Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

“Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa? Liên hệ với việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 18 trang )

ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
*****

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Câu hỏi tiểu luận: “Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế
của sản xuất hàng hóa? Liên hệ với việc phát triển nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay ?”

Sinh viên thực hiện: Phạm Hồng Anh
Mã sinh viên: 72DCKT20060
Lớp: 72DCKT22
Khóa: 72 (2021-2025)
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Huyền

HÀ NỘI – 2022


MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................... 1
NỘI DUNG ................................................................................... 2
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TRƯNG VÀ ƯU THẾ CỦA
SẢN XUẤT HÀNG HÓA ............................................................ 2
1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa................................... 2
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa............................. 4
II. ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ
TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY ......................................................................... 7
1. Những mặt tất yếu khách quan tồn tại nền kinh tế thị trường ở


Việt Nam ...................................................................................... 7
2. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay ................................................. 10
KẾT LUẬN ................................................................................. 15
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 16


LỜI MỞ ĐẦU
Sự ra đời của hàng hoá gắn liền với sự phát triển của xã hội loài
người. Đánh dấu sự ra đời của hàng hố là sự hình thành các bộ lạc. Con
người không thể tự sản xuất tất cả mọi thứ để có thể đáp ứng được nhu
cầu của mình và họ bắt đầu trao đổi với nhau để đảm bảo sự sinh tồn.
Chính bởi vì tính cấp thiết của hàng hoá trong xã hội, từ trước Mác, đến
Mác và sau Mác có rất nhiều lý luận ra đời nhằm nghiên cứu cho loại vật
chất mang tên “hàng hoá”. C.Mác đã khẳng định rằng sản xuất hàng hoá
và một nền lưu thơng hàng hố phát triển, thương mại, đó là tiền đề
lịch sử của sự phát triển thương mại, là tiền đề của sự phát triển
tư bản. Ngày nay hàng hố đóng vai trị quan trọng trong phát triển đất
nước, nó cũng là mắt xích quan trọng trong vấn đề sản xuất.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội nước ta, Đảng và Nhà nước ta
đã có nhiều chủ trương, đường lối để phát triển nền kinh tế quốc dân.
Trong đó việc phát triển nền kinh tế hàng hóa là nhiệm vụ cơ bản nhất.
Nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua nhiều năm chiến
tranh vì thế nền kinh tế khơng thể vươn lên một cách vững chắc, hàng hóa
khơng đủ phục vụ cho nhu cầu của người dân. Vì vậy, việc tạo ra một mối
quan hệ nhằm thúc đẩy nền kinh tế hàng hóa đi lên là một việc quan trọng
của Đảng và Nhà nước ta trong thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội.
Xuất phát từ sự nhận thức rõ về tầm quan trọng của việc phát triển kinh
tế hàng hóa ở Việt Nam nên tác giả xin chọn đề tài: “Điều kiện ra đời, đặc
trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa từ đó liên hệ với việc phát triển

nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay?”

1


NỘI DUNG
I. ĐIỀU KIỆN RA ĐỜI, ĐẶC TRƯNG VÀ ƯU THẾ CỦA SẢN XUẤT
HÀNG HÓA
1. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa
Theo C.Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở
đó, những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
Sản xuất hàng hóa khơng xuất hiện đồng thời với sự xuất hiện của xã
hội loài người. Nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có
các điều kiện:
Một là, phân cơng lao động xã hội.
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hôi thành
các ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chuyên môn hóa
của người sản xuất thành những ngành, nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người
thực hiện sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu
cầu của họ lại yêu cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu
cầu của mình, tất yếu những người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với
nhau.
Hai là, sự tách biệt về mặt kinh tế của các chủ thể sản xuất.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa
những người sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong
điều kiện đó, người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải
thông qua trao đổi, mua bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa.
C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm của những lao động tư nhân độc lập và
không phụ thuộc vào nhau mới đối diện với nhau như là những hàng hóa”.
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa người sản xuất là điều kiện đủ để nền sản

xuất hàng hóa ra đời và phát triển.

2


Ba là, sản phẩm đó phải được đem ra trao đổi (mua – bán) trên thị
trường.
Những vật phẩm do con người làm ra, thỏa mán nhu cầu nào đó của
con người nhưng không đêm trao đổi mua bán trên thị trường, mà chỉ để sử
dụng cho nhu cầu của người sản xuất ra nó thì cũng khơng phải là hàng
hóa. Ví dụ như: Người nơng dân sản xuất ra lúa, gạo nhưng chỉ để ăn thì
lúa, gạo đó khơng phải là hàng hóa.
Xét về hình thức tồn tại, hàng hóa có thể tồn tại ở dạng vật thể (hữu
hình), cũng có thể tồn tại ở dạng phi vật thể (vơ hình). Cùng với sự phát
triển của sản xuất hàng hóa, khái niệm này cũng ngày càng được mở rộng,
có những thứ trước đây khơng được coi là hàng hóa thì nay cũng được đem
trao đổi hoặc xử lý như một hàng hóa. Ví dụ như quyền sử dụng đất, quyền
sở hữu trí tuệ, thương hiệu kinh doanh...
Hàng hóa ra đời gắn liền với sự ra đời của sản xuất hàng hóa. Nói cách
khác, hàng hóa là đối tượng mà nền sản xuất hàng hóa hướng đến, sự ra đời,
vận động, biến đổi của hàng hóa gắn liền với sự hình thành, phát triển của
nền sản xuất hàng hóa. Vậy sản xuất hàng hóa là gì? Sản xuất hàng hóa là
một cách thức tổ chức sản xuất mà trong đó các sản phẩm làm ra dùng để
đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của một bộ phận hoặc đa số bộ phận người dân
sử dụng, chứ không phải để đáp ứng cho chính người trực tiếp sản xuất ra
hàng hóa. Sản xuất hàng hóa ra đời và tồn tại gắn kiền với hai điều kiện sau:
Một là, có sự phân cơng lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là
sự phân chia lao động xã hội thành những ngành nghề khác nhau, tạo ra sự
chun mơn hố lao động sản xuất. Phân công lao động xã hội tuân theo các
quy luật sau: Lao đông trong sản xuất vật chất - sản xuất phi vật chất; nông

nghiệp - công nghiệp; lao động chân tay - lao động chất xám; phân công diễn
ra tại chỗ, theo vùng, lãnh thổ, quốc gia.
Khi đã có phân cơng lao động xã hội, mỗi người sản xuất tạo ra một hoặc
một số loại sản phẩm mà mình có khả năng, có điều kiện sản xuất thuận lợi
3


hơn, rộng ra là mỗi một cơ sở sản xuất chỉ sản xuất ra một loại sản phẩm nhất
định. Đối với loại sản phẩm này, họ có thể sản xuất vượt q nhu cầu sử
dụng của mình. Trong khi đó, để thoả mãn nhu cầu đa dạng của cuộc sống,
họ cần phải có nhiều loại sản phẩm khác nhau, và như vậy, sẽ xuất hiện nhu
cầu trao đổi sản phẩm giữa những người sản xuất với nhau. Như vậy, phân
công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ thuộc vào nhau, đó
là tiền để để có sản xuất hàng hóa.
Hai là, có sự tách biệt về mặt kinh tế của những người sản xuất. Thực
chất ở đây muốn nói tới quyền sở hữu, quyền chi phối của người sản xuất
đối với sản phẩm do họ làm ra. Sự tách biệt này chính là do quan hệ sở hữu
khác nhau và sự phát triển của xã hội khác nhau về tư liệu sản xuất. Do vậy,
những sản phẩm làm ra phải thuộc quyền sở hữu nhà sản xuất và do họ chi
phối. Người này sử dụng sản phẩm của người khác phải được thông qua trao
đổi, mua bán. Như vậy, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người sản
xuất làm cho họ độc lập với nhau, có thể đứng đối diện với nhau trong quan
hệ trao đổi các sản phẩm do họ làm ra.
Như vậy, phân công lao động xã hội làm cho những người sản xuất phụ
thuộc vào nhau, sự tách biệt về mặt kinh tế lại làm cho họ độc lập với nhau.
Đó là mâu thuẫn mà chỉ có sự ra đời của sản xuất hàng hoá mới giải quyết
được. Đây là hai điều kiện cơ bản, cần và đủ của sản xuất hàng hóa, nếu thiếu
một trong hai điều kiện trên, nền sản xuất hàng hóa sẽ khơng xuất hiện.
2. Đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa
Sản xuất hàng hố ra đời là từ sản xuất tự cấp tự túc và thay thế nó

trong q trình lịch sử lâu dài. Sản phẩm của lao động chỉ mang hình
thái hàng hố khi nhằm đưa ra trao đổi, mua bán trên thị trường. Nghĩa
là, có thể có yếu tố sản phẩm của người lao động song khơng phải là hàng
hố khi sản phẩm đó khơng nhằm mục đích sản xuất để trao đổi. Hàng
4


hố có thể sử dụng cho nhu cầu cá nhân hoặc nhu cầu sản xuất. Hàng
hố có thể tồn tại ở dạng vật thể hoặc ở dạng phi vật thể.
Kinh tế hàng hóa ra đời, gắn liền với các phạm trù: hàng hóa, tiền tệ,
trao đổi, giá cả, giá trị... là kiểu tổ chức kinh tế trong đó từ sản xuất đến
tiêu dùng phải thông qua khâu trung gian là thị trường. Đó có thể coi là
những đặc trưng riêng của sản xuất hàng hóa so với kiểu tổ chức kinh tế
tự cung, tự cấp. Nhắc đến sản xuất hàng hóa là nhắc đến mối liên hệ giữa
người mua và người bán, xung quanh đối tượng là hàng hóa và tiền tệ. Ở
đó, mục đích của người bán là giá cả, giá trị, cịn mục đích mà người mua
hướng đến là giá trị sử dụng. Hoạt động mua bán, trao đổi diễn ra trên
thị trường, chịu sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan: quy luật
giá trị, quy luật cạnh tranh, quy luật cung cầu. Những ưu thế của sản xuất
hàng hóa được thể hiện qua những nội dung sau đây:
Một là, sản xuất hàng hóa ra đời đã phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ
trì trệ, lạc hậu, giải phóng lực lượng sản xuất.
Sản xuất tự cung tự cấp với mục đích sản xuất ra những giá trị sử dụng
để thỏa mãn nhu cầu tiêu dùng của chính người sản xuất, nên khơng tạo
ra động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Sản xuất hàng hóa là sản xuất
cho người khác, cho xã hội, sản xuất để bán, vì mục tiêu lợi nhuận, do đó
nó tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sản
xuất hàng hóa khơng những giúp cho người mua và người bán có quan
hệ với nhau, mà còn tạo ra mối liên hệ giữa những người sản xuất nhỏ
lẻ, giữa các cộng đồng dân cư, rộng hơn là giữa các quốc gia, dân tộc. Tính

chất cát cứ, vùng miền bị xóa nhịa, khi đó, một hàng hóa được sản xuất
ra ở một nơi trở thành sản phẩm tiêu dùng ở một địa phương khác, thỏa
mãn nhu cầu của người khác. Tính tự cấp, tự túc, bảo thụ trì trệ, lạc hậu
dần mất đi, mở đường cho lực lượng sản xuất có bước phát triển vượt
bậc, khối lượng hàng hóa tạo ra ngày càng nhiều vì giờ đây, hàng hóa

5


người sản xuất làm ra sẽ phục vụ cho nhu cầu của hàng triệu người tiêu
dùng khác.
Hai là, sản xuất hàng hóa thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản
xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm.
Trong sản xuất tự cung tự cấp, quy mô sản xuất nhỏ, chủ yếu dựa vào
nguồn lực sẵn có của tự nhiên, nhu cầu tiêu dùng thấp nên khơng có cạnh
tranh, khơng tạo ra động lực mạnh mẽ thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, nâng
cao chất lượng sản phẩm. Với lực lượng sản xuất thủ công lạc hậu, người
lao động chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, nên nền sản xuất tự cung tự cấp
không thể tạo năng suất lao động cao, không tạo ra tích lũy cần thiết để
tái sản xuất mở rộng.
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra sản phẩm để bán, do đó có sự cạnh
tranh gay gắt giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh. Để giành ưu thế trong
cạnh tranh, người sản xuất phải năng động, sáng tạo, linh hoạt, thường
xuyên cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất để tăng năng suất, nâng cao
chất lượng sản phẩm. Cùng với đó là việc tiết kiệm chi phí sản xuất nhằm
mục đích thu lợi nhuận cao càng thúc đẩy người sản xuất phải quan tâm
tới cải tiến kỹ thuật, ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất kinh
doanh, từ đó góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Mặt khác,
phân công lao động là điều kiện cho sự ra đời của sản xuất hàng hóa,
nhưng khi sản xuất hàng hóa càng phát triển lại tác động làm cho phân

công lao động càng trở nên sâu, rộng hơn, khơng chỉ theo chiều rộng mà
cịn mở rộng theo chiều sâu. Phân công lao động xã hội phát triển góp
phần thúc đẩy cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất, nâng cao chất lượng
sản phẩm.
Ba là, sản xuất hàng hóa thúc đẩy giao lưu văn hố.
Sản xuất tự cung tự cấp, quy mơ mang tính khép kín, điều kiện sản
xuất hạn hẹp, sản phẩm sản xuất ra chỉ để phục vụ nhu cầu nội tại của
bản thân người sản xuất mà khơng có nhu cầu và động lực trao đổi, giao
6


lưu với bên ngồi khiến cho sản xuất mang tính cát cứ, vùng miền, người
sản xuất khơng có điều kiện để mở rộng hoạt động giao lưu kinh tế - xã
hội. Từ đó ngày càng làm tăng tính khép kín, bảo thủ trong cả sản xuất
và quan hệ xã hội.
Sản xuất hàng hóa ra đời khơng chỉ góp phần mở rộng giao lưu kinh
tế mà còn mở rộng giao lưu văn hoá, làm thoả mãn ngày càng tốt hơn đời
sống tinh thần của con người. Sản xuất hàng hóa tạo ra năng suất lao
động cao, chất lượng hàng hóa ngày càng cải thiện và khối lượng ngày
càng nhiều, chủng loại đa dạng và phong phú làm cho thị trường được
mở rộng, giao lưu kinh tế - xã hội giữa các vùng, các miền, các địa phương
và quốc tế phát triển, tạo điều kiện thỏa mãn các nhu cầu vật chất và tinh
thần ngày càng cao của con người. Mỗi sản phẩm hàng hóa giờ đây khơng
chỉ đơn thuần là vật phẩm đem ra trao đổi, mua bán trên thị trường mà
còn phản ánh đặc trưng mỗi vùng miền, phản chiếu đời sống vật chất,
tinh thần của người lao động.
II. ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH
HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1. Những mặt tất yếu khách quan tồn tại nền kinh tế thị trường ở Việt
Nam

Kinh tế thị trường là giai đoạn phát triển cao của kiểu tổ chức kinh tế sản
xuất hàng hóa, ở đó các quan hệ kinh tế đều được thực hiện trên thị trường,
thông qua trao đổi, dưới sự chi phối của các quy luật kinh tế khách quan.
Như vậy, xét về bản chất, kinh tế thị trường cũng chính là kinh tế hàng
hóa. Xét về trình độ, kinh tế thị trường là một giai đoạn có trình độ phát
triển cao của kiểu tổ chức kinh tế sản xuất hàng hóa. Đó là khi mà tất cả
sức lao động, dịch vụ, chất xám,... đều là hàng hóa; khi thị trường được
mở rộng phong phú, hoàn thiện, đồng bộ; khi các quan hệ kinh tế trong
7


quá trình tái sản xuất xã hội đều được tiền tệ hóa. Cùng với sự phát triển
của lực lượng sản xuất, quan hệ hàng hóa - tiền tệ cũng ngày càng được
mở rộng, kiểu tổ chức kinh tế sản xuất hàng hóa lần lượt phát triển qua
các giai đoạn khác nhau: sản xuất hàng hóa, kinh tế hàng hóa và kinh tế
thị trường.
Đối với Việt Nam, Đảng ta luôn kiên định con đường, mục tiêu phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sau 35 năm
đổi mới, cùng với những vấn đề đúc rút từ thực tiễn phát triển đất nước,
quan điểm của Đảng về nền kinh tế thị trường định hưỡng xã hội chủ
nghĩa không ngừng được phát triển và ngày càng hoàn thiện. Kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đó là “nền KTTT định hướng XHCN
Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của
kinh tế thị trường; đồng thời, bảo đảm định hướng XHCN phù hợp với
từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện
đại và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền XHCN, do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh”.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tồn tại ở Việt Nam
là tất yếu khách quan. Nó xuất phát từ những lý do sau:

Một là, kinh tế thị trường tồn tại ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, sự lựa chọn
mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tất yếu, bởi
vì, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, hai điều kiện quy
định sự ra đời và tồn tại của kinh tế hàng hóa, kinh tế thị trường khơng
những chưa mất đi mà ngày càng bộc lộ rõ nét.
Phân công lao động xã hội ngày càng phát triển (cả chiều rộng,
chiều sâu, không chỉ ở trong nước mà đang từng bước vươn ra quốc tế).
Theo chiều rộng, phân công lao động xã hội không giới hạn trong một
vùng, miền hay khu vực lãnh thổ nào mà phân công cả trong các ngành,
8


các vùng, các thành phần kinh tế, đã hình thành một cơ cấu ngành nghề
đa dạng trong phạm vi cả nước, tạo ra một nền kinh tế vừa đa dạng, vừa
thống nhất, khai thác có hiệu quả thế mạnh của từng địa phương, từng
nhóm người lao động.
Theo chiều sâu, ở đây là phân công lao động trong nội bộ doanh
nghiệp, phân công lao động quốc tế. Sản xuất càng phát triển thì càng
xuất hiện ngày càng nhiều loại sản phẩm phức tạp, khiến cho một người,
một nhóm người lao động, thậm chí một quốc gia cũng khó có thể độc
lập tiến hành sản xuất ra chúng, nếu tiến hành sản xuất độc lập thì chi
phí sản xuất sẽ rất cao. Thực tế đó địi hỏi việc phân cơng lao động,
chun mơn hóa sản xuất phải đi sâu vào từng chi tiết của sản phẩm,
điều này có nghĩa, nếu trước đây phân công lao động được hiểu là mỗi
người lao động tập trung vào sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm;
thì ngày nay, mỗi người, mỗi nhóm người chỉ tập trung vào sản xuất ra
một chi tiết của sản phẩm. Rộng ra là mỗi quốc gia đảm nhiệm một chi
tiết, một bộ phận, một công đoạn của một sản phẩm. Phân công lao động
xã hội phát triển theo chiều sâu thúc đẩy sự phát triển khoa học kỹ thuật,

nâng cao năng suất lao động.
Có sự độc lập về kinh tế giữa các chủ thể kinh tế. Trong thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta còn tồn tại nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế khác nhau tạo nên sự tách biệt và độc lập tương
đối giữa các chủ thể kinh tế. Sự độc lập còn do sự tách biệt về quyền sở
hữu và quyền sử dụng về tư liệu sản xuất quy định.
Hai là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tồn tại ở Việt
Nam là tất yếu khách quan.
Nó xuất phát từ tính ưu việt của kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Ngày nay, cùng với việc các loại thị trường truyền thống có sự phát
triển, thay đổi to lớn như thị trường hàng hóa với sự xuất hiện các loại
9


hàng hóa mới, thị trường tài chính,... cịn xuất hiện các loại thị trường
mới, rất sôi động như thị trường bất động sản, thị trường khoa học công
nghệ. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều kiện và
mở ra cơ hội cho tất cả các loại thị trường có điều kiện phát triển tồn
diện. Bên cạnh đó kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa hạn
chế và khắc phục tối đa rủi ro mà các mơ hình kinh tế khác như kinh tế
thị trường tự do, kinh tế thị trường - xã hội mang đến như thất nghiệp,
lạm phát cao, phân hóa giàu nghèo, thảm họa mơi trường, đạo đức con
người tha hóa, khủng hoảng kinh tế.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với
nguyện vọng của nhân dân. Có rất nhiều mơ hình kinh tế thị trường như
kinh tế thị trường tự do ở Tây Âu, Bắc Mỹ, mô hình kinh tế thị trường xã hội ở Tây – Bắc Âu như Đức, Thụy Điển, Na Uy, Phần Lan. Song mơ
hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới mục tiêu làm
cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, đã từng bước
đưa chúng ta thốt khỏi khủng hoảng kinh tế, vươn mình từ một nước

nông nghiệp kém phát triển sang một nước đang phát triển với nhiều cơ
hội mở ra. Nó khác hẳn với các mơ hình khác tuy nước mạnh nhưng dân
khơng giàu. Nó được sự tin tưởng, phù hợp với nguyện vọng của nhân
dân.
2. Giải pháp phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay
Một là, thực hiện nhất quán chính sách kinh tế nhiều thành phần.
Đây là cơ sở cho phép huy động được mọi nguồn lực, tạo sức mạnh
tổng hợp để phát triển lực lượng sản xuất, tạo ra sự tách biệt giữa các
chủ thể kinh tế, tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy nền kinh tế phát
triển năng động.
Đảng ta xác định cần tiếp tục quán triệt sâu sắc và thực hiện nhất
quán chính sách kinh tế nhiều thành phần, coi đó là vấn đề chiến lược
10


lâu dài trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Phải coi
các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận cấu
thành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển trong sự hợp tác, cạnh tranh lành mạnh.
Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị với bất cứ thành phần kinh tế
nào. Chính mơi trường cạnh tranh bình đẳng tạo động lực huy động các
nguồn lực trong và ngoài nước. Đối với mỗi thành phần kinh tế cụ thể
phải xác định rõ vị trí, vai trị của nó, có chính sách phù hợp nhằm
khuyến khích sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nhà nước phải cụ thể hố bằng hệ thống pháp luật, chính sách cụ
thể đối với mọi thành phần kinh tế. Tăng cường sức mạnh của kinh tế
nhà nước để thực sự giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng
để nhà nước định hướng điều tiết nền kinh tế. Kinh tế nhà nước cùng với
kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế

quốc dân. Kinh tế tư nhân có vai trị quan trọng, là một trong những động
lực của nền kinh tế.
Hai là, đẩy mạnh phân công lao động xã hội, tạo lập đồng bộ các loại
thị trường.
Đẩy mạnh phân công lao động theo hướng chun mơn hóa. Phân
bố lại lao động và dân cư trong phạm vi cả nước cũng như từng địa
phương, từng vùng, hợp tác hoá nhằm khai thác mọi nguồn lực, phát
triển nhiều ngành nghề, sử dụng có hiệu quả cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện có, tạo nhiều việc làm cho người lao động. Các doanh nghiệp, công
ty lắp ráp dây chuyền sản xuất tiên tiến, hiện đại. Khai thác, sử dụng có
hiệu quả các tiềm năng của nền kinh tế về lao động, tài nguyên, cơ sở vật
chất kỹ thuật. Cùng với việc mở rộng phân công lại lao động trong nước,
phải tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài nhằm gắn phân
công lao động trong nước với phân công lao động quốc tế, gắn thị trường
trong nước với thị trường thế giới.
11


Ba là, phát triển khoa học, công nghệ , đẩy mạnh cơng nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Khoa học cơng nghệ là yếu tố cơ bản để làm thay đổi về chất lượng
của nền sản xuất, là yếu tố quyết định đến sức cạnh tranh của sản phẩm.
Trong nền kinh tế thị trường, các chủ thể kinh tế đều được tự do trong
sản xuất kinh doanh. Để đứng vững và dành ưu thế trong cạnh tranh, các
doanh nghiệp luôn phải thực hiện tăng năng suất lao động, tức là phải
thường xuyên đổi mới cơng nghệ, hợp lý hố sản xuất, giảm chi phí, nâng
cao chất lượng sản phẩm, do đó, khoa học - công nghệ được xem là giải
pháp hàng đầu. Trong thời gian tới, cần:
Đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng công nghệ. Trước mắt, nhà nước
cần tập trung đầu tư xây dựng những cơng trình thiết yếu như: Các cơng

trình giao thơng vận tải, điện, thơng tin liên lạc, ngân hàng, dịch vụ, bảo
hiểm. Về lâu dài phải phát triển đồng bộ và hiện đại kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội. Đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở công nghệ như các viện nghiên
cứu, các trường đại học, các trung tâm triển khai khoa học - công nghệ
cao. Mở rộng mạng lưới dịch vụ khoa học công nghệ như: tư vấn, thẩm
định, bảo vệ sở hữu cơng nghiệp, thơng tin cơng nghệ, kiểm sốt và bảo
vệ môi trường. Phải đẩy mạnh công tác nghiên cứu và ứng dụng những
thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học, cơng nghệ vào sản xuất và
lưu thơng hàng hố. Phát triển thị trường khoa học công nghệ. Đào tạo
đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học.
Bốn là, nâng cao hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước.
Đổi mới sâu rộng cơ chế quản lý kinh tế, phát huy những yếu tố
tích cực của cơ chế thị trường, triệt để xoá bỏ bao cấp đối với các doanh
nghiệp nhà nước, tăng cường vai trò quản lý và điều tiết vĩ mơ của nhà
nước, gắn với đấu tranh có hiệu quả chống các hành vi tham nhũng, lãng
phí. Tiếp tục đổi mới các công cụ quản lý vĩ mô của Nhà nước đối với nền
kinh tế như: xây dựng và hồn thiện hệ thống pháp luật; đổi mới cơng
12


tác kế hoạch hố, nâng cao chất lượng cơng tác xây dựng chiến lược, quy
hoạch và kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hoạt động có
hiệu quả. Chuẩn hóa đội ngũ cán bộ cơng chức, minh bạch hóa cơng tác
đào tạo, bồi dưỡng, thu hút, sử dụng và đãi ngộ nhân tài; cụ thể hóa
quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm đối với từng vị trí trong cơ quan
quyền lực nhà nước.
Năm là, mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại.
Đẩy mạnh xuất khẩu, giảm dần nhập siêu. Tranh thủ mọi khả năng
và bằng nhiều hình thức thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chủ

động tham gia các tổ chức thương mại quốc tế, các diễn đàn kinh tế. Đa
phương hóa, đa dạng hóa với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới,
lựa chọn đối tác tin cậy để thúc đẩy quan hệ kinh tế đối ngoại ở Việt Nam.
Sáu là, giải quyết các vấn đề xã hội.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế, Đảng ta luôn xác định: cùng với
sự phát triển kinh tế, phải phát triển lành mạnh về mặt xã hội, giải quyết
tốt các vấn đề xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong
từng bước và từng chính sách phát triển. Giải quyết tốt các vấn đề xã hội
sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất, tăng năng suất lao động,
khuyến khích nhân dân làm giàu chính đáng và hợp pháp.
Trong thời gian tới, cần tạo ra nhiều việc làm mới; chăm lo cải
thiện điều kiện làm việc, bảo đảm an tồn, vệ sinh lao động, phịng chống
tai nạn và bệnh nghề nghiệp; từng bước mở rộng hệ thống bảo hiểm xã
hội và an sinh xã hội; cải cách cơ bản chế độ tiền lương đối với cán bộ
công chức, có chính sách khuyến khích tài năng, khắc phục tình trạng
lương và trợ cấp bất hợp lý, tôn trọng thu nhập hợp pháp của người kinh
doanh; tiếp tục thực hiện tốt chương trình xố đói giảm nghèo, chăm sóc
những người có cơng, coi đây là nhiệm vụ quan trọng của tồn xã hội;
đẩy mạnh đấu tranh phịng chống các tệ nạn xã hội, giữ gìn trật tự và kỷ
13


cương xã hội; nâng cao chất lượng chăm sóc sức khoẻ nhân dân và cơng
tác dân số, kế hoạch hố gia đình và chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em;
kiên quyết đấu tranh với những tiêu cực do mặt trái của cơ chế thị
trường gây ra, các quan điểm sai trái.
Mỗi giải pháp có vị trí, vai trị khác nhau, có quan hệ biện chứng,
thống nhất với nhau. Thực hiện tốt các giải pháp là cơ sở để đẩy mạnh,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam. Do đó trong q trình thực hiện, khơng được xem nhẹ hay tuyệt

đối hóa bất cứ giải pháp nào.

14


KẾT LUẬN
Sự ra đời và phát triển của nền sản xuất hàng hoa thực sựu là một bước
tiến lớn trong lịch sử nhân loại. Xã hội ngày càng phát triển, nhu cầu về hàng
hóa ngày càng tăng cao, thêm vào đó là sự phát triển của khoa học cơng nghệ
cùng với sự tác động mạnh của cuộc cách mạng lần thứ tư đã mở ra cơ hội
cho tất cả các qc gia, dân tộc trong phát triển kinh tế nói chung, nâng cao
sức mạnh của hàng hóa trên thị trường nói riêng.
Mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là tư duy lý
luận sáng tạo, cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam vừa phù hơp với
điều kiện, khả năng và nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước. Cần phải có
chiến lược cũng như những giải pháp hữu hiệu để việc phát triển kinh tế của
đất nước đảm bảo hài hòa hai yếu tố, đó là: Phát triển “nhanh” và “bền vững”.
Đây là hai yêu cầu song hành, bởi với một nền kinh tế đang phát triển như
Việt Nam nếu như khơng có giải pháp để đạt một tốc độ phát triển ở mức
cao thì rất dễ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”. Vì vậy, chúng ta phải khơng
ngừng hồn thiện bổ sung lí luận góp phần thực hiện thắng lợi trong cơng
cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và Ph. Ăngghen toàn tập, Tập 23, Nxb CTQG Sự thật.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần
thứXII.

3.

/>
voi-san-xuat-tu-cung-tu-cap-c126a20456.html#ixzz6zpADqyZg
4. thichhohap.com/chu-nghia-mac-lenin/san-xuat-hang-hoa.html
5. />
16



×