Tải bản đầy đủ (.doc) (33 trang)

Kế thừa những tư tưởng giáo dục về giáo dục của khổng tử trong việc xây dựng nền giáo dục nước ta hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (167.98 KB, 33 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài.
Lịch sử luôn luôn chứng tỏ rằng, con người là chủ thể của mọi quá trình
lịch sử xã hội, chủ thể của sự phát triển chính mình. Đất nước muốn được kiến
tạo, xã hội muốn được phát triển khơng có con đường nào khác hơn là coi trọng
giáo dục, đào tạo nhân tài.
Người có cơng đầu tiên nhận thấy vai trị quan trọng và cần thiết để thúc đẩy sự
phát triển của xã hội, đưa xã hội thịnh trị đó là Khổng Tử. Với hệ thống tư tưởng về
giáo dục khá hoàn chỉnh của mình Khổng Tử xứng đáng được suy tơn là "sư vạn biểu"
Nền giáo dục nước ta đã kế thừa tư tưởng về giáo dục của Nho giáo nói
chung, của Khổng Tử nói riêng. Trải qua bao thăng trầm của lịch sử, sự kế thừa
ấy đã có những sáng tạo, phát huy cho phù hợp với từng giai đoạn, hoàn cảnh
lịch sử nhất định.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định "giáo dục là quốc sách hàng đầu" chính
vì thế trong văn kiện Hội nghị lần thứ hai BCH Trung ương khoá VIII đã xác
định nhiệm vụ và mục đích cơ bản của giáo dục Việt Nam là "nhằm xây dựng
những con người và thế hệ tha thiết gắn bó với lý tưởng độc lập và Chủ Nghĩa
Xã Hội có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, gìn giữ và phát huy các giá trị văn hố
của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại phát huy tiềm năng
của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích
cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tư duy
sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi có tác phong cơng nghiệp, có tính tổ chức
và kỷ luật, có sức khoẻ là những người kế thừa xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội vừa
hồng vừa chuyên như lời căn dặn của Bác Hồ". Đến đại Hội Đảng lần IX, một
lần nữa Đảng ta khẳng định "Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố hiện đại hoá
đất nước là điều liện phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát
triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững".
1



Tuy nhiên hiện nay, nền giáo dục nước ta nhìn chung vẫn cịn nhiều bất
cập từ mục đích dạy - học, phương pháp giảng dạy, nội dung dạy và yêu cầu chất
lượng dạy và học cũng như việc sử dụng nhân tài của nước ta đang còn nhiều
tranh cãi.
Nhằm tổng kết đánh giá lại vai trò học thuyết giáo dục của Khổng Tử cũng
như nền giáo dục của Việt Nam - một trong những vấn đề bức xúc hiện nay - từ
đó thấy được những giá trị trong học thuyết giáo dục của Khổng Tử đã và đang
đặt ra cho nền giáo dục Việt Nam hiện nay nhiều vấn đề cần suy nghĩ. Chính vì
thế chúng tơ đã chọn tài "Kế thừa những tư tưởng giáo dục về giáo dục của
Khổng Tử trong việc xây dựng nền giáo dục nước ta hiện nay" để làm bài khố
hết mơn học.
II. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu.
- Đề tài được xác định hai mục tiêu
+ Trên cơ sở tìm hiểu, đánh giá học thuyết giáo dục của Khổng Tử và tư
tưởng giáo dục của Hồ Chí Minh trong cơng cuộc giữ nước và xây dựng đất
nước.
+ Từ đó đánh giá nền giáo dục hiện nay, đưa ra các kiến nghị nhằm nâng
cao chất lượng dạy và học hiện nay
- Nhiệm vụ
+ Khái quát tư tưởng giáo dục của Khổng Tử về giáo dục
+ Tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử về giáo dục
+ Tư tưởng về giáo dục của Hồ Chí Minh
+ Đưa kiến nghị, đề xuất nhằm nâng cao chất lượng dạy và học hiện nay
III. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu
- Phạm vi:
.Nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử về vấn đề giáo dục
.Nghiên cứu những tư tưởng của Hồ Chí Minh về vấn đề giáo dục
- Phương pháp: Nghiên cứu tài liệu
IV. Kết cấu đề tài,

Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, mục lục, đề tài có kết cấu hai chương
2


Chương 1: gồm 2 tiết, 14 trang
Chương 2 : gồm 3 tiết, 15 trang
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ GIÁO DỤC
1.1. Sự ra đời của học thuyết về giáo dục của Khổng Tử
1.1.1. Về kinh tế.
Từ thế kỷ VIII tr.CN, xã hội Tây Chu bước vào thời kỳ Xuân Thu (770 481 tr.CN) gây nhiều biến dộng trong xã hội . Thời gian này đồ sắt xuất hiện phổ
biến đã đem lại sự phát triển mạnh mẽ của nền sản xuất nông nghiệp và thủ công
nghiệp. Đây cũng là thời kỳ khởi sắc của nền kinh tế thương nghiệp, những
thành thị thương nghiệp được hình thành. Con đương buôn bán xuất hiện xuất
nhập nhộn nhịp ở các nước Hàn - Tề - Tần - Sở. Thành thị đã có một số cơ sở
kinh tế tương đối độc lập, từng bước tách ra khỏi chế độ thành thị thị tộc của quý
tộc thị tộc, thành những đơn vị khu vực của tầng lớp địa chủ mới lên (Hiển tộc)
và trở thành "Hai đô thị sánh nhau trong nước" (Kinh Thi). Sự phát triển của sức
sản xuất, kinh tế phát triển đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở hữu ruộng đất
và kết cấu giai tầng của xã hội, những người giàu có mua ruộng đất trở thành sở
hữu riêng biệt của họ. Chính vì thế giai cấp q tộc thị tộc Chu bị mất đất, mất
dân, địa vị kinh tế ngày càng sa sút. Vai trị chính trị, ngơi Thiên tử của nhà Chu
chỉ cịn là hình thức. Sự phân biệt sang - hèn dựa trên tiêu chuẩn huyết thống của
chế độ thị tộc tỏ ra khơng cịn phù hợp nữa mà đòi hỏi phải dựa trên cơ sở tài
sản.
Như vậy, những biến động kinh tế đã dẫn đến sự đa dạng trong kết cấu
giai tầng của xã hội. Giai tầng mới - cũ đan xen và mâu thuẫn ngày càng gay gắt.
1.1.2 Về chính sự xã hội
Tư hữu hố ruộng đất đã ảnh hưởng đến tình hình chính trị của nhà Chu.
Các chư hầu của nhà Chu không chịu phục tùng vương mệnh, không chịu cống
nạp và mang thơn tính lẫn nhau. Nhà Chu suy yếu. Xã hội mất ổn định do nền

kinh tế phát triển, chứng tỏ chế độ chiếm hữu nô lệ ở Trung Quốc mà quản lý
3


bằng tổng pháp khơng cịn phù hợp nữa. Những mâu thuẫn trong lịng xã hội địi
giải thể chế độ nơ lệ thị tộc, tiến nhập vào xã hội phong kiến, đòi hỏi nhà nước
của chế độ gia trưởng, xây dựng nhà nước của giai cấp quốc dân giải phóng lực
lượng sản xuất, mở đường cho xã hội phát triển. Do nhà Chu suy yếu lúc này xã
hội "chú trọng dối trá và vũ lực mà coi thường nhân nghĩa, coi trọng của cải mà
đánh giá thấp sự khiêm tốn nhún nhường, cho nên có những thương gia giàu có
đến trăm triệu mà có người nghèo ăn cám mãi khơng biết chán, có những nước
mạnh thơn tính các nước nhỏ, bắt chư hầu phải thần phục lại những nước yếu,
phải tuyệt tự và tiêu diệt" (Sử Ký Tư Mã Thiên).
1.1.3. Về khoa học - văn hoá, tư tưởng
Xã hội đang chuyển mình dữ dội, kinh tế phát triển, tầng lớp dân tự do
xuất hiện, các thành thị tự do phồn vinh và những thành quả đạt được trên lĩnh
vực khoa học tự nhiên là nguồn động lực quan trọng cho sự phát triển có tính
chất đột biến của tư tưởng thời kỳ.
Thời kỳ này thiên văn phát triển, trong y học phát hiện nhiều cây thuốc,
biết cách chữa bệnh bằng bấm huyệt tìm ra mực và chữ viết trên lụa. Ngồi ra,
thời kỳ này cũng tìm ra được diện tích của tam giác, hình vng, cách đo lường
và nghiên cứu những dạng chuyển động cơ học. Thời gian này ngành luyện kim,
đúc đồng cũng phát triển cao.
Về văn hoá tư tưởng, thời kỳ này tình hình xã hội có nhiều chuyển biến,
phân hố giai cấp, từ đó làm xuất hiện nhiều hệ thống học thuyết chính trị, đạo
đức bàn về xã hội , các vương hầu đua nhau thực hiện chính sách "chiêu hiền",
"đãi sĩ" với mong muốn có những chính sách hữu hiệu. Nhiều tụ điểm (như nhà
Mạnh Thường Quân) mà ở đó "kẻ xử sĩ bàn ngang" hay "bàn việc nước" xuất
hiện. Họ đều đứng trên lập trường của giai cấp mình, tầng lớp mà phê phán trật
tự xã hội cũ, xây dựng (trong tư tưởng) xã hội tương lai và tranh luận, phê bình,

đả kích lẫn nhau. Chính trong q trình tranh minh đó đã đẻ ra những nhà tư
ưởng vĩ đại (Khổng Tử, Lão Tử, Hàn Phi Tử...) với những học thuyết khá hoàn
4


chỉnh có ngơn ngữ và ý nghĩa khá chặt chẽ tồn tại và ảnh hưởng sâu đậm trong
lịch sử tư tưởng Trung Quốc mãi cho tới thời cận đại. Nhiều triết thuyết xuất
hiện như Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, Mặc gia, Âm - dương gia... tất các triết
thuyết đều chú trọng tới việc tìm kiếm nguyên nhân và đưa ra giải pháp nhằm ổn
định trật tự xã hội.
- Đạo gia cho rằng nguyên nhân xã hội mất ổn định là do con người tranh
giành nhau, vì vậy học thuyết này khuyên con người đừng tranh giành nhau và
thực hiện "vô vi vô bất vi" (làm nhưng đừng để người biết mình làm).
- Mặc gia cho rằng nguyên nhân sâu xa để xã hội suy là do con người
không yêu thương nhau. Vì vậy ơng chủ trương "kiêm ái", có nghĩa là mọi người
cùng thương yêu nhau, cùng làm lợi cho nhau.
- Pháp gia lại cho rằng nguyên nhân gây rối loạn xã hội là do luật pháp
không nghiêm, do đó phải dùng pháp trị để ổn định trật tự xã hội.
Khổng Tử lại cho rằng xã hội loạn lạc bởi con người vô đạo, vua không
giữ đúng đạo vua, tôi không làm giữ đúng đạo tôi, cha không giữ đúng đạo cha,
con không làm đúng đạo con cho nên thiên hạ "đại loạn". Do đó, cần phải đưa
con người về "hữu đạo", sống theo "chính danh" của mình, lập lại kỷ cương
"quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử" (Luận ngữ, Nhan Uyên - 11) bằng con
đường giáo hoá. Đạo và giáo là hai vấn đề lớn trong quan niệm của Khổng Tử.
Đạo nhờ có giáo mới vững, sâu sắc, rộng khắp; giáo mà khơng có mục đích nào
cao quý hơn là làm cho con người vững đạo.
Theo Khổng Tử, giáo dục sẽ dẫn dắt con người ta biết và thực hiện đạo
làm người, đó là "gốc tựa như sao Bắc đẩu sáng ở một chỗ, mọi sao khác đều
quy về". Như vậy, ông lấy giáo dục làm tối trọng đại và nó có mục đích lấp đầy
các hố phân chia giai cấp xã hội, là yếu tố quyết định trong sự thi hành chủ

trương chính trị, đức hố dân trị, lấy nhân cách gương mẫu để trị dân mong nâng
ở mỗi người dân lên trình độ "hữu sĩ thả cách" (biết liêm sĩ là có nhân cách).
5


Từ những tư tưởng ấy mà Khổng Tử đã dưa ra tư tưởng về giáo dục con
người. Với học thuyết về giáo dục được suy tôn là "nhà mô phạm đầu tiên tiêu
biểu cho nhà giáo mn đời". Ơng là người thầy hết lịng vì sự nghiệp "mặc nhi
chí chi, học nhi bất yếm hối nhân bất huyện, hà hữu ư ngã tại" (im lặng mà nhớ,
học mà chẳng chán, dạy người khơng mỏi, ba điều ấy ta có được điều nào) (luận
ngữ - thuật nhi 2).
1.2. Nội dung tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử
1.2.1. Quan điểm về con người và đào tạo con người của Khổng Tử
Khổng Tử ảnh hưởng của quan điểm triết học cổ cho rằng "bẩm thụ bởi
khí" - con người chính là sự điều hố của khí. Con người - trời - đất là nhất thể.
Theo Khổng Tử con người là bẩm sinh là người ngay thẳng "nhân chi sinh đã
trực, vòng chi sinh dã hạnh nhị miễn" (người ta sinh ra có tính ngay thẳng, người
nào khơng ngay thẳng sống được là may khỏi (hoạ) đó thơi) (Luận ngữ - Ung dã
- 17) nhưng do thói quen con người xa nhau "tính tương cận dã, tập tương viễn
dã" (Khi mới sinh ra tính của mọi người cũng gần gống nhau, sau vì tập quán,
mới cùng xa nhau) - (Luận ngữ - Dương hoá - 2). Như vậy theo hổng Tử, con
người ban đầu, nguyên sơ do cha mẹ sinh ra, trời đất bẩm thụ căn bản là giống
nhau, song con người hiện thực lại không như vậy, mỗi người mỗi vẻ "tập tương
viễn". Đó là do con người có điều kiện sống, hồn cảnh sống khác nhau, có sự nỗ
lực nhận thức và hành động mỗi cá nhân khác nhau. Những nhân tố đó tạo nên
những sắc thái riêng của từng cá nhân. Bởi vậy bên cạnh việc nhấn mạnh nhân tố
giáo dục, giáo dưỡng Khổng Tử còn đề cao tư tưởng "tu thân". Đây là quan điểm
chứa nội dung nhân bản và tiến bộ. Song đơi lúc ơng cịn lại bị chi phối bởi lập
trường giai cấp, những dấu ấn về tư tưởng, tơn giáo chính trị của thời đại làm
cho tư tưởng của ông dường như mâu thuẫn. Bên cạnh việc khẳng định con

người chịu sự chi phối của hoàn cảnh do đó con người phải được giáo dục để
hồn thiện mình thì theo Khổng Tử có thiên mệnh quy định số phận của con
người "Duy thượng trí, dữ hạ ngu bất di" (Chỉ có bậc trí thức ở trên, kẻ ngu dốt
6


ở dưới là khơng thay đổi) . Do đó, tư tưởng về con người của ông vừa duy tâm,
vừa duy vật, vừa tiến bộ, vừa bảo thủ.
Tóm lại theo Khổng Tử con người cần được giáo dục, với tính thiện thì
phải "tồn kỳ tâm, dưỡng kỳ tính" (bảo tồn lương tâm, ni dưỡng tính thiện), đối
với tính ác cần phải chế ngự dục vọng hướng con người tới các phẩm chất: nhân,
nghĩa, lễ, trí, tín để sống đúng "danh", "vị" của mình.
1.2.2 Đối tượng giáo dục
Khổng Tử chủ trương "hữu giáo vô loại" (Luận ngữ - Vệ Linh công-28),
ông dạy học cho tất cả mọi người, không phân biệt đẳng cấp, sang hèn "từ người
đem gói nem đến ta chưa từng không dạy ai" (Luận ngữ - thuật nhi - 7). Đây là
điểm tiến bộ của ơng, nếu trước đó nền giáo dục chỉ chú ý đến tầng lớp con em
q tộc thì Khổng Tử có quan niệm bình đẳng trong giáo dục, dạy không những
cho con em quý tộc mà còn dạy cho cả con em tầng lớp nhân dân lao động.
Theo Khổng Khâu "sinh nhi tri chi giả thượng dã. Học nhi tri chi giả thứ
giả, khốn nhi học chi hựu kỳ thứ giả. Khốn nhi bất học dân tư vi hạ hý" (Luận
ngữ - Quý Thị - 9). Như vậy, Khổng Tử đã phân biệt thiên hạ thành bốn hạng
người: có hạng sinh ra là biết, có hạng do học mà biết, có hạng do khó khăn khốn
khổ mà biết, và hạng không bao giờ xê dịch. Hạng thứ nhất là hạng những người
"trí lên cao" (thượng trí) có thể coi như là cực kỳ hiếm nếu khơng phải là khơng
có trong thực tế. Hạng thứ tư là hạng những người "hạ ngu" thì khơng thể tự
mình xê dịch đi đâu cho đúng đạo, chỉ cần nói theo các hạng trên là được. Bởi
vậy đối tượng cần nhằm vào để làm cho biết đạo, hiểu đạo là hạng thứ hai và
hạng thứ ba. Trong đó, hạng thứ hai là đối tượng đáng chú ý nhất. Nhìn vào xã
hội nhà Chu nói riêng và xã hội cũ nói chung, hạng ấy bao gồm những người

thuộc các tầng lớp thường thường bậc trung, các tầng lớp khá giả và các tầng lớp
bên trên, nghĩa là những người có điều kiện để trở thành những nho và sĩ. Học
được, những người ấy sẽ có tác dụng tích cực quan trọng đốivới hạng người phải
do khó khăn khốn khổ mới biết cũng như đối với hạng người chỉ có thể "noi
7


theo" chứ không thể "biết" thật sự. Vậy ông chủ trương đối với dân việc gì cần
thiết thì sai khiến chứ khơng nên giảng giải vì dân hơng có khả năng hiểu ý nghĩa
cơng việc mình làm. Cho nên giáo dục có thể cải hố tất cả, trừ những người gọi
là thượng trí và những kẻ hạ ngu.
Nhìn chung, đối tượng giáo dục của Khổng Tử là đào tạo những con người
thuộc giai cấp thống trị, đào tạo những người thuộc giai cấp khác nhưng có thê
bổ sung cho giai cấp thống trị và đào tạo những người dân biết "đạo" để dễ bề sai
khiến.
Ơng có quan niệm như vậy bởi vì mục tiêu của ơng là cần đào tạo bổ
sung cho đội ngũ giai cấp thống trị, làm cho mọi người làm đúng "danh" xứng
với "phận" của mình, đồng thời tạo ra tầng lớp "sĩ" nhằm giúp giai cấp quý tộc
trị nước thay thế hạng quý tộc thiếu đức, thiếu tài.
1.2.3. ý nghĩa và mục đích giáo dục.
1.2.3.1. Ý nghĩa
Đối với Khổng Tử ý nghĩa tối đại của giáo dục là cải đạo nhân tính. Ngài
khơng hay nói nhân tính, thiện ác. Nhân tính đối với ngài trà trộn cả thiện lẫn ác.
Ông chỉ coi trọng về hiệu quả giáo dục là phần hậu thiên. Thiện ác của nhân loại
đều do giáo dục hậu thiên quyết định. Muốn con người trở về chỗ thiện bản thiên
thì phải giáo dục, nghĩa là giáo dục hoà được ác thành thiện, "tu đạo chi vị giáo"
(giáo dục là tu sửa cái đạo làm người) (Trung Dung), hay "đại học chi đạo tại
minh minh đức" (cái học làm người lớn ở chỗ làm rạng cái đức sáng) - (Đại học).
Vậy "tư đạo" và "minh đức" là mục đích tối cao của giáo dục trong việc cải tạo
nhân tính theo Khổng Nho. Khổng Tử quan niệm cái giáo dục để cải tạo nhân

tính ấy chỉ có tính chất mở mang tri thức, giải thích vũ trụ mà thôi, Khổng Tử
chú trọng đến nhân cách đầy đủ, lấy giáo dục để mở mang cả trí, tình lẫn ý, hay
là trí, nhân, dũng, cốt sao dạy người hoàn thành con người đạo lý. Cho nên sách
Trung Dung viết "tự minh thành vị chi giáo" (tự sáng tỏ đến chỗ thành thật gọi là
giáo dục), đối với người quân tử "học dĩ chí kỳ đạo" (học để đến được đạo lý 8


Tử Hạ). Như vậy giáo dục có ý nghĩa trọng yếu phi thường. Nên bất cứ một thiên
tài lỗi lạc như thế nào nếu không để cho giáo dục uốn nắn thì cũng khơng thể
thành một nhân cách hồn tồn được.
1.2.3.2. Mục đích giáo dục: theo Khổng Tử giáo dục có ba mục đích
chính.
+ Học dĩ chí dụng:
Học để ứng dụng cho có ích với đời "tụng thi tam bách, thụ chi dĩ chính
bất đạt, sứ ư tứ phương, bất năng chuyên đối, tuy đa diệc hề dĩ vi" (tử Lộ - 13),
dù đọc ba trăm bài Kinh Thi nhưng đi sứ khơng trịn thì học có ích chi.
+ Hồn thành nhân cách:
Ngày xưa học vì mình thì bây giờ học vì người khác "cổ chi học giả vị kỷ,
kim chi học giả vị nhân" (Hiến vấn - 25). Như vậy theo Khổng Tử, giáo dục
học tập có mục đích hoàn thành nhân cách để ứng dụng với đời. Đây là kết
quả của quá tình giáo dục "tử dĩ tứ giáo: văn, hành, trung, tín" là ba mục
thuộc về phương diện nhân sinh, hành vi, đại biểu cho nhân cách của một cá
nhân hành động ở đời vậy.
+ Tìm tịi chân lý:
Khổng Tử hết sức phản đối cái học cầu lợi, tranh đấu về quyền lợi mà chú
trọng vào mục đích tìm chân lý trong việc giáo dục. Chân lý ở đây tức là đạo lý,
cho nên ngoài định nghĩa cho giáo dục là: "tu đạo chi vị giáo" (tu sửa đạo lý gọi
là giáo dục), do đó "sớm nghe đạo lý tối chết có thể được vậy" (Luận ngữ - Lý
nhân 4)
Tóm lại, theo Khổng Tử, giáo dục nhằm ba mục đích lớn là học dĩ chí

dụng, hồn thành nhân cách và tìm tịi chân lý. Suy đến cùng chính là nhằm tạo
ra lớp người mẫu mực trong xã hội để họ ra làm quan giúp đời "trong lúc xã tắc

9


rối ren không ra làm quan không phải là người trí, khơng ra giúp đời khơng
phải là người nhân" (Dương hố - 1).
1.2.4. Nội dung dạy học
Từ cách nhìn Nho giáo về các vấn đề chính trị xã hội, từ cách quan niệm
của Khổng Tử về con người đã quy định nội dung đào tạo con người. Đó là
thơng qua các sách Tứ Thư, Lục Kinh ( Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch, Xuân Thu) để
dạy con người biết đạo và hành đạo nhằm đưa xã hội trở về "hữu đạo".
Nội dung đào tạo là truyền bá cho mọi người hiểu và thực hiện đạo làm
người. Đó là đạo vua - tôi, đạo cha - con, đạo chồng - vợ, đạo anh - em, đạo bằng
- hữu, đạo thầy - trò... làm cho con người hữu đạo, nhà nhà hữu đạo, cá nước hữu
đạo, thiên hạ hữư đạo. Khổng Tử thiên về giáo dục, chính trị, đạo dức.
Đào tạo con người được chú trọng trước hết đến khía cạnh nhận thức theo
phương châm "tiên học lễ, hậu học văn". Đây là nội dung cơ bản của Nho giáo.
"Lễ" là phạm trù có từ rất lâu. Thời thượng cổ "lễ" được hiểu sự cúng tế thần
linh, thời Tây Chu, Chu Công định lễ để duy trì trật tự xã hội là "tổng pháp", lễ
lúc đó có nội dung chính trị, sang các đời sau lễ được mở rộng ra là phong tục
tập quán. Đến đời Đông Chu, Khổng Tử sử dụng "lễ" để chỉ nội dung mới là
luân lý, là kỷ luật tinh thần. Ông sửa đổi lễ nhà Chu cho phù hợp với hồn
cảnh xã hội lúc bấy giờ.
Về hình thức, lễ chỉ là một trong năm điều Ngũ thường (nhân - lễ - nghĩa trí - tín) nhưng về thực chất nó vẫn giữ vai trị chi phối. Do đó bất kỳ người nào
cũng phải thực hiện "lễ", đó là cơ sở để phân biệt phải, trái, đúng, sai. Theo
Khổng Tử giáo dục đạo đức là hàng đầu, "bất chi lễ, vơ dĩ lập dã", nếu khơng
học lễ thì chẳng biết cách đứng được với đời. Tuỳ việc phân chia khả năng nhận
thức của con người, Khổng Tử chia nội dung giáo dục thành hai loại tương ứng.

10


- Bậc hạng trung trở lên thì giảng đạo lý cao sang, đạo đức, ngơn ngữ,
chính trị, văn học.
- Bậc thấp đến bậc vừa thì chủ yếu dạy Lục nghệ :lễ, nhạc, xạ, ngư, thư, số.
Như vậy, nội dung đào tạo khơng chỉ là tri thức sách vở mà cịn là
những hoạt động trong cuộc sống. Những nội dung ấy thể hiện qua Tứ thư,
Ngũ Kinh cụ thể:
- Sách "đại học": sách học để làm quan, bàn đến những vấn đề dạy và học
như thế nào.
- Sách "trung dung": đề cập đến cách cư xử, xử thế giữa người với
người.
- Sách "luận ngữ": chủ yếu là học trò ghi chép và luận bàn những điều
Khổng Tử dạy.
- Mạnh Tử: đề cập chủ yếu đến mối quan hệ vua - tôi, xây dựng một nền
chính trị hợp lịng dân.
- Kinh Dịch: nói lên sự biến đổi theo đạo, đó là nhân - trung - chính, tức là
theo lẽ phải, theo quy luật của tạo hố để sửa mình.
- Kinh Thư: sách chép những lời vua - tôi dạy bảo khuyên răn nhau từ thời
Nghiêu Thuấn đến Đông Chu.
- Kinh Thi: là bộ sách tập hợp các bài thơ ca (305) từ thời Thượng cổ tới
thời vua Bình Vương nhà Chu, gồm ba bộ phận: phong, nhã, tùng. Sách nói về
mười năm quốc phong tình cảm của con người với thiên nhiên, xã hội, và với
con người. Người Trung Quốc quan niệm "thi" quan trọng bởi vì "thi dĩ ngơn
chí, văn dĩ tại đạo".
- Kinh Lễ: là bộ sách ghi chép những nghi lễ, tế tự của con người thời ấy
- Kinh Xuân Thu: do Khổng Tử viết, ghi chép vài sự kiện từ thời Lỗ Uẩn
Công đến Lỗ Ai Công. Sách chứa nhiều tri thức về thiên văn học.
- Nhạc: làm cho lịng người hưng khởi.

Trong đó, Khổng Tử chú trọng đến Kinh Thi, Kinh Thư và Kinh Lễ bởi vì:
11


- Kinh Thi: giúp người ta mở rộng tri thức.
- Kinh Thư: dạy việc trị nước.
- Kinh Lễ: dạy người ở đời có qui lễ, phép tắc.
Tóm lại nội dung giáo dục cơ bản của Khổng Tử là thông qua sách vở để
giáo dục chính trị - đạo đức, giáo dục đạo làm người (chỉ đối với tầng lớp trên,
còn đối với tầng lớp dưới biết "đạo" để làm theo, phục tùng theo mà thơi). Hạn
chế ở chỗ ít đề cập đến giáo dục khoa học kỹ thuật.
1.2.5. Những nguyên lý và phương pháp giáo dục.
- Dạy phù hợp với điều kiện tâm sinh lý, chứ khơng có tính cách võ đốn
trước tiên phải ni cho tình cảm nảy nở rồi mới ước thúc vào khuôn phép "Ta
15 tuổi để chí vào sự học, đến 30 thì giữ vững được trí khơng cịn thay đổi, 40
hết nghi hoặc, 50 biết được thiên mệnh, 60 thì tai nghe đã thuận đạo trời, 70 thì
tuỳ theo lịng muốn mà khơng ra ngồi phép tắc tức là nhập diệu vào hoà điệu
đạo lý Thiên địa nhân vậy" (Luận ngữ - vi chính - 4). Sau đó phải điều hồ các
sự mâu thuẫn xung đột ở thâm tâm "Khởi hứng bằng Kinh Thi, uốn nắn bằng kỷ
luật phép tắc, hoàn thành ở nhạc" (Luận ngữ - thái bá - 8). Vì thơ ca làm cho
tính tình nảy nở phong phú nhất là thơ ca có ý vị song một khi tính tình đã bồng
bột thì phải đưa vào khn phép kỷ luật để khỏi vọng động dâm đãng. "Tình" rồi
đến "lý", cả hai chuyển hố đến nhau, thành một tâm hồn qn bình đầy đủ.
- Học phải đi đôi với hành
Theo Khổng Tử học phải đi đôi với thực hành "học nhi thời tập chỉ" (Luận
ngữ - học nhi - 1) - học lý thuyết mà luôn luôn thực nghiệm, tập lại như chim
non tập bay. Học tập phải có suy nghĩ tư lự chứ khơng phải chỉ đọc, thuộc lịng
nhớ sách như vẹt "học nhi bất tư tắc võng, thư nhi bất học tắc đãi'' tức là học mà
chẳng suy nghĩ thì viển vơng mờ mịt khó hiểu. Suy nghĩ khơng có mục đích nhất
định khơng đi đơi với sự học thì nguy khốn. (Luận ngữ - Vi chánh - 15) có như

thế thì mới biết được điều mới, trí sáng kiến mới mở mang. Vậy học phải biết
được điều mới, trí sáng kiến mới mở mang "ôn cố nhi tri tân, khả dĩ vĩ sư hỹ"
12


(Luận ngữ...). Ôn lại điều cũ mà biết được điều mới, phải "nhật tri kỳ sở vở,
nguyệt vở vong kỳ sở năng, khả vi hiếu học dã di hỹ" - mỗi ngày biết được điều
mình chưa biết, mỗi tháng khơng quen điều mình đã biết, có thể là người ham
học vậy (tử trương - 5).
Khổng Tử chú trọng giáo dục con người toàn diện, một nhân cách đầy đủ
cho nên trong cái lục nghệ giáo dục trừ lễ nhạc ra còn cả phần vận động sinh
hoạt nữa, như sạ (bắn), ngự (cưỡi ngựa), thư (học, viết, vẽ) và số (học tính tốn).
Thơng Lục nghệ là một người có sự giáo dục đầy dủ cả lý thuyết lẫn thực hành,
sẵn sàng ra đời, đem cái kinh luận để kinh doanh, tế thế "Bác học chi, thẩm vấn
chi thận tư chi minh biện chi, đốc hành chi. Hữu phất học, học chi phất năng,
phất thố dã. Hữu phất vấn, vấn chi phất, tri phất thố dã Hữu phất tư, tư chi phất
đắc phất thố dã. Hữu phất biện biện chi phất minh phất thố dã. Hữu phất hành,
hành chi phất đốc phất thố dã. Nhân nhất năng chi kỷ bách chi. Nhân thập năng
chi kỷ thiên chi. Quả năng thử đạo hỹ, tuy ngu tất minh, tuy nhu tất cương".
(Trung Dung). Như vậy, học cho rộng, tìm tịi nhiều, suy nghĩ cẩn thận, biện
bạch sáng suốt, hành động nỗ lực. Có điều chưa học mà chưa có thể làm được,
thì khơng bỏ dở. Có điều khơng hỏi, hỏi mà chưa biết khơng bỏ dở. Người ta có
thể được một điều mình có thể lấy trăm điều. Người ta có thể được mười điều,
mình có thể lấy ngàn điều. Nếu thực giữ được cái đạo ấy thì dù có là người ngu
đần cùng trở nên minh triết. Dù có là hạng nhu nhược ắt cũng trở nên cương
quyết. Đấy là một quan niệm tối cao về giáo dục lý tưởng của họ Khổng.
- Quá trình giáo dục là quá trình trao đổi giữa thầy và trò. Trò hỏi thầy đáp
hoặc thầy hỏi trò thưa, nhằm phát huy tính năng động chủ quan và sự độc lập
sáng tạo của người học. Khổng Tử nói "kẻ nào khơng bực tức vì khơng hiểu
được, thì ta không chỉ bảo cho mà biết được. Kẻ nào chẳng hậm hực vì khơng tỏ

ý kiến của mình, thì ta chẳng khai phát cho mà nói ra được... kẻ nào đã biết rõ
một góc nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết ln cả ba góc kia, thì ta chẳng
dạy cho kẻ ấy nữa" (Luận ngữ - thuật nhi 8). Ông yêu cầu người học phải biết
13


quan sát tinh tường và biết suy luận từ một vật mà biết những sự vật khác, từ cái
này mà biết cái kia "biết một mối mà thông suốt tất cả" (Luận ngữ - Vệ Linh
Cơng 2). Do đó địa điểm giáo dục của Khổng Tử không cố định lúc ở trong nhà,
lúc dưới bóng cây, lúc chu du ngoại cảnh.
- Phương pháp nêu gương: Khổng Tử thường lấy những tấm gương tốt để
dạy học trị. Vua đạm bạc đó là Vua Vũ "Vua Vũ ta không chê trách vào đâu
được. Ăn uống đạm bạc mà tế quỷ thần rất hậu. Y phục xấu mà sửa mũ áo tế rất
đẹp. Cung thất nhỏ hẹp mà hết sức mở mang ngòi lạch. Vua Vũ ta không chê
trách vào đâu được" (Thái Bá 2). Vua khiêm nhường "cao cả thay! Vua Thuấn,
vua Vũ có được thiên hạ, mà chẳng lấy đó làm vui" (Thái bá 18). Theo Khổng
Tử vua Thuấn - Nghiêu là bậc thánh. Người học trò chăm chỉ là "trò Hồi, trong
ba tháng, lịng khơng lìa đạo nhân. Ngồi ra, các trò khác chỉ đạt đến đạo nhân
trong một ngày hay trong một tháng là cùng" (Ung dã - 5). Do đó khi có người
hỏi Khổng Tử về các học trị, Khổng Tử thưa "có Nhan Hồi là người ham học,
chẳng may mất sớm, nay khơng cịn ai cả" (Tiên tiến - 6). Còn Bá Di, Thúc Tề
theo Khổng Tử "bất niệm cựu ác, ốn ly dụng hy" (khơng nhớ đến những điều
xấu của người nên ít ai ốn ghét). (cơng dã tràng - 12). Người giữ gìn tốt đạo
huynh đệ đó là "Yến Bình Trọng khéo giao - kết bạn lâu ngày mà vẫn giữ cung
kính" (cơng dã tràng - 16). Phê phán Vi - Sinh Cao không phải là người ngay
thẳng mà mua ân huệ cho mình, dành điều tốt cho mình "ai bảo Vi Sinh Cao là
người ngay thẳng ? Có người đến xin giấm. Vi Sinh Cao xin giấm của nhà hàng
xóm cho đó" (cơng dã tràng -13).
Tóm lại, theo Khổng Tử tuỳ từng trường hợp, tuỳ từng người mà bảo coi
hướng đi, cách làm cái công phu thực hiện theo guơng mẫu thời xưa như Văn

Vương, Chu Cơng, Cơng Nhu, Nghiêu-Thuấn,Vũ Thang...trong hồn cảnh mới
"Ơn có tri tân". Phương pháp giáo dục của Khổng Tử vẫn có giá trị cho dến ngày
nay.
1.2.6. Yêu cầu đối với người dạy và người học
14


Từ việc phân chia đối tượng, mục đích giáo dục và phương pháp giáo dục,
như vậy, Khổng Tử đã đề ra những đòi hỏi đối với người dạy và học sau:
Đối với người thầy phải luôn làm gương về phẩm chất và phong cách học
tập, người là người thực hành trước tiên những gì mình dạy cho học trị để học
trị thấy đó mà làm theo (Vi chánh 13). Thầy dạy phải tận tình cởi mở khơng giấu
diếm học trị "ta có biết rộng chăng! Ta khơng biết rộng. Nhưng có người thơ lỗ
hỏi đến ta, dù khơng biết gì, ta cũng phát động hai đầu mối dẫn giải cho hết lẽ"
(Tử hãn - 7). Học trò cho rằng đạo của đức Khổng cao sâu không theo kịp, cho
nên nghi ngờ Ngài giấu diếm kiến thức, Khổng Tử cho rằng "hai ba gã cho ta
giấu điều gì chăng?. Ta khơng giấu diếm gì cả! Ta khơng làm việc gì mà chẳng
bảo cho hai ba gã biết, ấy là Khưu này vậy". (Thuật nhi - 23). Cả đời Khổng Tử
sống với đạo lý "Ta là người khi chưa hiểu đạo lý thì phát phẫn quên ăn, khi
hiểu được đạo lý thì vui vẻ quên lo, mà chẳng biết tuổi già sắp đến với mình"
(Thuật nhi - 18).
Khổng Tử cho rằng thầy khơng được nghiêm khắc, thái q bởi vì q
trình giáo dục là q trình trao đổi giữa thầy và trị, nên thầy không được nghiêm
khắc, thái quá làm cho rụt rè e sợ nhưng khơng phải thế mà trị qn mình là trị
bỏ qua lễ giáo.
Đối với người học trị, phải biến cái mình học thành nhu cầu "biết đạo
khơng bằng ưa đạo, ưa đạo không bằng vui với đạo" (Luận ngữ.....) hay "Buổi
sáng được nghe đạo lý, buổi tối dù chết cũng được vậy" (Lý nhân - 8). Trong quá
trình học tập, phải kết hợp với suy nghĩ "học mà chẳng suy nghĩ thì mờ mịt, suy
nghĩ mà khơng học thì nguy hại" (Vi chánh - 15). Học phải kết hợp với thực tiễn,

phải thận trọng trong việc học hỏi "nên nghe nhiều điều hay, nhưng còn nghi
ngờ điều gì, hãy để khuyết đừng nói vội, cịn nghe được điều gì chắc chắn, cũng
nên thận trọng lời nói, thì ít người quở trách. Nên thấy nhiều điều hay, nhưng
điều gì chưa chắc chắn hãy để khuyết đó đừng làm vội, cịn thấy được điều gì
chắc chắn cũng nên cẩn thận trong việc làm, thì ít sự ăn năn. Lời nói ít người
quở trách, việc làm ít sự ăn năn bổng lộc tự nhiên ở trong đó" (Vi chánh - 18).
Học phải ôn cũ biết mới và phải học ở mọi lúc mọi nơi, phải đi từ thấp đến cao,
15


cố gắng vươn lên "học như chẳng theo kịp, còn sợ bỏ mất" (Thái bá - 17). Điều
cốt lõi nhất phải xác định được mục đích học "học để làm quan giúp đời. Người
đời nay học vì người" (Hiến Vân - 25).
Tóm lại, từ việc xác định phải giáo hố con người trở thành "hữu đạo" để
ổn định trật tự xã hội, đưa xã hội "loạn" trở về "thịnh", Khổng Tử đã xây dựng
một học thuyết hoàn chỉnh về giáo dục từ quan niệm về con người, phân chia đối
tượng giáo dục để xác định phương pháp giáo dục phù hợp đến yêu cầu về người
thầy, người học. Khổng Tử xứng đáng nhà giáo dục lớn của xã hội đương thời,
học thuyết giáo dục củ Khổng Tử đã góp phần vào kho tàng giáo dục của nhân
loại. Những nguyên lý giáo dục của ơng cịn mang những giá trị trong sự nghiệp
giáo dục hiện nay.
CHƯƠNG 2: KẾ THỪA TƯ TƯỞNG GIÁO DỤC CỦA KHỔNG TỬ
TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN GIÁO DỤC HIỆN NAY Ở VIỆT NAM
2.1. Sơ lược về nền giáo dục qua các triều đại trong lịch sử Việt Nam
Cùng với sự thăng trầm của xã hội Việt Nam, tư tưởng Nho giáo nói chung
và tư tưởng về giáo dục của Khổng Tử nói riêng trong những giai đoạn lịc sử là
khác nhau, bởi vì lúc này ở Việt Nam tồn tại "tam giáo đồng nguyên" trong đó
Nho và Phật thay nhau vai trò chủ đạo trong xây dựng xã hội.
Đến thời Trần, con đường khoa cử mở ra để giải quyết đào tạo quan lại đã
nhanh chóng chiếm ưu thế. Số người tiến thân bằng con đường cử nghiệp nhiều

hơn, danh nho đông đảo hơn cái thời trước. Thời Trần cũng xác định hơn nội
dung học tập thi cử là các Kinh điển hình thành vào thời Chu Hy về sau. Trong
gần 4 thế kỷ tồn tại của hai vương triều này, chỉ tổ chức được 15 khoa thi, lấy đỗ
được 60 người. Triều Hồ tuy tồn tại ngắn ngủi nhưng cũng tổ chức được ba khoa
thi với 15 người đỗ. Sang thời Lê, việc mở các khoa thi để tuyển chọn đội ngũ
quan lại mới được chú trọng hơn. Trong 32 năm của ba triều vua Lê: Thái Tổ,
Thái Tông và Nhân Tông (1426 - 1459) đã có 9 khoa thi với 107 người được nêu
tên trên bảng vàng.
16


Phải đến thời Lê Thánh Tông, chế độ khoa cử Nho học mới được mở rộng
và đi vào nề nếp, bởi thi cử là biện pháp quan trọng nhất để tuyển chọn được
tương đối xác đáng đội ngũ quan lại tài năng, làm rường cột cho các hoạt động
của nhà nước. Lê Thánh Tông mong muốn tạo được một bộ máy quan lại gồm
những con người ưu tú trong giới trí thức Nho học được chọn lọc kỹ càng làm
chỗ dựa vững chắc cho triều đình, bởi vậy trong buổi "lễ ăn thề" với thượng thư
các bộ vào mùa đông năm Quang thuận thứ 4 (1463), ông dẫn lại lời của Tư Mã
Quang "người quân tử là cội gốc để tiến lên việc trị bình, kẻ tiểu nhân là thềm
bậc để đi đến hoạ loạn" cho nên "ta và các ngươi đã thề với trời đất dùng người
quân tử, bỏ kẻ tiểu nhân, ngày đêm chăm chăm không lơi". Việc trong thi cử,
trọng nhân tài Nho học dưới thời Lê Thánh Tơng cịn được lưu lại bằng những tư
tưởng đúng đắn trong Văn Bia tiến Sĩ, "Hiền tài là nguyên khí của quốc gia,
ngun khí thịnh thì thế nước mạnh mà vươn cao, ngun khí suy thì thế nước
yếu mà xuống thấp. Bởi vậy các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy
việc bồi dưỡng nhân tài kén chọn kẻ sĩ, vun chồng nguyên khí là việc đầu tiên.
Kẻ sĩ đối với quốc gia quan trọng là thế, cho nên quý chuộng kẻ sĩ sẽ không biết
thế nào là cùng việc lớn trong chính trị của đế vương chẳng gì bằng gặp nhân
tài, chế độ nhà nước muốn được kỹ càng, tất phải đợi ở bậc thánh. Bởi vì làm
chính trị mà khơng cốt ở nhân tài, chế độ mà khơng nhờ ở bậc thánh thì mọi việc

cịn làm cẩu thả, sao có thể đạt tới chính trị phong hoá phồn vinh, văn vật điển
chương đầy đủ".
Thể hiện ý nguyện trọng đạo học, trọng khoa cử coi đó là con đường chính
để chọn quan lại, hai năm sau khi lên ngôi báu, Lê Thánh Tông đã ban hành
nhiều đạo dụ, chiếu chỉ về quy chế thi cử. Cũng như ở các triều vua trước, thời
Lê Thánh Tơng có hai kỳ là thi hương, lấy học vị hương cống và thi hội (thi ở
triều đình) lấy học vị tiến sĩ.
Nhà vua cũng ban hành các chỉ dụ quy định về thi cử .
17


+ Đối tượng không được dự thi: người làm nghề hát chèo, người phản
nghịch, người nguy quan có tiếng xấu cùng con cháu họ và những người phạm
tội bất hiếu, bất nghĩa, bất mục, bất luân diêu ngoa .
+Đối với dề mục thi :
.Kì thứ nhất học thi tứ thư, ngũ kinh
.Kì thứ hai thi chiếu, chế,biểu dùng cổ thể lay tứ lục.
.Kì thứ ba thi thơ (Đường luật), phú (Cổ thể hay ly tao).
.Kì thứ tư một bài văn sách, đầu dề hỏi về kinh, sử hay việc đương thời .
Nhìn chung, triều đại Lê Thánh Tơng trị vì, nhất là giai đoạn thuộc niên
hiệu Hồng Đức, là thời kì phát triển rực rỡ của giáo dục và khoa cử mà đời sau
suy tôn là"Giáo dục Hồng Đức", "Khoa cử Hồng Đức", "bản đầu Hồng
Đức"...Nhờ khoa cử mà số lượng những võ quan, trọng thần ngày càng bị hạn
chế dần. Bản thân các vị võ quan và con em họ muốn tồn tại được trong bộ máy
nhà nước thời Lê Thánh Tơng đều phải được nâng cao "quan trí" và "văn hố
hố". Trong khi đó số quan lại xuất thân từ khoa cử liên tục được bổ sung với
một số lượng khá đông đảo.Theo thống kê từ sách "Các nhà khoa bảng Việt Nam
cho thấy trong 38 năm triều đại Lê Thánh Tông đã tổ chức được 12 khoa thi với
501 người đỗ cùng 9 trạng nguyên, 10 bảng nhãn, 10 thám hoa, 159 Hoàng Giáp
và 313 đệ tam giác đồng tiến sĩ xuất thân. Theo Phan Huy Chú "Khoa cử các đời

thịnh nhất là đời Hồng Đức.Cách lấy đỗ rộng rãi, cách chọn người công bằng,
đời sau không thể thua kịp". Những người đỗ đạt qua các kì thi là nguồn chính
để tuyển chọn quan lại cho triều đình và một phần lớn bộ máy chính quyền các
địa phương. Họ được tôn vinh qua lễ xướng danh, lễ vinh quy bái tổ và lưu tên
tuổi trong văn bia ở Văn Miếu. Như vậy, với chủ trương khuyến khích Nho học
và một chế độ khoa cử nề nếp, cùng một lúc Lê Thánh Tông đã đạt được hai mục
tiêu: thứ nhất, tuyển chọn được những người ưu tú cho bộ máy của nhà nước,
thực hiện chuyển giao quyền lực từ quý tộc sang quan lưu nho sĩ, thứ hai đưa
được nho giáo xâm nhập sâu vào xã hội, khẳng định rõ đây là nhà nước gắn với
18


việc cai trị của các quan văn và tuân theo những tư tưởng chính trị Nho giáo.
Bản thân đội ngũ quan chức thời Hồng Đức là những người thành công trong các
kì thi dân sự, cũng có u cầu tự nhiên muốn xây dựng một nhà nước trong sạch,
có kỉ cương và vững mạnh theo phong cách trí thức của họ.
Tóm lại, cùng với thăng trầm của lịch sử Việt Nam, tư tưởng về giáo dục
của Khổng Tử nói riêng Nho giáo nói chung có ảnh hưởng sâu sắc đến nền giáo
dục Việt Nam. Đó là giáo dục cho mọi tầng lớp nhân dân, giáo dục nhằm đào tạo
tuyển chọn cho đội ngũ quan lại cho triều đình, tạo bộ máy vững chắc. Tuy nhiên
ở Việt Nam, do ảnh hưởng của tam giáo đồng nguyên nên các Nho sĩ sau khi đỗ
đạt bất mãn trước những bất công của triều đình thường ở ẩn như Nguyễn Trãi,
Nguyễn Bỉnh Khiêm...
2.2. Sự kế thừa tư tưởng về giáo dục của Nho giáo nói chung của
Khổng Tử nói riêng, của Hồ Chí Minh.
Cũng giống như nhiều nhà Nho chân chính, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến
việc giáo dục con người. Kế thừa tinh thần "học không chán, dạy không mỏi" của
Khổng tử, ngay từ thời thanh niên Người đã từng làm thầy giáo, rồi thành người
chiến sĩ cách mạng, rồi thành nhà chính trị ... và thành người đứng đầu nhà nước,
Người luôn quan tâm đến việc giáo dục, đào tạo con người. Nếu trước đây,

Khổng Tử thường dạy rằng: nhà cầm quyền phải chăm lo đời sống vật chất cho
dân, phải giáo hoá dân, để thực hiện con đường tu - tề- bình - trị các bậc quân
vương, người quân tử phải chú trọng đến lời dạy "vị thập niên chí kế thụ môn, vi
bách niên chi kế thụ người". Nay vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất
nước phồn vinh giàu mạnh, Hồ Chủ Tịch thường xuyên nhắc nhở "vì lợi ích
mười năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trơng người" (Hồ Chí Minh tồn tập 9). Song quan niệm hết sức nhân bản này của Hồ Chí Minh lại khơng bó hẹp
trong phạm vi ngành giáo dục mà được mở rộng ra cho nhiều đối tượng khác
nhau trong xã hội. Có thể khẳng định rằng đây là một tư tưởng mang tầm chiến
lược đầu tư vào con người là cơ sở chắc chắn nhất cho mọi sự phát triển.
19


Phải chăng có sợi dây liên hệ ràng buộc giữa quá khứ và hiện tại. Phải
chăng những tư tưởng lớn cũng có những điểm chung; trong học thuyết Nho giáo
vấn đề con người là trung tâm thì nay ở tư tưởng Hồ Chí Minh cũng tất cả vì con
người. Trước đây nghiên cứu về con người, Khổng Tử chỉ ra rằng "tính tương
cận, tập tương viễn" như vậy Khổng Tử đề cao giáo dục và cho rằng nhờ có giáo
dục mà việc đưa con người về cái thiện, cái tốt là hiện thực. Nay Hồ Chủ Tịch
cũng thường nói con người chịu ảnh hưởng của các nhân tố khác nhau mà trở
nên khác nhau "đồng thời ngay trong mỗi con người đều có thiện và ác ở trong
lịng" (Hồ Chí Minh toàn tập -10). Người nhấn mạnh "ta phải làm cho phần tốt
trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi".
Đối với loại người có thói hư tật xấu, phải lại tổ quốc và nhân dân ta phải
giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện nảy nở để đẩy lùi phần ác chứ
không phải đập cho tơi bời. Đối với Người yếu tố giáo dục trong đào tạo con
người là quan trọng, bởi vì:
"Lúc ngủ ai cũng như lương thiện
Tỉnh dạy phân ra kẻ dữ hiền
Hiền dữ đâu phải là có sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"

(Hồ Chí Minh tồn tập - 10)
Trong lịch sử tư tưởng của Nho giáo nói chung, của Khổng Tử nói riêng đã
thu được những thành tựu đáng kể trong việc đào tạo con người; đó là tạo ra
được nhiều nhà Nho chân chính, hết lịng trung với vua, thanh liêm, chính trực,
kinh bang tế thế, lưu danh sử sách, hậu thế noi gương như Chu Văn An, Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm... Hơn bất cứ người Việt Nam nào, Bác Hồ cảm nhận
rất rõ điều đó, Người gìn giữ, nâng niu phát huy và bồi dưỡng nó.
Ở tư tưởng của Khổng Tử điểm sáng là "đức trị", lấy đức sáng để làm mới
cho dân Nho giáo, yêu cầu các quân vương, nhà cầm quyền phải tu luyện đức
sáng, giữ đạo cương thường, làm gương cho dân, giáo hố dân để đất nước có kỷ
20


cương, xã hội có trật tự. Trong sự nghiệp cách mạng mới Hồ Chí Minh cũng chỉ
rằng "người cán bộ hiện nay cũng phải giữ gìn đạo đức cách mạng như giữ gìn
con ngươi của mắt mình'' như vậy cả Hồ Chí Minh và Khổng Tử đều coi trọng
giáo dục đạo đức cho con người, coi đạo đức là gốc, đề cao nghĩa vụ trách nhiệm
của con người đối với bản thân - gia đình - xã hội. Bác Hồ nói ''học thuyết
Khổng Tử có ưu điểm là sự tu dưỡng đạo đức cá nhân".
Trong các bài nói chuyện, phát biểu, bài viết Người thường sử dụng những
thuật ngữ đạo đức của Nho giáo. Tuy nhiên, dù cũng dùng các giá trị đạo đức
giống nhau nhưng nội dung của chúng đã khác xa; Khổng nho hướng đạo đức
con người theo đạo đức phong kiến, theo mơ hình phong kiến đẻ nhằm củng cố
trật tự xã hội phong kiến, củng cố chế độ vương quyền, chế độ phụ quyền, đòi
hỏi con người tuân thủ "cương, thường" trung thành tuyệt đối với vua, coi dân là
đối tượng để chăn dắt, sai khiến; Hồ Chí Minh lại hướng đạo đức cán bộ và nhân
dân vào lật đổ chế độ phong kiến, xã hội có sự thống trị áp bức,bóc lột, nơ dịch,
cũng là chuẩn mực "trung", "hiếu" đối với Hồ Chí Minh là không chỉ trung với
vua, hiếu thảo với cha mẹ mà còn phải trung với Đảng, hiếu với dân.
Trong giáo dục đạo đức phong kiến, người ta chú trọng đến "nhân, nghĩa,

lễ, trí, tín" gọi là "ngũ thường", trong giáo dục đạo đức cách mạng, Người
thường nhắc nhở "nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm" là phẩm chất của con người
quân tử và của người cơng dân chân chính.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nhìn chung Nho giáo cịn nhiều hạn chế
song họ đã xây dựng được một mẫu người lý tưởng "cứng như cây tùng, cây
bách" đó là những con người "phú quý bất năng dâm, bần tiện bất năng di, uy vũ
bất năng khoát" hay "tiên thiên hạ ưu nhi ưu, hậu thiên hạ, lạc nhi lạc". Hồ Chủ
Tịch thường xuyên nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ phải rèn luyện để cứng cáp, kiên
trung, giữ vững khí tiết "giàu sang khơng thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể
chuyển lay, uy lực không thể khuất phục". Trong sự nghiệp cách mạng của chúng
21


ta đã có biết bao tấm gương anh dũng hy sinh, những con người trung liệt... đã
hoà tấu thành bản anh hùng ca non sông đất nước.
Nghiên cứu tổng thể học thuyết của Khổng Tử cũng như tư tưởng của Hồ
Chí Minh có thể khẳng định rằng giáo dục đào tạo con người, đặc biệt là giáo
dục đạo đức là rất quan trọng. Tuy nhiên đối với Khổng Tử đạo đức chổng ngược
xuống đất, cịn Hồ Chí Minh, con người có đạo đức mới đứng vững được bằng
hai chân, ngẩng đầu lên trời. Đạo đức cũ khép con người vào khuôn khổ chật
hẹp, khắc kỷ, cam chịu, thắt chặt con người vào trật tự xã hội có đẳng cấp; cịn
đạo đức mới phá bỏ xiềng xích phong kiến, giải phóng cá nhân con người, phù
hợp với xu hướng nhân đạo tiến bộ nhằm đáp ứng sự nghiệp xây dựng xã hội
mới độc lập, thống nhất, giàu mạnh và văn minh. Nói như vậy khơng phải là phủ
nhận việc Nho giáo đã có cơng tạo nên một tinh thần hiếu học, đề cao tri thức.
Kế thừa tinh thần "học không chán, dạy không mỏi", Bác Hồ thường xuyên
nhắc nhở cán bộ, nhân dân, các thầy cô giáo và học sinh quan tâm đến việc giáo
dục tri thức. Ngay sau ngày tuyên bố giành độc lập, Người đã đề ra 3 nhiệm vụ
lớn cho chính quyền non trẻ "diệt giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm". Người
từng nói "một dân tộc dốt là một dân tộc yếu" như vậy Bác xếp "giặc dốt" sau

giặc đói nhưng lại trước giặc ngoại xâm. Đây là một sự sắp xếp thứ tự có chủ
đích của Người. Để diệt giặc dốt Người đã phát động phong trào "bình dân học
vụ" mở rộng cơg tác giáo dục trong toàn quốc. Trong thư gửi các cháu học sinh
nhân ngày khai trường, Bác viết "non sơng Việt Nam có trở nên vẻ vang hay
khơng, dân tộc Việt Nam có được sánh vai với các cường quốc năm châu hay
không. Đó chính là nhờ cơng học tập của các cháu rất nhiều". Có thể nói đối
tượng để ''trồng" được Hồ Chí Minh quan tâm nhất là học sinh, sinh viên, thanh
niên. Người thường nói "một năm khởi đầu từ mùa xuân. một đời khởi đầu từ
tuổi trẻ. Tuổi trẻ là mùa xuân của xã hội" hay "thanh niên là người chủ tương lai
của nước nhà. Nước nhà thịnh, suy yếu một phần lớn là do các thanh niên".
22


Trước đây trong quan niệm đào tạo con người của Khổng Tử, tri thức được
giới hạn trong lĩnh vực hẹp như văn chương,chính trị, đạo đức thì trong quan
niệm của Hồ Chủ Tich thì tri thức ngày nay tồn diện hơn, đặc biệt là tri thức về
khoa học tự nhiên, khoa học ứng dụng. Nếu trong tư tưởng của Khổng Tử hoạt
động lao động sản xuất không được coi trọng thì Hồ Chí Minh nhắc nhở "học
phải đi đơi với hành, lý luận phải kết hợp với thực tiễn".
Hồ Chủ Tịch thực sự là điển hình mẫu mực trong việc lựa chọn kế thừa
những tinh hoa văn hố Đơng - Tây, quá khứ và hiện tại. Đóp thực sự là một
cách nhìn biện chứng, có tính phương pháp luận, là những bài học kinh nghiệm
cho chúng ta hiện nay, đặc biệt trong chiến lược xây dựng con người mới của
Đảng.
Như vậy theo Hồ Chí Minh vai trị mục đích của giáo dục là :
Giáo dục có vai trị to lớn trong việc cải tạo con người cũ xây dựng con
người mới để giúp dân cứu nước, để xây dựng xã hội chủ nghĩa. Theo Người
"Trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa tạo con người xã hội chủ
nghĩa khơng có con đường nào khác ngồi giáo dục tri thức khoa học và lí
tưởng, đạo đức xã hội chủ nghĩa. Đó là một nền giáo dục nhằm phát triển con

người tồn diện, nhất định phải có học thức, cần phải học văn hố, chính trị, kĩ
thuật. Cần phải học lí luận Mác-Lê Ninkết hợp với đấu tranh và công tác hàng
ngày, đạc biệt là phải quan tâm đến việc luyện"tài", rèn" đức" cho cán bộ. Bởi
theo Người," có tài mà khơng có đức ví như một anh làm kinh tế tài chính rát
giỏi nhưng lại đi đến thụt két thì chẳng những kkhơng làm được gì có ích lợi cho
xã hội mà cịn có hại cho xã hội nữa. Nếu có đức mà khơng có tài như ơng bụt
khơng làm hại gì xong cũng khơng lợi gì cho lồi người "Đạo đức trong quan
niệm của Hồ Chí Minh được coi như "cái gốc" của cây, "cái nguồn "của sơng.
Do đó theo Người" người cách mạng phải có đạo đức , khơng có đạo đức dù tài
giỏi đén mấy cũng không đánh lại được nhân dân".
23


Mục đích xuyên suốt trọng tâm tư tưởng giáo dục Hồ Chí Minh là nhờ con
người, cho con người, là xây dựng con người mới. Nhưng do yêu cầu của mỗi
thời kì cách mạng khác nhau, Hồ Chí Minh đã đề ra nhiệm vụ giáo dục khác
nhau cho phù hợp. ở thời kì chuẩn bị thành lập Đảng, Người tập trung vào việc
triển khai các lớp huấn luyện tại Quảng Châu, Trung Quốc nhằm nâng cao trình
độ nhận thức cho cán bộ về con đường cách mạng Việt Nam và cách mạng thế
giới. Đến giai đoạn toàn quốc kháng chiến và xây dựng nền dân chủ, Người kêu
gọi sửa đổi giáo dục cho phù hợp với việc đào tạo nhân tài kháng chiến toàn
quốc. Bước sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, mục đích
giáo dục lại gắn liền với tình hình mới. Đó là thời kì rất cần những con người
làm chủ xã hội, làm chủ sản xuất, biết quản lí cơ quan, xí nghiệp, trường học,
phương pháp giáo dục. Tuy Hồ Chí Minh khơng được để lại cho chúng ta một
tác phẩm, một hệ thống lý luận về phương pháp giáo dục, nhưng những việc làm
thiết thực, những bài viết ngắn gọn xúc tích của Người đã hàm chứa các phương
pháp giáo dục mẫu mực. Đó là nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn.
Nguyên tắc này được Người sử dụng trong việc giáo dục cán bộ, Đảng viên
thanh thiếu niên, công nhân, nơng dân, bộ đội, trí thức, học sinh, sinh viên.

Người nhấn mạnh "Học phải suy nghĩ, học phải liên hệ thực tế, phải có thí
nghiệm và thực hành. Học với hành phải kế hợp với nhau".
+ Quá trình dạy và học là quá trình trao đổi, Người chỉ rõ: "Mọi người
được hoàn toàn tự do phát biểu ý kiến, dù đúng và khơng đúng cũng vậy. Song
khơng được nói gàn, nói vịng quanh". "Khi mọi người đã phát biểu ý kiến đã
tìm thấy chân lý lúc đó quyền tự do tư tưởng hoá ra quyền tự do phục tùng chân
lý" do đó, Hồ Chí Minh kêu gọi cán bộ, nhà giáo phải biết tôn trọng ý kiến người
khác, không nên có thành kiến đối với các ý kiến khác khơng nên có thành kiến
trái với các ý kiến của mình.
Trong giáo dục, theo Hồ Chí Minh, cần có phương pháp phù hợp với điều
kiện giáo dục và đối tượng giáo dục. Giáo dục phải căn cứ vào "Trình độ văn
24


hố, thói quen sinh hoạt, trình độ giác ngộ, kinh nghiệm tranh đấu, lịng ham, ý
muốn, tình hình thiết thực của quần chúng". Cần có phương pháp tổ chức giáo
dục sao cho bảo đảm được sự phù hợp giữa điều kiện, hoàn cảnh giáo dục với
đối tượng giáo dục. Người viết: "Công nhân, nông dân, bận làm ăn, nếu dạy
không hợp với người học với làm ăn, bắt phải đến lớp có bàn có ghế là khơng ăn
thua. Phải tuỳ theo hoàn cảnh làm ăn mà tổ chức học mới duy trì được lâu dài,
mới có kết qủa tốt".
Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc kết hợp các hình thức giáo dục.
Khơng tuyệt đối hố bất cứ một hình thức giáo dục nào. Người viết: "giáo dục
trong nhà trường dù có tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngồi xã
hội thì kết quả cũng hồn tồn bằng không ". Cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí
Minh ln là tấm gương sáng cho mọi người noi theo. Trong cuộc sống, trong
việc làm..., Hồ Chí Minh ln là người đi đầu. Phương pháp làm gương là một
biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thống nhất giữa lời nói và việc làm. Người
dạy "Mình phải làm gương, gắng làm gương trong anh em và khi đi công tác,
gắng làm gương cho dân. Làm gương về cả ba mặt: tinh thần vật chất và văn

hố".
Đối với Hồ Chí Minh, tất cả các phương pháp giáo dục như phương pháp
đối thoại, phương pháp học đi đôi với hành, lý luận gắn với thực tiễn phương
pháp làm gương, phương pháp kết hợp giữa gia đình nhà trường và xã hội đều
nhằm mục đích "Nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng, nâng
cao nhận thức, chất lượng và hiệu quả giáo dục. Các phương pháp này mang
tính truyền thống, lại vừa cụ thể thiết thực, luôn gắn với đời sống và thời đại".
Nhận thức sâu sắc về vai trị của giáo dục, Hồ Chí Minh đã gắn bó cả cuộc
đời mình với việc chăm lo, mở mang và xây dựng một nền giáo dục mới - nền
giáo dục xã hội chủ nghĩa - một nền giáo dục mà mọi người đều có cơ hội phát
huy khả năng sáng tạo, mọi người đều được học hành, không phân biệt giai cấp,
tuổi tác, giới tính.
25


×