Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC LÀ MỘT SINH VIÊN, EM CẦN LÀM GÌ ĐỂ HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.19 KB, 18 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC DUY TÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
~~~~~~*~~~~~~

TIỂU LUẬN
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠO ĐỨC
LÀ MỘT SINH VIÊN, EM CẦN LÀM GÌ ĐỂ HỌC TẬP
VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
Nhóm sinh viên thực hiện:

Nguyễn Thị Thuỳ Châu

MSSV: 2389

Nguyễn Ngọc Hiệp

MSSV: 2390

Đặng Trung Hiếu

MSSV: 2373

Phan Trọng Hiếu

MSSV: 2391

Dương Khánh Huyền

MSSV: 8510

Đà Nẵng, Ngày 18, tháng 5, năm 2022




MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG I: VAI TRỊ, VỊ TRÍ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH....................................................................................2
1. Vai trị và vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh......................................... 2
2. Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh.................................5
Chương II: Sinh viên học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh .. 9

1. Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay:...........9
2. Phương pháp, định hướng của sinh viên trong việc học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh.............................................................................................................11
KẾT LUẬN............................................................................................................13
TÀI LIỆU THAM KHẢO:...................................................................................15


LỜI MỞ ĐẦU
Bác Hồ là một vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc việt Nam, Danh nhân văn hóa của thế giới.
Với dân tộc Việt Nam, “Người là Cha, là Bác, là Anh, Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ”.
Đất nước ta, dân tộc ta tự hào về Hồ Chủ tịch – một vị anh hùng dân tộc. Người đã dành cả
cuộc đời để cống hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19 tháng 5 năm 1890 tại làng Sen, xã Kim Liên, huyện
Nam Đàn, tỉnh Nghệ An và mất ngày 2 tháng 9 năm 1969 tại Hà Nội. Tên khai sinh là Nguyễn
Sinh Cung, sinh thời Bác có rất nhiều tên gọi, mỗi tên gọi lại gắn liền với khoảng thời gian hoạt
động cách mạng riêng trong những hoàn cảnh riêng. Người sinh ra trong một gia đình Bố là
một nhà nho yêu nước, mẹ là nông dân, chị và anh đều tham gia chống Pháp và bị tù đày. Sinh
ra trong hoàn cảnh mất nước nhân dân lầm than dưới ách đơ hộ của giặc Pháp càng khiến lịng
u nước của Bác được trỗi dậy và nung nấu ý chí đánh đuổi thực dân Pháp từ khi Bác còn rất
trẻ. Vào ngày 3 tháng 6 năm 1911 Bác ra đi tìm đường cứu nước, sang các nước phương Tây và

sống hịa bình với nhân dân lao động. Trong suốt ba mươi năm hoạt động ở nước ngoài Người
đã đi đến nhiều nước vừa học tập vừa hoạt động cách mạng vừa nghiên cứu tìm đường cứu
nước. Năm 1917 sau thắng lợi của cách mạng tháng mười Nga và sự ra đời của của quốc tế
cộng sản đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Từ đây Người nhận ra được con đường
để giải phóng dân tộc chính là cách mạng vô sản. Năm 1920, Người tham gia thành lập Đảng
Cộng sản tại Pháp, tích cực tham gia địi quyền tự do, bình đẳng cho dân tộc. Sau khi về nước
thì Bác đã lãnh đạo phong trào cách mạng của dân tộc. Quân và dân ta đã giành được nhiều
thắng lợi và đặc biệt là sự thắng lợi của cách mạng tháng Tám năm 1945, chiến dịch Điện Biên
Phủ năm 1954. Khi hịa bình được lập lại thì Bác đã đứng ra điểu hành đất nước. Đưa ra nhiều
chính sách, phát động nhiều phong trào và tiếp tục lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phòng miền
Nam thống nhất đất nước.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từ lâu đã trở thành tấm gương về nhiều mặt cho nhiều lớp người
noi theo. Người khơng chỉ tài giỏi, dũng cảm, ý chí quyết tâm sắt đá mà còn là người mang
nhiều phẩm chất đạo đức tốt đẹp. Một người là chủ tịch của cả một quốc gia nhưng lại hết sức
giản dị. Giản dị từ cách ăn mặc, sinh hoạt đến lời nói, cử chỉ. Những chiếc áo nâu sờn cũ, đôi
dép cao su đã theo bác từ những ngày còn ở chiến khu đến khi về thủ đơ. Nó đã theo Bác đi
khắp nẻo đường. Rồi những bữa cơm giản dị, nơi ở là một căn nhà sàn nhỏ, đơn sơ. Bác luôn có
thái độ gần gũi với nhân dân, yêu quý và chăm lo cho đời sống của mọi người, của các cháu
thiếu nhi.Trong những năm lúc Bác đang lâm bệnh nhưng bác vẫn luôn viết những bức thư
nhân ngày khai trường. Chính vì vậy chủ tịch Hồ Chí Minh được nhân dân yêu quý và gọi bằng
tên gọi rất đỗi thân thương, kính trọng: Bác Hồ - vị cha già của dân tộc. Hồ Chí Minh là một
nhà yêu nước, nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam. Nhắc đến Bác, nhân dân Việt Nam
đều kính trọng và thương yêu vô cùng.
1


CHƯƠNG I: VAI TRỊ, VỊ TRÍ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC
HỒ CHÍ MINH
1.
Vai trị và vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí

Minh 1.1. Vai trị đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh
Mỗi xã hội hình thành và phát triển đều dựa trên một nền tảng nhất định cả về vật chất
và tinh thần, kinh tế và chính trị, văn hóa và xã hội. Sự phát triển của xã hội Việt Nam cũng
vậy, nó địi hỏi phải có nền tảng vật chất và tinh thần cho sự phát triển lâu dài, bền vững, trong
đó khơng thể thiếu lĩnh vực đạo đức. Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, được hình thành
thơng qua vai trị chủ động, tự giác của con người. Do đó, việc hình thành một nền đạo đức nền tảng tinh thần cho sự phát triển bền vững của xã hội Việt Nam trong hiện tại và tương lai,
phải có định hướng, phù hợp với thực tiễn phát triển của dân tộc.
Sự phát triển của đất nước trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra hàng loạt vấn đề về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, con
người. Khi chúng ta khẳng định tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, là
nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam, thì tư tưởng
đạo đức Hồ Chí Minh chính là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho việc xây dựng nền đạo đức
Việt Nam hiện nay và mai sau.
Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là sự kết tinh những giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, chứa đựng những hạt nhân hợp lý, chắt lọc từ tinh hoa giá trị đạo đức nhân loại,
phù hợp với những điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của Việt Nam, hướng tới những giá trị
mang tầm thời đại. Vì vậy, rèn luyện và tu dưỡng đạo đức cách mạng theo Chủ tịch Hồ Chí
Minh chính là nhiệm vụ cấp bách, trước mắt, cũng như lâu dài trong tương lai của đội ngũ cán
bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân, như Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ: “Tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với chống
suy thối về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống... Tăng cường rèn luyện phẩm chất đạo đức
cách mạng…”
Hồ Chí Minh khẳng định, đạo đức cách mạng giúp cho con người vững vàng trong mọi
thử thách. Người viết: “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn, gian khổ, thất bại, cũng
không sợ sệt, rụt rè, lùi bước”; “khi gặp thuận lợi và thành công cũng giữ vững tinh thần gian
khổ, chất phác, khiêm tốn, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”; lo hoàn thành nhiệm vụ cho tốt
chứ không kèn cựa về mặt hưởng thụ; không công thần, khơng quan liêu, khơng kiêu ngạo,
khơng hủ hóa.
Đối với Đảng, tổ chức tiền phong chiến đấu của giai cấp công nhân, nhân dân lao động
và của cả dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh yêu cầu phải xây dựng Đảng ta thật trong sạch, Đảng

2


phải “là đạo đức, là văn minh”. Người thường nhắc lại ý của V.I.Lênin: Đảng Cộng sản phải
tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại.
Vấn đề đạo đức được Hồ Chí Minh đề cập đến một cách toàn diện. Người nêu yêu cầu
đạo đức đối với các giai cấp, tầng lớp và các nhóm xã hội, trên mọi lĩnh vực hoạt động, trong
mọi phạm vi, từ gia đình đến xã hội, trong cả ba mối quan hệ của con người: đối với mình, đối
với người, đối với việc. Tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt được mở rộng trong lĩnh vực đạo đức
của cán bộ, đảng viên, nhất là khi Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền. Trong bản Di chúc bất
hủ, Người viết: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thực sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần kiệm, liêm chính, chí cơng vơ tư”.
1.2. Vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh coi đạo đức là nền tảng của người cách mạng, cũng giống như gốc của cây,
ngọn nguồn của sơng, của suối. Như Người vẫn thường nói, đối với con người, sức có mạnh
mới gánh được nặng và đi được xa; người cách mạng phải có đạo đức cách mạng mới hoàn
thành được nhiệm vụ cách mạng. Bởi lẽ, sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là sự
nghiệp rất to lớn, khó khăn và nặng nề; con đường đi đến độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là
con đường dài, không phải là một đại lộ thẳng tắp. Nó địi hỏi sự phấn đấu không ngừng của
mỗi người, mỗi thế hệ, hơn nữa còn của nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Chăm lo cái gốc, cái nguồn,
cái nền tảng ấy phải là cơng việc thường xun của tồn Đảng, tồn dân, của mỗi gia đình và
mỗi người trong xã hội ta.
Có phải như vậy là Hồ Chí Minh theo thuyết chủ nghĩa xã hội đạo đức? Hồn tồn
khơng phải như vậy. Người khơng bao giờ đặt hy vọng vào "lịng tốt" của bọn thực dân phong
kiến cũng như của các giai cấp bóc lột để kêu gọi lịng thương cảm và sự ban ơn. Người cũng
không bao giờ nghĩ rằng chỉ cần mọi người tu nhân tích đức là đất nước sẽ độc lập, dân tộc sẽ
được tự do hạnh phúc. Phải bằng cuộc đấu tranh kiên cường bất khuất của giai cấp công nhân,
nhân dân lao động và của cả dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mới đi tới được
mục tiêu đó. Đạo đức là một vũ khí sắc bén phục vụ cho cuộc đấu tranh đó, đúng như quan
điểm của Lênin: “Chúng ta nói rằng: đạo đức đó là những gì góp phần phá huỷ xã hội cũ của

bọn bóc lột và góp phần đồn kết tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản
đang sáng tạo ra xã hội mới của những người cộng sản”.
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, Đảng phải "là đạo đức là văn minh", thì mới hồn
thành được sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình. Người cũng thường nhắc lại ý của Lênin: Đảng
Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc mình và của thời đại. Nếu
xét đến cùng thì văn minh tức là trí tuệ, trong đó chủ yếu là sự hiểu biết đúng đắn về chủ nghĩa
Mác - Lênin, những tri thức hiện đại của nhân loại, thực tiễn Việt Nam và thế giới, những quy
luật phát triển của cách mạng Việt Nam, những hiểu biết để đưa sự nghiệp cách mạng đến
thắng lợi. Còn đạo đức chính là những phẩm chất địi hỏi con người cần phải có để tham gia
3


vào cuộc đấu tranh cho độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, để cống hiến được nhiều nhất cho
cuộc đấu tranh đó. Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi vì muốn làm cách mạng thì trước
hết con người phải có cái tâm trong sáng, cái đức cao đẹp đối với giai cấp công nhân, nhân dân
lao động, với cả dân tộc mình. Cái tâm, cái đức ấy lại phải thể hiện trong các mối quan hệ xã
hội hàng ngày với dân, với nước, với đồng chí, đồng nghiệp, với mọi người chung quanh mình.
Phải có tâm, có đức mới giữ được chủ nghĩa Mác - Lênin và đưa được chủ nghĩa Mác - Lênin
vào cuộc sống. Con đường Hồ Chí Minh đi đến chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo và
phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là một minh chứng rất rõ về điều đó.
Chính vì vậy, cùng với việc giáo dục nâng cao trình độ hiểu biết của cán bộ, đảng viên
và các tầng lớp nhân dân, Hồ Chí Minh đã thường xuyên quan tâm đến việc giáo dục đạo đức
cho mọi người. Tùy theo từng thời kỳ cách mạng, Người đề ra những yêu cầu đạo đức sát hợp
để mọi người phấn đấu rèn luyện nhằm hoàn thành nhiệm vụ ngày càng nặng nề, khó khăn,
phức tạp hơn, từ đó mà giành thắng lợi càng to lớn hơn cho sự nghiệp cách mạng.
Đường Cách mệnh là cuốn sách bồi dưỡng lớp cán bộ đầu tiên của cách mạng Việt Nam
đi theo học thuyết Mác - Lênin và con đường của Cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại, đi theo
đường lối cách mạng mới đã được Nguyễn Ái Quốc xác định. Đó cũng là cuốn sách đầu tiên
tuyên truyền trực tiếp về chủ nghĩa Mác - Lênin cho lớp thanh niên cách mạng ưu tú nhất thời
đó. Nhưng mở đầu cuốn sách lại là bài nói về Tư cách một người cách mệnh. Chắc chắn chúng

ta khơng thể tìm thấy một trường hợp nào truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin giống như vậy. Phải
chăng Hồ Chí Minh đã nêu lên một quan điểm lớn: Phải có cái đức để đi đến cái trí.Vì khi đã có
cái trí thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ vững được chủ nghĩa mà mình
đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.
Quan điểm lấy đức làm gốc của Hồ Chí Minh khơng có nghĩa là tuyệt đối hố mặt đức,
coi nhẹ mặt tài. Đức là gốc, nhưng đức và tài, hồng và chuyên phải kết hợp, phẩm chất và năng
lực phải đi đơi, khơng thể có mặt này, thiếu mặt kia. Như Người đã phân tích, người nào có đức
mà khơng có tài thì cũng chẳng khác gì ông bụt ngồi trong chùa, không làm hại ai, nhưng cũng
chẳng có ích gì. Ngược lại, nếu có tài mà khơng có đức, thì cũng chẳng khác gì một anh làm
kinh doanh giỏi, đem lại nhiều lãi, nhưng lãng phí, tham ơ, ăn cắp của cơng, thì như vậy chỉ có
hại cho dân cho nước, cịn sự nghiệp của bản thân thì sớm muộn cũng đổ vỡ. Người thực sự có
đức thì bao giờ cũng cố gắng học tập, nâng cao trình độ, nâng cao năng lực, tài năng để hoàn
thành mọi nhiệm vụ được giao. Khi đã thấy sức khơng vươn lên được thì đối với ai có tài hơn
mình, mình sẵn sàng học tập, ủng hộ và nhường bước để họ vượt lên trước. Ý nghĩa "đức là
gốc" chính là ở chỗ đó.
Hồ Chí Minh cịn nhiều lần chỉ rõ: “Sức có mạnh mới gánh được nặng mới đi được xa”,
người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, nếu khơng có đạo đức làm nền
tảng, làm cái căn bản thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân dân. Vai trị sức mạnh
của đạo đức được Hồ Chí Minh nhìn nhận trên các bình diện:
4


 Có đạo đức cách mạng mới hồn thành được sự nghiệp cách mạng vẻ vang. Sự nghiệp
cách mạng của chúng ta là giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, làm cho con người Việt Nam từ nghèo đói trở lên đủ ăn, từ đủ ăn trở lên khá, từ
khá trở lên giàu và giàu thì lại càng giàu thêm. Sự nghiệp đó rất cao cả và nhân văn, địi
hỏi phải có những phẩm chất tương ứng.
 Đạo đức là tiêu chí đánh giá sự văn minh, cao thượng của một xã hội, con người. Người
có đạo đức là người cao thượng, một dân tộc, mặc dầu kinh tế cịn lạc hậu, nhưng có
được đạo đức cần, kiệm, liêm, chính thì vẫn xứng đáng là một dân tộc văn minh.

 Đạo đức giúp cho con người luôn giữ được nhân cách, bản lĩnh làm người trong mọi
hồn cảnh, khơng dễ bị thay đổi trước nhũng xoay vần biến thiên của thời cuộc: Giàu
sang không thể quyến rũ, nghèo khó khơng thể chuyển lay, uy lực khơng thể khuất phục.
 Đạo đức là gốc, là nguồn, là nền tảng, bởi lẽ, có tâm, có đức mới giữ vững được chủ
nghĩa Mác – Lênin, đưa chủ nghĩa Mác – Lênin vào cuộc sống. Trong mối quan hệ giữa
đạo đức và trí tuệ, đức và tài, Hồ Chí Minh đã nêu một quan điểm lớn: Phải có đức để đi
đến cái trí. Vì khi có cái trí, thì cái đức chính là cái đảm bảo cho người cách mạng giữ
vững chủ nghĩa mà mình đã giác ngộ, đã chấp nhận, đã đi theo.
Trong tác phẩm Đường Kách mệnh, Người đã nêu 23 điểm thuộc “Tư cách một người
cách mệnh”, trong đó chủ yếu là các tiêu chuẩn về đạo đức, thể hiện chủ yếu trong ba mối quan
hệ: với mình, với người và với việc. Người viết: “Làm cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã
hội mới là một sự nghiệp rất vẻ vang, nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc
đấu tranh rất phức tạp, lâu dài, gian khổ. Sức có mạnh với gánh được nặng, và đi được xa.
Người cách mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm vụ
cách mạng vẻ vang”.
2. Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
2.1. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để đội ngũ cán bộ, đảng viên tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức
Hiện nay, trong xã hội đang tồn tại tình trạng một bộ phận dân cư xem nhẹ các giá trị
đạo đức, chạy theo tiền tài, địa vị, bất chấp đạo lý, coi thường pháp luật và tình nghĩa con
người. Một nguyên nhân quan trọng của tình trạng này là trong một thời gian dài, đứng trước
những khó khăn về kinh tế - xã hội, chúng ta đã tập trung nhiều cho phát triển kinh tế, trong khi
đó nhận thức chưa đầy đủ về vị trí, vai trị của đạo đức trong đời sống xã hội. Một xã hội Việt
Nam phát triển trong tương lai chắc chắn khơng thể để tình trạng đó tiếp tục diễn ra. Với ý
nghĩa là nền tảng tư tưởng cho việc xây dựng nền đạo đức mới, thực hành theo tư tưởng đạo
đức Hồ Chí Minh thực sự là giải pháp quan trọng nhất, giúp xác lập lại vị trí, vai trị của đạo
đức - yếu tố gốc rễ, nền tảng tinh thần của mỗi con người.

5



Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức là gốc của mỗi người, trước hết là các cán bộ,
đảng viên, khẳng định đạo đức là nguồn nuôi dưỡng và phát triển của con người, cũng giống
như gốc của cây, ngọn nguồn của sông suối. Người viết: “Cũng như sông thì có nguồn mới có
nước, khơng có nguồn thì sơng cạn. Cây phải có gốc, khơng có gốc thì cây héo. Người cách
mạng phải có đạo đức, khơng có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng khơng lãnh đạo được nhân
dân”. Với Chủ tịch Hồ Chí Minh, đạo đức là nền tảng của người cách mạng. Người cách mạng
phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng thì mới hoàn thành được nhiệm vụ cách mạng vẻ vang
là phục vụ Tổ quốc, phụng sự nhân dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức tạo ra sức mạnh, là nhân tố quyết định sự
thắng lợi của mọi công việc, phẩm chất, uy tín của mỗi con người. Người cho rằng, mọi việc
thành công hay thất bại, chủ yếu là do cán bộ có thấm nhuần đạo đức cách mạng hay không và
“Tuy năng lực và công việc của mỗi người khác nhau, người làm việc to, người làm việc nhỏ;
nhưng ai giữ được đạo đức đều là người cao thượng”. Đạo đức cách mạng giúp người cách
mạng đứng vững trong mọi hồn cảnh, dù khó khăn hay thuận lợi. Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu
rõ: có đạo đức cách mạng thì khi gặp khó khăn gian khổ, thất bại cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi
bước..., khi gặp thuận lợi và thành công vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn,
lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không cơng thần, khơng
quan liêu, khơng kiêu ngạo, khơng hủ hóa. Đó là đạo đức cách mạng, là đạo đức mới, đạo đức
vĩ đại, nó khơng phải vì danh vọng của cá nhân, mà vì lợi ích chung của Đảng, của dân tộc, của
loài người. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, cán bộ, đảng viên là những người đi tiên phong
trong các phong trào, các hoạt động của đời sống xã hội, có vai trị và ảnh hưởng đến việc định
hướng dư luận xã hội. Do đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh trăn trở với nguy cơ cán bộ, đảng viên,
nhất là những người nắm giữ các cương vị lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị xa rời
cuộc sống, xa rời quần chúng, rơi vào căn bệnh chủ nghĩa cá nhân - kẻ địch nguy hiểm của đạo
đức, “căn bệnh gốc” gây nên tình trạng thối hóa, biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu Đảng phải “là đạo đức, là văn minh”, phải tiêu biểu cho
lương tâm, phẩm giá và trí tuệ của dân tộc. Trong Di chúc, Người căn dặn: “mỗi đảng viên và
cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí cơng vơ
tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật

trung thành của nhân dân”.
2.2. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở những chuẩn mực đạo đức cơ bản của con
người Việt Nam hiện tại và tương lai
Mỗi một mơ hình xã hội mới địi hỏi phải có những con người mới cụ thể, với những
phẩm chất năng lực cụ thể để xây dựng và phát triển xã hội đó. Sự nghiệp phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước hiện tại và tương lai chắc chắn phải trải qua một q trình khó khăn, gian khổ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định rõ, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì trước hết phải có
những con người xã hội chủ nghĩa. Đó là những con người vừa có đức, vừa có tài, vừa “hồng”,
6


vừa “chun”. Riêng về khía cạnh đạo đức, đó trước hết là những người có tinh thần yêu nước,
thương dân, đặt lợi ích của đất nước, của dân tộc lên trên hết, trước hết. Đó là những người ln
ln gắn bó với nhân dân, u thương, kính trọng nhân dân và do đó được nhân dân yêu mến,
quý trọng, được dân tin, dân phục, dân yêu. Đó phải là những con người có ý thức trách nhiệm
với cơng việc, có tinh thần lao động siêng năng, cần cù, lao động với năng suất và chất lượng
cao, tạo ra nhiều của cải cho xã hội. Đó đồng thời phải là những con người có tinh thần tiết
kiệm, biết tiết kiệm sức người, sức của, tiết kiệm thời gian cho đất nước và nhân dân.
Sự phát triển đất nước hiện nay đòi hỏi những con người trong xã hội, trước hết là cán
bộ nắm giữ các cương vị trong hệ thống chính trị, phải là những người không để các căn bệnh
tiêu cực như quan liêu, tham nhũng...xâm nhập, khống mực đạo đức được Chủ tịch Hồ Chí
Minh chú trọng chỉ ra và quan trọng hơn là nêu gương thực hành trong thực tiễn đời sống. Sinh
thời, người đã làm cuộc cách mạng về đạo đức khi sử dụng những khái niệm trong Nho giáo
truyền thống nhưng với những nội hàm mới.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng hết sức coi trọng phẩm chất: cần, kiệm, liêm, chính, chí
cơng, vơ tư. Người chỉ ra rằng cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của “đời sống mới”, nền tảng
của thi đua ái quốc; là chuẩn mực đạo đức cần phải có của con người, là tiêu chí xác định “chất
người” của mỗi người, bởi “Thiếu một đức, thì khơng thành người”. Cần, kiệm, liêm, chính gắn
bó mật thiết với nhau, bổ sung cho nhau trong một chỉnh thể thống nhất, không thể thiếu một
yếu tố nào. Thực hiện được cần, kiệm, liêm, chính, thì sẽ tiến đến chỗ chí cơng, vơ tư, biết đặt

lợi ích chung lên trên lợi ích riêng, lo lắng trước mọi người, hưởng thụ sau mọi người. Người
nhắc nhở: “Đem lịng chí cơng vơ tư mà đối với người, đối với việc”, “khi làm bất kỳ việc gì
cũng đừng nghĩ đến mình trước, mà phải nghĩ đến đồng bào, đến tồn dân đã. Ta có câu nói:
“Có khó nhọc thì mình nên đi trước, khi hưởng thụ thì mình nên đi sau”; làm việc gì mình cũng
nghĩ đến lợi ích chung trước và lợi ích riêng sau”. Chủ tịch Hồ Chí Minh cịn quan tâm, chú
trọng đến các chuẩn mực đạo đức khác là tình thương yêu con người và tinh thần quốc tế trong
sáng trên lập trường của giai cấp cơng nhân. Đó khơng dừng lại ở lịng trắc ẩn, mà cịn được
nâng lên ở tầm cao, gắn tình u thương với khát vọng giải phóng con người khơng phân biệt
màu da, chủng tộc, giai cấp, tôn giáo khỏi những áp bức, bất cơng. Tình u thương con người
ở Người vượt ra khỏi phạm vi một quốc gia, dân tộc, đến với nhân loại tiến bộ và thu hút sự
ngưỡng mộ, cảm phục của nhân loại tiến bộ.
2.3. Tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là cơ sở để xây dựng những nguyên tắc tu dưỡng,
rèn luyện đạo đức của con người Việt Nam hiện đại
Trên thực tế, trong xã hội Việt Nam hiện nay, tình trạng suy thối, xuống cấp về đạo đức
xã hội trong một bộ phận dân cư không chỉ do thiếu sự nhận thức đúng đắn và thống nhất về vị
trí, vai trị của đạo đức trong đời sống xã hội, về các chuẩn mực đạo đức xã hội, mà cịn có một
phần ngun nhân do chưa có sự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức đúng đắn và thống nhất trên cả
phương diện lý thuyết và thực hành. Nhiều lý thuyết đạo đức, bài học đạo đức đã được tuyên
7


truyền, nhưng Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” trong
những năm trước đây mới chỉ đạt được phần nào kết quả, chưa đáp ứng đòi hỏi thực tiễn và yêu
cầu, nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân. Để hình thành được các
chuẩn mực đạo đức, khơng phải là điều một sớm, một chiều, dễ dàng có được, mà phải trải qua
một quá trình tu dưỡng, rèn luyện đạo đức. Đó chính là q trình trên cơ sở đã nhận thức thấu
đáo vị trí, vai trị của đạo đức, sự cần thiết phải tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, mỗi người trở
thành chủ thể của quá trình tự giáo dục đạo đức, tự tu dưỡng, rèn luyện đạo đức theo những
chuẩn mực chung của xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra cho chúng ta những nguyên tắc cơ bản chỉ đạo quá trình

tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của mỗi con người, Người đã nêu gương thực hành những ngun
tắc đó trong q trình chỉ đạo xây dựng nền văn hóa mới, nền đạo đức mới của Việt Nam. Đó là
các nguyên tắc nói đi đôi với làm, phải nêu gương đạo đức; phải tu dưỡng đạo đức suốt đời.
Người từng sớm khẳng định từ giữa những năm 20 của thế kỷ XX rằng: “Nói chung thì các dân
tộc phương Đơng đều giàu tình cảm, và đối với họ một tấm gương sống cịn có giá trị hơn một
trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Người cũng thẳng thắn nhắc nhở các cán bộ, đảng viên:
“Trước mặt quần chúng, không phải ta cứ viết lên trán chữ “cộng sản” mà ta được họ yêu mến.
Quần chúng chỉ quý mến những người có tư cách, đạo đức. Muốn hướng dẫn nhân dân, mình
phải làm mực thước cho người ta bắt chước”. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng
trên một nền tảng rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức mới trở thành hành vi
đạo đức hằng ngày của toàn xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lịng. Ta phải
biết làm cho phần tốt ở trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa Xuân và phần xấu bị mất dần
đi, đó là thái độ của người cách mạng”. Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp
chặt chẽ giữa xây và chống. Xây phải đi đôi với chống, chống nhằm mục đích xây; phải bằng
nhiều biện pháp kết hợp cả giáo dục, phê phán và trừng trị bằng pháp luật; phải kết hợp giữa
quét sạch chủ nghĩa cá nhân và nâng cao đạo đức cách mạng... Đồng thời, Người cũng nhắc
nhở hết sức sâu sắc: “Đạo đức cách mạng khơng phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn
luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng
càng luyện càng trong”. Đạo đức không phải là cái nhất thành bất biến, không phải là điểm đến,
chỉ cần phấn đấu vươn tới một lần là xong xuôi, mà là quá trình tu dưỡng, rèn luyện suốt đời.
Một nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mỗi
người.
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời đã gần nửa thế kỷ, nhưng tư tưởng và tấm gương đạo đức
của Người vẫn có giá trị thời sự đối với sự nghiệp đổi mới đất nước hơm nay và mai sau, vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, là nền tảng tinh thần cho xây
dựng nền đạo đức mới ở trong hiện tại và tương lai ở Việt Nam.

8



Chương II: Sinh viên học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1. Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay:
Đạo đức là một yếu tố trong tinh cách và giá trị của mỗi cá nhân, là hệ thống các quy tắc
ứng xử trong cộng đồng và xã hội. Một người có đạo đức là một người có sự trau dồi, rèn luyện
các lối sống chuẩn mực trong đời sống và tâm hồn, đem lại các giá trị tốt đẹp cho bản thân và
xã hội.
Sinh viên, thanh niên là lực lượng chủ lực, nòng cốt trong việc xây dựng, phát triển và
bảo vệ Tổ quốc, mặc khác sinh viên thanh niên Việt Nam cịn đóng vai trị quan trọng trong sự
nghiệp cơng nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước trên con đường hội nhập quốc tế và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Là lực lượng to lớn, đi đầu trong việc phát triển kinh tế - xã hội của nước nhà
nhưng không phải tất cả thanh niên sinh viên Việt Nam đều trau dồi tốt phẩm chất đạo đức của
mỗi cá nhân. Bên cạnh những người đang ngày đêm rèn luyện bản thân để góp phần xây dựng
đất nước thì thực trạng vẫn có phần đơng thanh niên sinh viên chưa thực sự cố gắng hồn thiện
bản thân, tích lũy các phẩm chất đạo đức tốt để phục vụ cho đất nước.
Về mặt tích cực, ngày nay, với sự phát triển hiện đại hóa và cơng nghiệp hóa đất nước,
thanh niên sinh viên Việt Nam đã có những bước tiến mới. Thanh niên, sinh viên hiện nay ngày
càng chủ động hơn, khơng cịn tiếp thu một cách thụ động và khơng chịu tìm tịi cái mới như
trước đây mà rất ham học, ham hiểu và đạt được nhiều thành tựu to lớn trong mọi linh vực ở cả
trong và ngoài nước. Họ khơng khuất phục cam chịu trước bất kỳ khó khăn hồn cảnh nào, họ
thực tế nhanh nhạy ln ln cố gắng học hỏi và tiếp thu những kiến thức mới. Bên cạnh đó
thanh niên, sinh viên Việt Nam cũng rất năng động trong công việc và các hoạt động tập thể, từ
các họ tiếp thu được các phẩm chất truyền thống tốt đẹp của dân tộc, chăm chỉ kiên trì và nỗ lực
từng ngày.
Kết quả khảo sát của Ủy ban thanh niên Việt Nam cho thấy nhìn chung thanh niên đã
thấy được tầm quan trọng và ảnh hưởng to lớn của con đường đổi mới (83,6%). Trong đó,
thanh niên sinh viên chiếm (85,6%) khẳng định như vậy. Phần lớn thanh niên đều khẳng định
đường lối kinh tế và mở rộng giao lưu quốc tế “Làm bạn với tất cả các nước là hoàn toàn đúng
và cần thiết, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh kinh tế và xu thế của thời đại ngày nay”. Thanh
niên sinh viên lạc quan, tin tưởng vào cuộc sống, tích cực hơn trong việc học tập tiếng nước

ngoai và những ngành nghề hiện đại như công nghệ thông tin, phát triển quản lý doanh nghiệp.
Các em đem tri thức, lòng quyết tâm, sự quan tâm tới cộng đồng... đến mọi miền của Tổ quốc,
đặc biệt là vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; giúp đỡ nhân dân cải thiện môi trường sống, môi
trường văn hoá...Phong trào “Hiến máu nhân đạo”, “Tiếp sức mùa thi”, “Chung tay đẩy lùi dịch
Covid -19”... được nhiều sinh viên quan tâm hưởng ứng. Những phong trào đó nói lên ý thức
đạo đức cộng đồng, ý thức tiên phong gương mẫu của sinh viên đã được nâng cao.
9


Một tác động tích cực đối với đạo đức sinh viên là tạo ra sự đồng nhất tương đối giữa
quan niệm đạo đức và quy tắc ứng xử của cộng đồng sinh viên Việt Nam với các quan niệm
đạo đức và quy tắc ứng xử chung mang tính quốc tế. Với ưu thế của tuổi trẻ, lại được trang bị
ngoại ngữ, tin học, với sự hỗ trợ củacác phương tiện thơng tinh iện đại và việc mở rộng, đa
dạng hóa tiến trình giao lưu quốc tế, sinh viên Việt Nam ngày nay đã hồ kịp vào dịng chảy
mới trong q trình hội nhập. Điều đó tạo ra sự xích lại gần nhau giữa các giá trị đạo đức trong
một tinh thần cảm thông và cởi mở.Các quan niệm đạo đức của sinh viên Việt Nam, bên cạnh
cái riêng của mình, đang xuất hiện những cái chung hoà nhập cùng thế giới, mở ra những cơ hội
giao lưu, học hỏi. Những rào cản đạo đức nào khơng cịn phù hợp trong việc điều chỉnh hành vi
sẽ bị vượt qua,thể hiện khá rõ nét ở sinh viên. Có thể dự đốn về một xu hướng đạo đức được
quốc tế hoá, vừa trên cơ sở thống nhất những quy tắc đạo đức chung của con người, vừa giữ
được truyền thống tốt đẹp của dân tộc nói chung, đạo đức sinh viên Việt Nam nói riêng.
Về mặt tiêu cực, rõ nét nhất là biểu hiện thực dụng trong quan niệm đạo đức và hành vi
ứng xử ở một bộ phận không nhỏ sinh viên. Trào lưu dân chủ hố, làn sóng cơng nghệ thơng tin
và việc nâng cao dân trí đã làm ý thức cá nhân, cụ thể là sinh viên, được tăng lên; họ ý thức cao
về bản thân minh và muốn thể hiện vai trò cá nhân. Tuy nhiên, cái cá nhân nhiều khi lấn át cái
cộng đồng, họ coi lợi ích cá nhân quan trọng hơn tất cả. Họ cho rằng, kinh doanh là hoạt động
đem lại lợi nhuận bằng bất cứ giá nào và không cần đếm xỉa đến vấn đề đạo đức. Quan niệm đó
dẫn đến một biểu hiện nguy hiểm là thai độ bàng quan đối với những người xung quanh, cho dù
các phong trào tinh nguyện được phát động khá rầm rộ trong sinh viên, nhằm giáo dục và tuyên
truyền tinh thần vì cộng đồng. Một số sinh viên so đo sự hy sinh và quan tâm đến người khác là

việc làm đưa lại lợi ích gì cho chính mình. Cùng với đó, sự du nhập lối sống và sản phẩm công
nghệ hiện đại đã dần dần làm khơng ít sinh viên xa rời các giá trị đạo đức truyền thống tốt đẹp
vốn vẫn đang phù hợp với thời kỳ hiện đại. Ở khơng ít sinh viên đã hình thành tư tưởng hưởng
thụ, ăn chơi, đua địi, chịu tác động của tệ nạn xã hội, dễ bị dao động về mặt định hướng đạo
đức và lối sống trong bối cảnh một nền kinh tế, xã hội mở cửa. Các quan niệm đạo đức trong
một bộ phận sinh viên đang bị lệch chuẩn, đặc biệt một số sinh viên quan niệm cho rằng, đạo
đức và lợi ích cá nhân là hoàn toàn đồng nhất trong mọi lúc, ở mọi nơi. Thực trạng hiện nay cho
thấy một bộ phận thanh niên sống thiếu lý tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tinh hình
đất nước, thiếu ý thức chấp hành pháp luật, sống thực dụng. Học vấn của một bộ phận thanh
niên, sinh viên nông thôn dân tộc thiểu số còn thấp; nhiều thanh niên còn thiếu kiến thức và kĩ
năng trong hội nhập quốc tế. Tính độc lập , chủ động sang tạo, năng lực thực hanh sau đào tạo
còn yếu, chưa đáp ứng được yêu cầu cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tình trạng tội
phạm và tệ nạn xã hội trong thanh niên vẫ dang diễn ra ngày càng phức tạp, Bằng chứng là các
phương tiện truyền thông liên tiếp đưa tin về các trường hợp như: đánh nhau, hành hung, thanh
niên sinh viên gây ra nhiều vụ án mạng…

10


2. Phương pháp, định hướng của sinh viên trong việc học tập tư tưởng Hồ Chí Minh
Sinh viên là lực lượng chủ yếu ở các học viện, trường đại học, cao đẳng. Tuổi đời của họ
cịn trẻ, ln tiên phong trong mọi hoạt động. Họ là những con người đang phát triển mạnh về
thể chất và tinh thần, giàu ước mơ hồi bão, ln có mong muốn vươn lên nắm bắt tri thức của
nhân loại để tự hồn thiện mình về mọi mặt. Tuy nhiên để đạt được tiêu chí và phẩm chất tốt,
bản thân mỗi sinh viên phải tự học, tự rèn luyện, tự tu dưỡng, tự chịu trách nhiệm để trở thành
nguồn lao động chất lượng cao, người thừa kế trung thành sự nghiệp của Đảng và dân tộc.
Vì thế nên sinh viên hiện nay cần phải khơng ngừng học tập, rèn luyện, thực hành đạo
đức cách mạng, nêu cao tinh thần trách nhiệm, trung thực, nói đi đơi với làm. Đạo đức cách
mạng có thể tóm tắt trong mấy điểm: Trung thành: Trọn đời trung thành với sự nghiệp cách
mạng, Với Tổ quốc, với Đảng, với giai cấp; dũng cảm; khơng sợ khổ, khơng sợ khó, thực hiện:

"Đâu cần thanh niên có, việc gì khó thanh niên làm", "Gian khổ thì đi trước, hưởng thụ sau mọi
người"; khiêm tốn: Khơng nên tự cho mình là tài giỏi, không khoe công, không tự phụ. Cần
nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc và trong cuộc sống,
coi đó là đức tính cần thiết và quý báu, là phẩm giá của mỗi người.
Sinh viên phải tích cực tham gia học tập nâng cao trình độ lí luận chính trị, bồi dưỡng lí
tưởng cách mạng trong sáng. Bối cảnh trong nước và quốc tế đang tác động lên tất cả các đối
tượng thanh niên, tác động một cách tồn diện lên tư tưởng, tình cảm, lối sống, nhu cầu của
từng thanh niên. Do đó, sinh viên cần rèn luyện để có lập trường tư tưởng vững vàng, có lịng
u nước, có niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, có
đạo đức trong sáng và lối sống lạnh mạnh; tích cực tham gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ
Đảng, Nhà nước và bảo vệ cương lĩnh, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà
nước; đấu tranh chống lại âm mưu “Diễn biến hịa bình” của các thế lực thù địch và các tiêu
cực, tệ nạn xã hội, tham nhũng,...
Sinh viên cần tích cực học tập và tự học tập để nâng cao trình độ văn hóa, chun mơn,
khoa học, kĩ thuật và tay nghề. Trong thời kì phát triển KT-XH trong nước và hội nhập quốc tế,
sinh viên nước ta cần nâng cao trình độ học vấn, tay nghề khả năng thực tế, kĩ năng lao động để
thích ứng với thị trường lao động trong nước và thị trường lao động quốc tế. Sinh viên phải tích
cực tham gia xây dựng xã hội học tập với phương châm: người sinh viên ở đâu, làm gì, thời
gian nào cũng phải học; người sinh viên nào cũng phải xác định tham gia học tập thường
xuyên, suốt đời là quyền và nghĩa vụ của bản thân.
Sinh viên cần tích cực tuyên truyền các chính sách của Đảng và Nhà nước, tích cực tham
gia vào các cuộc đấu tranh bảo vệ Đảng, Nhà nước; cương lĩnh, đường lối của Đảng; chính
sách, pháp luật của Nhà nước; mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân; bảo vệ và
xây dựng hệ thống chính trị ở các cấp vững mạnh và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc
11


vững chắc. Các đối tượng sinh viên tự nguyện, tự giác tham gia vào các hội của thanh niên,
phấn đấu trở thành đoàn viên, đảng viên của Đảng và hội viên của các quần chúng nhân dân.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về trung thực, trách nhiệm, trước hết

phải nói đi đơi với làm, phải tạo ra sự chuyển biến về tình cảm và nhân cách: Tôn trọng chân
lý, yêu cái đúng, ghét cái sai, tôn trọng sự thật, lẽ phải. Sống ngay thẳng, thật thà, dũng cảm
nhận lỗi khi mình mắc khuyết điểm. Phải tự giác phấn đấu, rèn luyện đạo đức, tự phê bình, phê
bình, cầu thị, sửa chữa khuyết điểm, khắc phục những mặt hạn chế, tiêu cực, phát huy ưu điểm
và mặt tích cực.
Sinh viên phải tích cực tham gia vào xây dựng môi trường xã hội lành mạnh và mơi
trường sinh thái trong lành, sạch đẹp; tích cực tham gia phịng chống ơ nhiễm mơi trường, suy
thối mơi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tồn cầu “Vì một Việt Nam xanh”, thanh niên
mạnh dạn đi đầu xây dựng các mơ hình điểm về trồng trọt ứng phó với biến đổi khí hậu, thay
đổi linh hoạt phương thức canh tác, sử dụng các giống cây trồng mới, thích nghi với những
vùng đất đã bị thay đổi do tác động của biến đổi khí hậu. Xây dựng các mơ hình thanh niên tiết
kiệm điện, năng lượng; tăng cường sử dụng cơng nghệ tiên tiến vào sản xuất, góp phần tiết
kiệm điện.
Sinh viên cần chủ động tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế, tham gia giải quyết các
vấn đề tồn cầu, tham gia vào cơng tác ngoại giao nhân dân để nâng tầm ảnh hưởng của Việt
Nam trên trường quốc tế; chủ động và tham gia có hiệu quả vào giải quyết các vấn đề toàn cầu
như: giữ gìn hịa bình, đẩy lùi nguy cơ chiến tranh, chống khủng bố, bảo vệ mơi trường và ứng
phó với biến đổi khí hậu tồn cầu, hạn chế sự bùng nổ dân số, phòng ngừa và đẩy lùi các dịch
bệnh hiểm nghèo,... Để kế tục xứng đáng với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân
tộc ta, mỗi sinh viên Việt Nam hãy ra sức học tập, trau dồi lí tưởng độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội; ra sức thi đua lao động, rèn luyện để hình thành một thế hệ sinh viên tân tiến,
xứng tầm đòi hỏi của đất nước và thời đại
Mỗi, sinh viên cần xây dựng lối sống trong sáng, giản dị, chân tình. Phải thật sự trung
thực, trách nhiệm với chính mình, với gia đình, người thân, bạn bè, đồng chí, với Tổ quốc và
nhân dân. Phải khắc phục cho được tình trạng thiếu trung thực, dối mình, dối người, dối Đảng,
dối dân. Phải chống lại thói Ích kỷ, tính tham lam; kiên quyết đấu tranh với thói vơ cảm, "đục
nước béo cò" khi người khác gặp hoạn nạn. Phải đấu tranh với tệ làm ăn chụp giật, quay cóp,
học hộ, thi hộ, bằng giả, mua bán tri thức... Đã trung thực với chính mình thì khơng bao giờ từ
bỏ trách nhiệm của mình. Trung thực và trách nhiệm góp phần để khắc phục suy thối về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong Đảng, trong xã hội. Để làm được như vậy, trước hết

phải nâng cao nhận thức về phẩm chất trung thực, trách nhiệm trong công việc và trong cuộc
sống, coi đó là đức tính cân thiết và q báu, là phẩm giá của mỗi người

12


KẾT LUẬN
Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời đã gần nửa thế kỷ, tuy nhiên những tư tưởng đạo đức của
người vẫn cịn giữ ngun tính thời sự soi sáng cho Đảng và nhân dân ta hoàn thành sự nghiệp
vẻ vang, xây dựng nền đạo đức Việt Nam ngang tầm với những yêu cầu của các giai đoạn phát
triển.
Trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh người coi đạo đức là nền tảng của người cách
mạng và là gốc rễ của sự phát triển.Bất cứ một lĩnh vực nào của đời sống xã hội, bất cứ một
hoạt động nào của tổ chức và cá nhân một người, đạo đức cũng thể hiện vai trị quan trọng của
nó. Thiếu vắng hoặc yếu kém về đạo đức, con người khơng có nhân tính đầy đủ, khơng phát
triển được nhân tính để thành người và làm người. Suy thoái đạo đức, xã hội không thể phát
triển bền vững trên tất cả các lĩnh vực từ kinh tế đến chính trị, văn hố và xã hội. Trong hệ
thống các động lực phát triển xã hội, đạo đức là một động lực tinh thần không thể thiếu. Chiến
tranh qua đi ngày nay, trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đã xuất hiện những điều
kiện thuận lợi và cả những vấn đề mới, thách thức mới.Việc thực hành đạo đức cách mạng theo
gương sáng đạo đức Hồ Chí Minh như vậy sẽ bao quát toàn diện các đối tượng xã hội, từ trong
Đảng, trong Nhà nước tới các cộng đồng dân cư. Nói đi đơi với làm theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, thống nhất nhận thức với hành động hướng tới cơ sở, tới dân chúng là mục đích và thước
đo tính trung thực đạo đức mà chúng ta cần đạt tới vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Chủ tịch Hồ Chí Minh người khẳng định rằng: Đảng ta là đạo
đức, là văn minh. Vai trò và trách nhiệm to lớn của Đảng trong việc vận dụng và định hướng
phát triển xã hội càng thể hiện rõ .Điều này đòi hỏi người cán bộ, đảng viên đòi hỏi phải được
tăng cường thường xuyên học tập, rèn luyện, tu dưỡng các đức tính, các nguyên tắc của tư
tưởng Hồ Chí Minh để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Trong “Di chúc”, Người nhắc nhở toàn Đảng, tồn dân phải ln ghi nhớ rằng, “Bồi

dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết”. Tư tưởng chú
trọng bồi dưỡng đội ngũ kế cận có giá trị to lớn và sâu sắc. Trước bối cảnh tồn cầu hố, thanh
niên sinh viên việt nam phát huy tốt những phẩm chất đáng quý từ tư tưởng đạo đức của bác
chủ động nắm bắt cơ hội, ham học hỏi ,tích cực tham gia cơng tác xã hội, hồ nhập thế giới…
tạo nhiều thành tựu to lớn. Đối lập với mặt tích cực này vẫn cịn nhiều bất cập như sự tiếp thu
văn hố xấu,thiếu nhận thức, thiếu kỹ năng và kiến thức… Làm suy thoái đạo đức, tệ nạn xã hội
gia tăng. Một lần nữa càng cho thấy vai trò của tư tưởng đạo đức được đề cao. Dựa trên nền
tảng này vận dụng, đưa ra giải pháp, đính hướng đúng đắn cho thế trẻ, tương lai của nước nhà.
Tóm lại, tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng là một di sản tinh thần vơ cùng q
báu của Đảng và dân tộc ta. Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức cách mạng, vấn đề
đặt ra không chỉ ở chỗ thừa nhận và khẳng định những giá trị thực tiễn to lớn của tư tưởng Hồ
13


Chí Minh, mà một điều rất quan trọng là vận dụng và phát triển những giá trị tư tưởng đó vào
sự nghiệp xây dựng đội ngũ cán bộ của đất nước ta trong các giai đoạn đoạn phát triển của đất
nước.

14


TÀI LIỆU THAM KHẢO:

Tố Hữu (1951),Sáng tháng Năm
Chính phủ Việt Nam 1945-1998, NXB. Chính trị Quốc gia,
1999 Giáo trình Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hà Nội 2019
Hồ Chí Minh: Tồn tập, Nxb. Chính trị quốc gia – Sự thật, Hà Nội, 2011
Hồ Chí Minh về giáo dục thanh niên, Hà Nội, 1980
Đạo đức sinh viên Việt Nam thực trạng và giải pháp, Trần Thị Minh Ngọc, 2014
Giáo dục đạo đức cách mạng cho thanh niên theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh

trong giai đoạn hiện nay, ThS. Bùi Thế Đông, 2021
Giáo dục đạo đức cách mạng cho sinh viên theo Tư tưởng Hồ Chí Minh, Nguyễn Văn
Việt, 2021
Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt tháng 12/2019
Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, Nguyễn Linh An,
2021
Giáo dục đạo đức hồ chí minh cho sinh viên đại học Thái Nguyên hiện nay, Lương Thị Thúy
Nga, Học Viện Chính Trị Quốc Gia Hồ Chí Minh, 2019
/> /> />
15


Phân công nhiệm vụ các thành viên:

LỜI MỞ ĐẦU: Nguyễn Thị Thuỳ Châu
CHƯƠNG I: VAI TRỊ, VỊ TRÍ VÀ TẦM QUAN TRỌNG CỦA TƯ TƯỞNG
ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH
1. Vai trị và vị trí đạo đức tư tưởng Hồ Chí Minh: Nguyễn Thị Thuỳ Châu
2. Tầm quan trọng của tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh: Nguyễn Ngọc Hiệp
Chương II: Sinh viên học tập và làm theo tâm gương đạo đức Hồ Chí Minh
1. Thực trạng đạo đức của thanh niên sinh viên Việt Nam hiện nay: Đặng
Trung Hiếu
2. Phương pháp, định hướng của sinh viên trong việc học tập tư tưởng Hồ
Chí Minh: Phan Trọng Hiếu
KẾT LUẬN: Dương Khánh Huyền
Tổng hợp chỉnh sửa: Dương Khánh Huyền

16




×