lý trong ngăn chặn gian lận.
Theo Bản công bố về chuẩn mực kiểm toán số 53 (SAS 53) yêu cầu kiểm
toán viên phải nắm bắt được thế nào là gian lận và sai sót; đánh giá được khả
năng xảy ra các gian lận và sai sót; đồng thời phải thiết kế các phương pháp kiểm
toán phù hợp, lập kế hoạch và giám sát thực hiện công việc kiểm tốn một cách
thận trọng thích đáng nhằm bảo đảm hợp lý trong việc phát hiện các sai phạm
trọng yếu; sau đó báo cáo cho ban quản lý, cho những người sử dụng và cho cơ
quan có thẩm quyền liên quan (co những ràng buộc nhất định).
Sự cần thiết giúp ban quản trị trong việc ngăn chặn và phát hhiện gian lận
là một thách thức thực sự đối với kiểm toán viên nội bộ. Để đáp ứng được nhu
cầu, phải có đủ thời gian trong kế hoạch để cung cấp dịch vụ này. Do tầm quan
trọng đối với ban quan trị sự ngăn cách và phát hiện gian lận thường đi trước các
cơng việc khác. Vì vậy, lập kế hoạch và đánh giá cẩn thận các vấn đề cần ưu tiên
nên được thực hhiện để bảo đảm rằng các nghĩa vụ thực hiện của kiểm toán nội
bộ được đáp ứng. Trong ngắn hạn, có thể thực hiện ít các cuộc kiểm toán nghiệp
vụ để thực hiện các cuộc điều tra. Cũng có thể cần phải dành một lượng lớn
nguồn lực để nghiên cứu rủi ro về gian lận trong công ty và thiết kế các biện
pháp ngăn chặn. Tuy nhiên về dài hạn, lượng thời gian dành cho nghiên cứu về
gian lận nên giảm đi. Cũng như vậy, kiểm toán viên nội bộ nên phối hợp chặt chẽ
với ban quản trị để bảo đảm rằng có đủ thời gian cũng như nguồn lực cho việc


19


thực hiện kiểm tốn nghiệp vụ có ý nghĩa. Việc chứng mịnh cho ban quản trị về
năng lực và các phát hiện hữu ích trong tất cả các lĩnh vực của kiểm tốn viên nội
bộ sẽ giúp hồn thiện mục tiêu này. Do đó việc kiểm tốn viên nội bộ và ban
quản trị hoạt động cùng nhau để đạt được sự cân đối giữa các mục tiêu đối với
gian lận và các nhu cầu dịch vụ khác rộng hơn là điều quan trọng. Sau đó kiểm
tốn viên nội bộ phải luôn luôn tỉnh táo đối với việc ngăn chặn và phát hiện gian
lận.

5. Kiểm toán viên nội bộ
5.1. Quy định đối với kiểm tốn viên nội bộ:
Cơng việc kiểm tốn được thực hiện bởi các kiểm toán viên, “Kiểm toán
viên là các chun gia kế tốn có kỹ năng nghiệp vụ kiểm tốn. Theo IFAC-Liên
đồn kế tốn quốc tế thì kiểm tốn viên phải là người có kỹ năng và khả năng
nghề nghiệp, phải chính trực, khách quan, độc lập và phải tơn trọng bí mật. Đó là
những u cầu khơng thể thiếu đối với một kiểm tốn viên.
Theo quyết định số 832 /TC/QĐ/CĐKT ngày 28/10/1997 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính quy định các tiêu chuẩn đối với người được bổ nhiệm làm kiểm
tốn viên nội bộ như sau:
1. Có phẩm chất trung thực, khách quan, chưa có tiền án và chưa bị kỷ luật
từ mức cảnh cáo trở lên do sai phạm trong quản lý kinh tế, tài chính, kế toán;
2. Đã tốt nghiệp đại học chuyên ngành kinh tế, tài chính, kế tốn, hoặc
quản trị kinh doanh;
3. Đã công tác thực tế trong lĩnh vực quản lý tài chính, kế tốn từ 5 năm
trở lên, trong đó có ít nhất có 3 năm làm việc tại doanh nghiệp nơi được giao
nhiệm vụ kiểm toán viên;
4. Đã qua huấn luyện về nghiệp vụ kiểm toán, kiểm toán nội bộ theo nội
dung chương trình thống nhất của Bộ Tài chính và được cấp chứng chỉ.

Kiểm toán viên nội bộ phải tránh tham gia đánh giá nhứng hoạt động cụ
thể mà trước đây do chính kiểm tốn viên này đảm nhạn. Như vậy tính khách
quan xem như bị phương hại nếu kiểm toán viên cung cấp sự bảo đảm cho một

20


hoạt động mà trước đây họ đã đảm nhận. Nhưng họ lại có thể cung cấp sự tư vấn
liên quan đến những hoạt động trước đây do chính họ làm.
Ban giám đốc có quyền đánh gía và lựa chọn kiểm toán viên nội bộ cho
doanh nghiệp. ở nhiều nước đã hình thành mộtchương trình đào tạo lấy bằng
kiểm tốn viên nội bộ. Các tiêu chuản để lựa chọn kiểm toán viên nội bộ được
căn cứ trên phẩm chất, năng lực chun mơn lẫn phẩm chất đạo đức của các kiểm
tốn viên.
Về năng lực chun mơn của kiểm tốn viên nội bộ phụ thuộc vào nội
dung công việc mà họ làm là kiểm tốn báo cáo tài chính hay kiểm tốn hoạt
động. Nếu là kiểm tốn báo cáo tài chính, doanh nghiệp địi hỏi người phụ trách
bộ phận kiểm tốn nội bộ phải có:
-

Bằng đại học chun ngành kế tốn và tài chính;

-

Có chứng chỉ kiểm tốn viên

-

Có 4 đến 5 năm kinh nghiệm chuyênmôn với tư cách là trợ lý kiểm
tốn .


-

Ngoại ngữ (ít nhất 2 ngoại ngữ, bắt buộc phải giỏi tiếng Anh hoặc tiếng
Pháp).

Nếu là kiểm toán hoạt động, các kiểm toán viên phải hiểu biết rất tốt về kỹ
thuật liên quan đến hoạt động của doanh nghiệp.
Về phẩm chất đạo đức kiểm toán viên nội bộ phải vận dụng những kỹ năng
và tính cẩn thận cần phải có của một kiểm tốn viên nội bộ, tức phải có đủ năng
lực và thận trọng nghề nghiệp đúng mức nhưng khong có nghĩa là khơng thể có
sai lầm.
* Trách nhiệm của kiểm toán viên nội bộ trong doanh nghiệp được quy
định như sau:
1. Kiểm toán viên nội bộ thực hiện nhiệm vụ theo kế hoạch kiểm toán đã
được Tổng Giám đốc, hoặc Giám đốc phê duyệt và chịu trách nhiệm trước
(Tổng) Giám đốc về chất lượng, về tính trung thực, hợp lý của báo cáo kiểm toán
và về những thơng tin tài chính, kế tốn đã được kiểm tốn.

21


2. Trong q trình thực hiện cơng việc, kiểm tốn viên nội bộ phải tuân thủ
luật pháp, tuân thủ các nguyên tắc và chuẩn mực nghề nghiệp về k iểm tốn, các
chính sách, chế độ hiện hành của Nhà nước.
3. Kiểm tốn viên phải khách quan, đề cao tính độc lập trong hoạt động
kiểm tốn. Khơng ngừng nâng cao năng lực chun mơn, cập nhật kiến thức, giữ
gìn đạo đức nghề nghiệp.
4. Tuân thủ nguyên tắc bảo mật các số liệu, tài liệu đã được kiểm toán
(loại trừ các trường hợp có u cầu của tồ án, hoặc các nghĩa vụ liên quan đến

tiêu chuẩn nghiệp vụ).
* Quyền hạn của kiểm toán viên nội bộ:
1. Được độc lập về chuyên môn nghiệp vụ. Không bị chi phối, hoặc can
thiệp khi thực hiện hoạt động kiểm tốn và trình bày ý kiến trong báo cáo kiểm
tốn.
2. Có quyền u cầu các bộ phận, cá nhân được kiểm toán và bộ phận có
liên quan cung cấp thơng tin, tài liệu phục vụ cho cơng tác kiểm tốn.
3. Được ký xác nhận trên báo cáo kiểm toán nội bộ do cá nhân tiến hành,
hoặc chịu trách nhiệm thực hiện theo nhiệm vụ kiểm toán được giao.
4. Nêu các ý kiến đề xuất, các giải pháp, kiến nghị, các ý kiến tư vấn cho
việc cải tiến, hồn thiện cơng tác quản lý, điều hành hoạt động sản xuất , kinh
doanh; ngăn ngừa các sai sót gian lận, các việc làm sai trái trong doanh nghiệp...
5. Được bảo lưu ý kiến đã trình bày trong báo cáo kiểm toán nội bộ, được
quyền đề nghị cơ quan chức năng của Nhà nước xem xét lại quyết định của
(Tổng) Giám đốc về bãi nhiệm kiểm toán viên.
Kiểm toán viên nội bộ do Tổng Giám đốc, Giám đốc trực tiếp bổ nhiệm và
bãi nhiệm. Kiểm toán viên nội bộ đã bị bãi nhiệm do vi phạm kỷ luật khơng được
bổ nhiệm lại. Kiểm tốn viên tuyệt đối khơng được đảm đương trách nhiệm điều
hành, hay quản lý kinh doanh ở doanh nghiệp.
5.2. Vai trị, vị trí của kiểm toán viên nội bộ trong doanh nghiệp
Kiểm toán viên nội bộ thường là những người được chọn ra từ phòng ban
trong doanh nghiệp, chủ yếu từ bộ phận tài chính, kế tốn thậm chí từ các phịng
vật tư hay phịng nghiệp vụ. Sau khi được bổ nhiệm các kiểm toán viên nội bộ
22


được đào tạo về nghiệp vụ kiểm tốn. Cũng có nhiều doanh nghiệp lớn, đặc biệt
các doanh nghiệp liên doanh hoặc có vốn đầu tư nước ngồi, kiểm tốn viên nội
bộ thường được tuyển chọn kỹ lưỡng.
Vị trí của bộ phận kiểm toán nội bộ trong doanh nghiệp nên đủ để cho

phép thực hiện các trách nhiệm kiểm toán. Bộ phận kiểm toán nội bộ được tổ
chức độc lập với các bộ phận quản lý và điều hành kinh doanh trong doanh
nghiệp (kể cả phịng kế tốn - tài chính); chịu sự chỉ đạo và lãnh đạo trực tiếp của
(Tổng) Giám đốc doanh nghiệp. Bộ phận kiểm toán nội bộ trực thuộc vào Ban
giám đốc vì hai lý do chủ yếu:
-

Bảo đảm được tính độc lập khách quan

-

Có thể thu thập không giới hạn các thông tin của đơn vị.

Các kiểm tốn viên nội bộ cần có sự hỗ trợ của ban quản lý và Hội đồng
quản trị để họ có được sự cộng tác của các đối tượng được kiểm tốn và thực
hiện cơng việc một cách tự do không bị can thiệp.
Theo yêu cầu của bộ phận kiểm tốn nội bộ, (Tổng) Giám đốc có thể cử
chun gia thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác trong doanh nghiệp, hoặc thuê
chuyên gia bên ngoài (nếu cần thiết) tham gia một số nội dung hoặc tồn bộ một
cuộc kiểm tốn.
Để đảm bảo cho sự độc lập cho hoạt động của kiểm toán nội b ộ, bộ phận
kiểm toán nội bộ nên và cần sự chỉ đạo trực tiếp của Ban giám đốc. Tối thiểu
kiểm toán viên phải nhất thiết là một người hoàn toàn độc lập với những người
chịu trách nhiệm trực tiếp về hoạt động được kiểm toán. Để giữ được tính độc
lập, kiểm tốn viên khơng được tham gia bất kỳ một hoạt đọng nào khác của
doanh nghiệp. Trong phạm vi trách nhiệm của mình, kiểm tốn nội bộ trợ giúp
Ban giám đốc kiểm soát hoạt động của đơn vị, Ban giám đốc phải được thông
báo một cách nhanh chóng, đúng đắn tất cả các vấn đề. Do vậy, kiểm tốn nội bộ
phải được thu thập khơng giới hạn thơng tin của đơn vị. Bộ phận kiểm tốn nội
bộ phải trả lời câu hỏi của Ban giám đốc, chứ không phải là cho các cổ đông hay

cho thành viên của Hội đồng quản trị.

23


6. Quy trình thực hiện một cuộc kiểm tốn nội bộ
Theo quy định tại điều 10 của quyết định số 832 /TC/QĐ/CĐKT ngày
28/10/1997 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, trình tự các bước cơng việc của một
cuộc kiểm tốn nội bộ như sau:
1. Lập kế hoạch và lựa chọn phương pháp kiểm tốn
- Lập chương trình kế hoạch, xác định mục tiêu, nội dung, phạm vi và thời
gian tiến hành kiểm tốn nội bộ;
- Xác định quy mơ cuộc kiểm toán; phương pháp, cách thức tiến hành
kiểm toán, biện pháp tổ chức thực hiện; tổ chức lực lượng kiểm toán (bao gồm cả
kiểm tốn viên trong, ngồi doanh nghiệp và các nhân viên chun mơn cần huy
động).
Tuỳ theo tính chất của cuộc kiểm toán, kiểm toán viên phải lựa chọn và áp
dụng những phương pháp, thủ tục kiểm toán phù hợp với mục tiêu và yêu cầu
kiểm toán. Thủ tục và phương pháp kiểm toán được lựa chọn và áp dụng gồm
quan sát, kiểm kê thực tế, xác minh, xem xét; đối chiếu văn bản, tài liệu, chế độ,
luật lệ; thu thập và đánh giá các bằng chứng; tính tốn, so sánh, phân tích, kiểm
tra trên máy vi tính; tổng hợp, lựa chọn thông tin, xác định nguyên nhân và mức
độ liên quan của từng nguyên nhân; dự đoán, dự báo xu hướng, khả năng; và các
bước kiểm tra, đánh giá khác mà kiểm toán viên xét thấy cần thiết phải tiến hành
trong từng trường hợp cụ thể.
2. Công tác chuẩn bị kiểm toán
- Nghiên cứu các văn bản, tài liệu liên quan đến tình hình hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp, nhiệm vụ kế hoạch và các điều kiện, biện pháp, các
chính sách, quy định của doanh nghiệp trong kỳ kinh doanh sẽ kiểm toán. Sơ bộ
đánh giá những thay đổi về điều kiện và môi trường hoạt động kinh doanh ảnh

hưởng đến các mặt hoạt động của doanh nghiệp;
- Tìm hiểu chính sách, quy định mới và các chủ trương, biện pháp phát
sinh trong kế toán, kiểm toán;
- Xem xét các báo cáo, tài liệu, hồ sơ kiểm tốn trước đó (nếu có), kể cả
các tài liệu bên ngồi doanh nghiệp có liên quan đến cuộc kiểm tốn; tóm tắt các

24


thơng tin cần phải kiểm tra trong q trình kiểm toán sắp tới; thu thập và chuẩn
bị các mẫu, các chương trình, các chỉ dẫn cho cuộc kiểm tốn sẽ được tiến hành.
3. Thực hiện việc kiểm toán
- Trong quá trình kiểm tốn, kiểm tốn viên nội bộ phải xem xét, thu thập
và đánh giá đủ các bằng chứng cần thiết có liên quan, kể cả các chứng cứ bên
ngồi doanh nghiệp...;
- Xem xét, đánh giá và việc thực hiện các chính sách, quy định trong thực
tế hoạt động của doanh nghiệp.
- Đánh giá khả năng sai sót, nhầm lẫn, gian lận đối với từng loại nghiệp
vụ, từng hoạt động kinh tế. Đánh giá tính trọng yếu và rủi ro của các nghiệp vụ
phát sinh trong nội bộ doanh nghiệp.
- Thực hiện phân tích, khảo sát các khoản mục chính, khảo sát bổ sung các
chi tiết; xem xét các sự kiện tiếp sau, đánh giá kết quả cuộc kiểm toán.
- Các bước tiến hành thực hiện cuộc kiểm toán phải theo đúng quy trình
của một cuộc kiểm tốn và các bước tiến hành kiểm toán p hải được ghi nhận trên
tài liệu, hồ sơ kiểm toán.
4. Kết thúc cuộc kiểm toán
* Khi kết thúc cuộc kiểm toán
Kiểm toán viên nội bộ phải lập báo cáo kiểm toán;
Báo cáo kiểm toán phải trình bày đầy đủ các nội dung và kết quả kiểm
toán theo mục tiêu, yêu cầu đã đề ra cho từng cuộc kiểm tốn; xác nhận tính đầy

đủ, hợp lý của báo cáo tài chính, báo cáo kế tốn quản trị hàng năm trước khi
trình ký duyệt; đề xuất các kiến nghị và biện pháp xử lý các sai sót, gian lận, các
vi phạm, nêu các giải pháp cần thiết để nâng cao chất lượng và hiệu quả quản lý
kinh doanh của doanh nghiệp;
Báo cáo kiểm toán được gửi cho Chủ tịch Hội đồng quản trị, cho (Tổng)
Giám đốc doanh nghiệp. Việc lưu hành và công bố báo cáo kiểm tốn nội bộ tuỳ
theo tính chất kiểm tốn và do Chủ tịch Hội đồng quản trị, (Tổng) Giám đốc
quyết định. Riêng báo cáo kiểm tốn báo cáo tài chính, báo cáo kế tốn quản trị
được đính kèm báo cáo tài chính, báo cáo kế tốn quản trị trước khi lưu hành.

25


×