Làng – Kim Lân
I.
Tác giả Kim Lân
Tên thật: Nguyễn Văn Tài
Quê: BN.
Vị trí:là nhà văn tiêu biểu của văn học VN hiện đại, là cây bút chuyên viết truyện
ngắn. Ông am hiểu sâu sắc tâm lí cảnh ngộ đời sống sinh hoạt của những người
nông dân tần tảo lam lũ nhân hậu và giàu lòng yêu nc.
Tập trung miêu tả khung cảnh nơng thơn và hình tượng người nơng dân .Ông viết
hay về những thú vui phong lưu đồng ruộng. Ông viết về nông thôn, mảnh đất được
nhiều nhà văn cày xới nhưng Kim Lân đã tạo nên trong thế giới văn chương của
mình 1 nơng thơn trong sáng, đơn sơ, thuần hậu với người quê mộc mạc, ấm áp tình
người
Truyện của Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi lối kể chuyện mộc mạc, ngôn ngữ
nhuần nhị, dân giã, chất phác, cách xây dựng tình huống truyện độc đáo, lựa chọn
chi tiết đặc sắc.
II.
Tác phẩm
Vị trí:là 1 trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của Kim Lân và văn xuôi kháng
chiến chống Pháp viết về đề tài người nông dân. Được đăng lần đầu trên tạp chí
Văn nghệ (1948)
HCST: đc vt năm 1948, thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống pháp, đăng lên tạp
chí văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc.
Ngôi kể: ngôi thứ 3 – khách quan tin cậy. Gợi cảm giác chân thực gần gũi, dễ dàng
khai thác tâm lí nhân vật. Linh hoạt thay đổi giữa ko gian này với ko gian khác.
Tình huống truyện: ơng Hai nghe tin làng chợ Dầu theo giặc
Kim Lân miêu tả chân thực tinh tế diễn biến tâm lí tình cảm của ơng Hai từ đó làm
sáng lên vẻ đẹp tâm hồn ơng Hai. Đó là tình u làng thống nhất, hịa quện với tình
u q hương, đất nước. Và đó cũng là tình cảm điển hình của người nơng dân
Việt Nam trong thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
III.Phân tích tác phẩm
Mở bài: Hình tượng người nơng dân là một dịng chảy lớn trong nền văn học Việt
Nam hiện đại. Ta từng biết đến Chị Dậu trong tác phẩm Tắt Đèn của Ngô Tất Tố ,
Lão Hạc trong tác phẩm cùng tên của Nam Cao. Họ là những nạn nhân đau khổ của
chế độ cũ, bị áp bức, đè nén, chịu cảnh siu cao, thuế nặng, bị tước đi quyền được
sống. Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, những người nông dân trong chế độ cũ
dưới ánh sáng của Đảng đã rũ bùn, thoát khỏi khổ đau, trở thành chủ nhân của nước
Việt Nam DCCH. Viết về đề tài này, Kim Lân là người am hiểu sâu sắc tâm lí của
người nơng dân. Đây là mảnh đất đã được nhiều nhà văn cày xới nhưng Kim Lân đã
tạo nên trong thế giới văn chương của mình những trang viết được coi là thần bút,
là bảo tàng về người nông dân, làm hiện lên một nông thôn trong sáng, đơn sơ,
thuần hậu. Với truyện ngắn làng thơng qua hình tượng ơng Hai, Kim Lân đã khắc
họa thành cơng hình ảnh người nơng dân thật thà, chất phác vừa có tình u làng
tha thiết sâu đậm, vừa có chuyển biến mới trong nhận thức về tình cảm với làng,
kháng chiến, cách mạng. Điều đó đã đem lại trong trang sách của ơng những hình
ảnh đẹp đẽ về người nơng dân Việt Nam thời kì đầu kháng chiến chống Pháp.
Thân bài:
1. Ơg Hai là người nơng dân thật thà, chất phác, đôn hậu
Nhân vật ông Hai gây ấn tượng với người đọc bởi nét chất phác, thật thà. Điều đó
được thể hiện qua ngơn ngữ , tâm lí tình cảm của ơng.
- Là người ít học nhưng ơng Hai lại có tính thích nói chữ, thích nói những thuật
ngữ Cách mạng như phần đơng những người nông dân thời bấy giờ.
- Ngôn ngữ của ông Hai có phần bỗ mã như: “nắng này bỏ mẹ chúng nó. Thì
vưỡn. Tồn là sai sự mục đích cả”…
- Tình cảm của ông Hai rất đặc trưng của người nông dân Bắc bộ. Ông hay
khoe làng bất kể người nghe có thích hay khơng. Ơng vui cái vui của làng,
ơng buồn cái buồn của làng, ơng thích nói chuyện kháng chiến.
- Ông ghét thậm những anh cậy ta đây lắm chữ, đọc báo cũng đọc thầm một
mình, khơng đọc to cho người khác nghe nhờ. Ông thường bàn tán những sự
kiện nổi bật của cuộc kháng chiến một cách chân thành mộc mạc
Với những nét tình cảm, tâm lí, lời ăn tiếng nói chân thực ấy, dường như ơng
Hai đã từ cuộc đời bước vào trang sách rồi lại từ trang sách bước ra cuộc đời
khiến người đọc phải nhớ mãi.
2. Ơng Hai là người nơng dân có tình u làng tha thiết, sâu đậm. Tình u làng
gắn bó với tình yêu nước, tình cảm cách mạng.
Tình yêu làng của ông Hai giống như ngọn lửa cháy sáng theo thời gian, dù là trước
cách mạng hay sau cách mạng, dù khi còn ở làng hay khi phải đi tản cư. Tình u
ấy được thử thách và ngời sáng khi ơng Hai nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc.
Cũng như bao người nơng dân khác, ơng Hai cũng có một cái làng để mà gắn bó, để
mà u thương. Ơng u cái làng Chợ Dầu của ơng bằng một tình u mộc mạc
nhưng bền bỉ, làng Chợ Dầu cần thiết với ông như miếng cơm ăn, ngụm nước uống,
manh áo mặc hàng ngày. Làng đã trở thành điều thiêng liêng nhất, gắn bó nhất, như
sinh mệnh thứ ha của ơng. Bởi thế , mọi vui buồn trong cuộc sống của ông Hai đều
gắn với cái làng ấy
- LC1: Tình yêu làng của ơng Hai bộc lộ qua thói quen hay khoe làng.
Ơng ln tự hào và khoe về làng dù trước hay sau cách mạng, ơng Hai đều nói về
làng của mình một cách say sưa, náo nức lạ thường. “Khoe làng” đã trở thành cái
tật của ông Hai. Trước Cách mạng, ông khoe về sự giàu đẹp của làng. Làng ơng
giàu có nhất vùng, cái gì làng ơng cũng nhất, cũng đẹp, cũng hơn hẳn làng khác, ăn
đứt thiên hạ... Cái tật khoe làng là biểu hiện của tình yêu làng, tự hào hãnh diện về
sự giàu đẹp của lg, là biểu hiện của tình yêu làng chân thật, của người nơng dân gắn
bó bền chặt với mảnh đất q hương. Sau Cách mạng tháng Tám, những người
nông dân như ông Hai đã được giác ngộ, cách mạng đã giúp ông nhận ra sự ngộ
nhận sai lầm của mình. Vì cái sinh phần mà ông khổ và biết bao người làng ơng
phải khổ sở. Ơ vẫn khoe làng, nhưng ơng khoe về tinh thần kháng chiến sôi nổi, dồn
dập của làng ơng
Có thể thấy tình cảm đối với làng q của ơng Hai thật chân thành mộc mạc
và đó là nét rất đáng quý ở người nông dân Việt Nam.
- LC2: Ở nơi tản cư
Tình u làng của ơng Hai cịn được bộc lộ qua nỗi nhớ làng. Bởi vậy buổi đầu
kháng chiến ông nhất quyết khơng đi tản cư. Sau này vì hồn cảnh gia đình, ơng
buộc phải đi tản cư vì ơng hiểu và tâm niệm “tản cư âu cũng là kháng chiến”. Ở nơi
tản cư cuộc sống vất vả, khó khăn phải đi ăn nhờ, ở đậu nhưng lúc nào lòng dạ ô
cũng nhớ về, hướng về mảnh đất quê hương. Nhớ làng, ông nhớ những kỉ niệm
cùng anh em đồng chí kháng chiến sơi nổi, nhớ làng ơng thường xun nghe ngóng
tin tức về kháng chiến từ phịng phát thanh nơi tản cư là lại tiếp tục khoe về làng.
Ông khoe mà chẳng cần biết người nghe có chú ý khơng, chỉ cần nói cho sướng cái
miệng, cho đỡ nhớ cái làng của ông. Rõ ràng ô hai chỉ xa làng về khoảng cách địa lí
chứ chưa từng xa làng trong tâm trí.
Ơng Hai u làng, làng gắn bó như máu thịt, cần thiết như hơi thở. Bởi thế mọi vui
buồn trong cuộc sống của ông Hai đều gắn với cái làng ấy. Từ tình u làng mang
tính cảm tính, chân thành mộc mạc đã có sự chuyển biến sâu sắc. Tình u làng của
ơng Hai trở nên đặc biệt và hấp dẫn khi nó trở nên cao độ khi ông Hai nghe tin làng
Chợ Dầu theo Tây từ một người đàn bà tản cư. Từ đây cho thấy sự chuyển biến sâu
sắc trong tư tưởng: tình yêu làng gắn bó với tình u nước, u cách mạng. Ơng Hai
càng yêu làng bao nhiêu thì khi nghe tin làng theo giặc,ông càng đau đớn, tủi hổ
bấy nhiêu
- Lúc mới nghe tin làng theo giặc, ơng bàng hồng, sững sờ như sét đánh ngang tai,
cái tin dữ ấy không chỉ làm ông chấn động về thể xác mà còn ám ảnh, day dứt về
tinh thần: “cổ ô lão..”. Đang ở đỉnh cao của niềm vui, ông Hai như rơi xuống vực
thẳm của sự đau đớn, tủi hổ. Ơng tưởng như khơng thở được, nỗi xấu hổ khiến “da
mặt..”, như chính ơng là Việt gian theo Tây
- Khi chấn tĩnh lại, bán tín bán nghi, ơng cố vớt vát bằng 1 câu hỏi: “liệu có thật
khơng hả bác?”. Nhưng câu trả lời sỗ sàng của người đàn bà tản cư rành rọt và xác
thực quá, xác thực cả về thời gian, không gian, tên người (…). Tất cả như một gáo
nước lạnh dập tắt tồn bộ hi vọng của ơng, khiến ơng không thể không tin, trong
chốc lát, nỗi xấu hổ, tủi nhục khiến ơng Hai khơng dám nhận mình là người làng
Chợ Dầu phải tìm cách đánh trống lảng, lầm lũi ra về. Nếu trước đó ( nêu phần khi
ơng Hai ra ngồi đường )thì giờ đây (trên đg vè nhà, ô hai ứ cúi gằm mặt xuống mà
đi trg khi tiếng chửi lanh lảnh của người đàn bà tản cư vẫn bám riết lấy tâm trí ơ. Ơ
vội vàng ra về trg sự trốn tránh, xấu hổ, đau khổ, tủi nhục, bẽ bàng.
Về đến nhà, ông mệt mỏi chán trường, nằm vật ra giường, nhìn lũ con chơi sậm
chơi sụi ngồi sân, nước mắt ơng lão cứ giàn ra. Ơng khóc vì ơng tủi thân cho mình,
cho những đứa con. Chúng cịn bé bỏng, ngây thơ, chúng làm gì nên tội mà pải
mang tiếng là trẻ con làng Việt gian bị người ta dẻ dúng, hắt hủi. Càng thương con
bao nhiêu, ông càng căm giận bọn Việt gian bán nước làng Chợ Dầu bấy nhiêu, ơng
nắm chặt hai tay lại và rít lên: “…. “ Ông cảm thấy xấu hổ, tủi nhục, đau đớn như
chính ơng là người theo giặc.
Ơng Hai gắn bó với làng Chợ Dầu bằng một tình u máu thịt, chính vì thế
ơng coi danh dự của làng cũng như danh dự của chính mình. Từ đấy trong tâm
trí ơng chỉ cịn cái tin dữ xâm chiếm, nỗi ám ảnh day dứt, bao nhiêu câu hỏi
bủa vây rối bời khiến ơng hụt hẫng đến tê dại. Ơng cảm thấy mình như cũng
mang nỗi nhục của một tên bán nước. Vốn là người năng động, vui vẻ hay nói
hay cười, vậy mà những ngày sau đó, ơng trở nên lầm lì, ít nói, nỗi ám ảnh
khiến ơng ngại tiếp xúc và nhiều khi trở nên cáu bẳn.
Suốt mấy ngày hôm sau, ông Hai không dám đi đâu ra khỏi nhà, lúc nào ông
cũng sống trong lo âu, thấp thỏm sợ hãi: “một đám đơng, năm bảy bla bla..”.Ơng
ln sống trong cảm giác mình có lỗi trong việc làng Chợ Dầu theo Tây, tủi hổ
trằn trọc, ơng cảm như có hàng trăm, hàng nghìn mũi dù dư luận đang chĩa vào
ơng. Người lớn khơng dám nói to, trẻ con khơng dám cười đùa. Lòng tự hào và
niềm tin về làng Chợ Dầu của ông bị tổn thương nặng nề. Từng thái độ, cử chỉ,
từng ý nghĩ của ông Hai được Kim Lân chú ý khắc họa sâu sắc qua những dịng
độc thoại nội tâm từ đó tốt lên cuộc đấu tranh nội tâm gay gắt giữa niềm tự hào
kiêu hãnh mà ông dành cho làng với nỗi thất vọng tủi hổ khi làng Chợ Dầu theo
Tây. Nỗi ám ảnh nặng nề khiến cho ông Hai không chỉ nơm nớp lo sợ mà còn rơi
vào bế tắc, tuyệt vọng khi bị mụ chủ nhà lên tiếng đuổi khéo.
Tình yêu làng của ông Hai thêm một lần được thử thách khi ông bị mụ chủ nhà đuổi
khéo. Lúc này bao nhiêu ý nghĩ đen tối, ghê rợn nối tiếp bời bời trong đầu ơng. Biết
bao nhiêu câu hỏi dội lên trong lịng ông: “Biết đem nhau đi đâu…”. Chính trong
lúc tuyệt vọng ấy, ý định đầu tiên xuất hiện trongg tâm trí ông Hai đó là về làng “..”
Điều đó cho thấy về làng chính là khát vọng thường trực trong lịng ông Hai bởi về
làng là về với nơi chôn nhau cắt rốn, là tổ ấm, gắn bó máu thịt với ông, là nơi mà
trái tim ông dù đi đâu cũng hướng về, ý nghĩ muốn về làng trong lúc tuyệt vọng
chính là tiếng nói của tình cảm sự lên tiếng của trái tim ông lão, chứng tỏ làng luôn
chiếm vị trí danh dự, linh thiêng nhất, là điểm tựa tinh thần để một người con đi xa
như ông Hai dù đi đâu làm gì cũng mong được trở về. Đó chính là biểu hiện tình
u làng sâu nặng, tha thiết của ông Hai. Tuy nhiên ý nghĩ về làng vừa mới nhen lên
thì lập tức có một tiếng nói khác, tiếng nói của lý trí ngăn ơng lại. Về làng tức là bỏ
kháng chiến, bỏ Cụ Hồ, là đi ngược lại với quyền lợi của đất nước. Từ đó ý chí đã
đưa ơng đến một quyết định dứt khốt “làng thì yêu thật nhưng làng đã thoe Tây rồi
thì phải thù”. Có thể nói đây là 1 trong những quyết định khó khăn nhất, đau đớn
nhất, dứt khốt nhất của ông Hai. Từ một người nông dân yêu làng, đi đâu cũng nói,
sưa kể về làng, xem làng như máu thịt vậy mà ơng Hai quyết định thù làng. Đó là cả
một cuộc giằng xé quyết liệt giữa lí trí và tình cảm. Ơng Hai khơng bao giờ hết u
làng, ông luôn nhớ làng da diết, ao ước khát khao trở về làng nhưng khi làng theo
Tây, phản bội cách mạng, phản bội kháng chiến thì lý trí bảo ơ phải thù làng nhưng
ô vẫn không thôi yêu làng.
Điều đó cho thấy tình u làng trong lịng ơng Hai dù có thiết tha nhưng cũng
khơng thể mãnh liệt bằng tình u đất nước. Đó chính là vẻ đẹp trong tâm hồn
ơng Hai, ơng hiểu rằng nước mất thì nhà tan, vì thế ơ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm
riêng tư để sống với tình cảm chung của đất nc. Rõ ràng tình u làng của ơng
Hai gắn với tình yêu đất nước nhưng tình yêu đất nước rộng lớn hơn, bao trùm
lên tình yêu làng.
Mặc dù đã quyết định thù làng song sâu thẳm trong tâm hồn ông Hai vẫn khơng thể
dứt bỏ tình u và nỗi nhớ làng. Có thể nói tình u làng u nước càng được bộc
lộ rõ trong cuộc trị chuyện của ơng Hai với đứa con út, đứa con bé bỏng có lẽ
khơng hiểu được những gì ơng tâm sự nhưng ơng nói với con như để ngỏ lịng mình
cho vơi đi những bế tắc, u uất ở trong lịng, nói với con như để minh oan cho mình
nữa. Câu chuyện của hai bố con ông xoay quanh chuyện làng chuyện nước – hai
mối bận tâm lớn nhất của ông lúc này. Câu hỏi thứ nhất của ông hướng về làng Chợ
Dầu, ông hỏi con có thích về làng Chợ Dầu khơng, hỏi con chính là hỏi lịng mình.
Ơng muốn nhắc nhở con, muốn khắc cốt ghi tâm trong lòng con một điều giản dị
mà rất đỗi thiêng liêng rằng làng là nơi chôn rau cắt rốn, là nơi ơng gắn bó mau thịt.
Chứng tỏ nỗi nhớ quê lúc nào cũng cồn cào, khắc khoải, da diết trong lịng ơng Hai,
phải chăng trong tâm hồn người nông dân chất phác ấy không phút nào ngi ngoai.
Vì vậy lúc nào ơng Hai cũng sâu nặng một nỗi nhớ quê hương. Ông hỏi con: “thế
con ủng hộ ai?”. Khi đứa con trả lời, ông Hai lại trào nước mắt, ơng khóc vì xúc
động, vì đứa con đã ngỏ lộ lịng ơng, minh oan cho ông. Đối thoại với con nhưng
thực chất như ô hai đang độc thoại với chính mình, ngỏ lịng mình, tự minh oan cho
mình rằng trong hồn cảnh nào ơng cũng thủy chung son sắc với kháng chiến, với
Cụ Hồ. Với ông tấm lòng thủy chung, son sắt với đất nước, với Cụ Hồ, “chết thì
chết có bao giờ dám đơn sai”. Như vậy qua những lời tâm sự của ô với đứa con nhỏ
cũng là lời giải bày, minh oan cho chính mính , nhân vật ơng Hai đã thể hiện rõ tình
u làng gắn bó mật thiết với tình yêu nước, tấm lòng thủy chung với cách mạng,
với kháng chiến. Đó là những tình cảm, suy nghĩ vừa sâu sắc, cảm động, vừa lớn
lao, cao cả. Ta cảm nhận rõ vẻ đẹp của ông Hai rất mực yêu làng, thủy chung son
sắc với cách mạng, kháng chiến và ở ơng Hai, tình u làng quện hịa với tình u
đất nước. Đó là những tình cảm vừa sâu sắc, cảm động vừa lớn lao cao cả
Khi nghe tin làng đc cải chính
Tình u làng, u nước của ơng Hai thêm một lần tỏa sáng khi ơng Hai nghe tin
cải chính về làng Chợ Dầu. Cái tin ấy khiến ông Hai vô cùng sung sướng, phấn
khởi, tự hào.
Nét mặt: từ chỗ u ám, buồn rầu “cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui rạng rỡ
hẳn lên, mồm bỏm bẻm nhai trầu cặp mắt hung hung đỏ hấp háy...” . Từ chỗ nằm
bẹp trên giường, giờ đây ông lật đật đi khoe hết nhà này đến nhà khác. Từ chỗ nín
thin thít, tránh mặt mọi người, giờ cái miệng ơng cứ bô bô, chưa thấy người đã thấy
tiếng. Và phút chốc ông lão như hóa thành trẻ thơ. Có thể nói qua những cử chỉ, nét
mặt, tâm trạng, ông Hai đã thể hiện tình yêu làng tha thiết. Nếu như khi nghe tin
làng theo giặc, ơng xấu hổ như chính mình là Việt gian bán nước thì khi nghe tin cải
chính về làng, ông lại phấn khởi, tự hào, sung sướng như mở cờ trong bụng. Có thể
nói mọi vui buồn, yêu ghét hay xấu hổ đều gắn bó với làng, đều từ làng mà ra.
Tin cải chính ấy đã như cải từ hồn sinh cuộc đời ơng Hai, khơi dậy sức sống trong
con người ông lão. Trong phút chốc, ông tươi tỉnh trở lại, ơng như hóa trẻ thơ, trở
thành người tuyên truyền thông tin lật đật đi khắp làng. Sự xấu hổ tủi nhục, tê tái đã
tan biến bởi bao hào hứng phấn khởi trào ra trong lịng ơng lão. Trong những điều
mà ông Hai khoe với mọi người có hai sự kiện nổi bật.
“Tây nó đốt nhà tơi rồi..”. Thoạt đầu nghe tin, ta thấy một điều hết sức phi lý bởi
với người nơng dân ở làng q nói chung và người Việt Nam nói riêng, nhà là tài
sản lớn nhất, là cơ nghiệp mà cả cuộc đời họ phải chắt chiu dành dụm cả đời mới
có được. Nhà là những gì gắn bó thân thuộc, gần gũi nhất, là chỗ trú ngụ che mưa,
che nắng, là tổ ấm để đi về. Do đó, nhà bị đốt phải là nỗi đau nỗi tiếc, nỗi xót. Ấy
vậy mà ơng Hai lại hồ hởi sung sướng, múa tay lên mà khoe. Phải chăng niềm vui
tinh thần vì làng ko theo giặc đã lớn hơn cả sự mất mát về vật chất chăng? Cái nhà
ông bị đốt đã minh oan cho làng Chợ Dầu, là minh chứng hùng hồn cho tinh thần
kháng chiến anh dũng của làng. Đi khoe nhà mình bị đốt cháy rụi, ơng Hai đã quên
đi nỗi đau riêng, nỗi mất mát riêng để tự hào với sức mạnh chung của làng quê. Ơng
tự hào vì ngơi nhà nhỏ bé của ơng đã góp phần cho kháng chiến, cho cách mạng.
Với ơng, nhà bị đốt nhưng làng thì cịn và đó cũng là danh dự của cá nhân ơng. Như
vậy, vì danh dự của làng, ông Hai sẵn sàng hi sinh cả những gì gắn bó nhất, thân
u nhất. Chi tiết này đã biểu hiện một cách sâu sắc và cảm động tấm lịng của
người nơng dân Việt Nam trong kháng chiến chống Pháp. Họ sẵn sàng gạt bỏ tình
riêng vì nghĩa lớn, sẵn sàng hi sinh đến cả tính mạng vì Tổ quốc. Điều đó cho thấy
tình u làng của ơng Hai đã gắn bó với tình u Tổ quốc.
Nếu so với Lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước cách mạng
tháng Tám, những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì
nhân vật ơng Hai đã nhận ra rằng đất nước cịn thì làng cịn, đất nước mất thì làng
cũng mất. Trước niềm vui sướng của ông Hai, ai ai cũng mừng cho ơng, đến cả mụ
chủ nhà lúc trước cịn ghét cay ghét đắng, đánh tiếng đuổi ông đi nhưng khi nghe
tin làng Chợ Dầu không phải Việt gian theo Tây, mụ giương tròn hai mắt lên mà
nghe, hòa chung niềm vui với gia đình ơng Hai. Tối hơm ấy lại như lẽ thường, ông
Hai lại sang bên gian bác Thứ, lại ngồi trên chiếc chõng tre, vén quần lên tận bẹn để
kể cái làng của ơng. Ơng kể cái chuyện kháng chiến đánh giặc ở làng,tỉ mỉ, rành rọt
như thể ông vừa tham gia trận đánh ấy xong thật.
Điều thứ hai mà ơng lão khoe chính là làng ơng không phải làng Việt gian như tin
đồn. Làng ông là làng chống Pháp hết sức dũng cảm. Tin này đã rửa nhục cho ông,
khiến ông càng thêm tự hào, tin tưởng vào bản chất cách mạng của làng quê ông.
Như vậy có thể nói, trái tim của ơng Hai đã liền đã hoà cùng nhịp đập với trái tim
của làng.
*Đánh giá chung: nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành cơng nhân vật ơng Hai qua
một tình huống truyện đặc sắc, đặt nhân vật vào những thử thách bất ngờ, hiểu lầm
rồi vỡ lẽ để nhân vật bộc lộ hết nội tâm của mình.
Ngơn ngữ kể chuyện đặc sắc, mang đậm chất nông dân, sử dụng nhiều khẩu ngữ.
Giọng điệu kể chuyện tự nhiên, hóm hỉnh cho thấy Kim Lân quả là một nhà văn am
hiểu sâu sắc về tâm lí của những người nơng dân chân lấm tay bùn.
-Nội dung: Có thể nói, nhân vật ơng Hai trong truyện ngắn “Làng” của Kim Lân là
một nhân vật đặc sắc để lại dấu ấn đậm nét trong tâm trí độc giả. Là một người
nơng dân chất phác nhưng có tình yêu làng gắn với tình yêu đất nc, tình yêu kháng
chiến mạnh mẽ, vẻ đẹp của ông Hai là vẻ đẹp tiêu biểu cho người nơng dân trong
thời kì kháng chiến chống Pháp. Họ sẵn sàng đặt cái chung lên trên cái riêng. Chính
điều đó làm nên gía trị nhân văn của tác phẩm.
I-li-a Ê-ren-bua: Lòng yêu nước ban đầu là yêu những vật tầm thường nhất yêu cái
cây trồng ở trước nhà, yêu con phố nhỏ đổ ra bờ sông, yêu vị thơm chua mát của
trái lê mùa thu hay mùi cỏ thảo nguyên có hơi rượu mạnh. Lịng u nhà, u làng
xóm, u miền q đã trở nên lòng yêu Tổ quốc