ĐẠI HỌC CƠNG NGHỆ GIAO THƠNG VẬN TẢI
KHOA CHÍNH TRỊ - QPAN - GDTC
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LÊNIN
Câu hỏi tiểu luận: ‘‘Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản
xuất hàng hóa? Liên hệ với việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay?’’
Sinh viên thực hiện: Bùi Thị Thắm
Mã sinh viên: 72DCKT20078
Lớp: 72DCKT22
Khóa: 72
Giảng viên hướng dẫn: Lê Thị Huyền
Hà Nội – 2022
MỤC LỤC
A.MỞ ĐẦU……………………………………………………………
1
B.NỘI DUNG…………………………………………………………
2
I, Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất
hàng hóa……………………………………………………………..
2
1.Khái niệm sản xuất hàng hóa ……………………………………….
2
2. So sánh sản xuất hàng hóa với sản xuất tự cấp, tự túc ……………..
2
3. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa……………………………..
3
4. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa …………………………………...
3
5. Ưu thế và những hạn chế của sản xuất hàng hóa……………………
4
II, Liên hệ với việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay..........................................................................................................
5
1.Giải thích tại sao Việt Nam phải xây dựng nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước………………….
5
2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta……………………..
7
3. Ưu thế và hạn chế của nền kinh tế thị trường ở nước ta…………….
12
4. Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay………
13
C.KẾT LUẬN…………………………………………………………
18
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………………
18
1
A.MỞ ĐẦU:
Như chúng ta đã biết, trong thời kì đầu của xã hội lồi người (hình thái cơng
xã ngun thủy) mọi hoạt động sản xuất của xã hội đều mang tính nhỏ lẻ, tự cung,
tự cấp nó khiến cho nhu cầu của con người bị gói gọn trong một giới hạn nhất
định do sự lạc hậu, yếu kém của lực lượng sản xuất. Chỉ cho đến khi lực lượng
sản xuất dần phát triển và đạt được những thành tựu nhất định, nhu cầu của con
người mới dần được đáp ứng nhiều hơn. Sự phát triển của lực lượng sản xuất cũng
chính là một trong những nhân tố quan trọng dẫn đến sự thay đổi từ nền kinh tế
tự nhiên (tự cung, tự cấp) sang nền kinh tế hàng hóa và đỉnh cao là nền kinh tế thị
trường.
Kinh tế thị trường có những ưu việt của nó, đó là nhu cầu về hàng hóa của
con người được đáp ứng, thỏa mãn tối đa với số lượng hàng hóa khổng lồ. Tuy
nhiên nó cũng bộc lộ ra những mặt hạn chế, nhất là trong chế độ xã hội chủ nghĩa
tư bản. Tư bản chủ nghĩa xem lợi nhuận là yếu tố hàng đầu quan trọng dẫn đến
quyền bình đẳng trong xã hội bị xem nhẹ và sự phân hóa xã hội sâu sắc. Nhận biết
trước tình hình đó, trong q trình nghiên cứu về hình thái kinh tế xã hội Mác và
Ăngghen đưa ra dự đoán: Tư bản chủ nghĩa sớm muộn gì cũng bị thay thế bởi một
chế độ xã hội hồn thiện hơn, nơi mà con người có quyền tự do, bình đẳng, văn
minh, xã hội cơng bằng, nền kinh tế phát triển bền vững. Đó là chủ nghĩa cộng
sản mà giai cấp của nó là chủ nghĩa xã hội - thời kì chun chính của giai cấp vơ
sản.
Từ sau khi giải phóng hồn tồn miền Bắc, Đảng ta đã xác định đưa đất
nước đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng VI (1986) được xem
là bước ngoặt lịch sử của nền kinh tế với đường lối mới của Đảng để phát triển
đất nước. Theo đó ta xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước theo định hướng xã hội
chủ nghĩa. Tư tưởng ấy càng được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của
Đảng.
Cho đến ngày hơm nay, sau nhiều năm thực hiện đổi mới, Việt Nam đã gặt
hái được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh đó cịn có khá nhiều những
mặt hạn chế cần điều chỉnh. Chính vì những lí do này mà em đã lựa chọn: ‘‘Phân
tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa. Liên hệ với
việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.’’ làm đề tài cho
bài tiểu luận kinh tế chính trị Mác - Lênin của mình để tìm hiểu sâu hơn về q
trình ra đời của hàng hóa, từ đó liên hệ với bản thân và với nước ta, nhằm làm cho
q trình sản xuất hàng hóa ở nước ta ngày càng phát triển với chất lượng cao
hơn.
2
B.NỘI DUNG:
I, Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của sản xuất hàng hóa.
1. Khái niệm sản xuất hàng hóa.
Theo C. Mác, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức hoạt động kinh tế mà ở đó,
những người sản xuất ra sản phẩm nhằm mục đích trao đổi, mua bán.
2. So sánh sản xuất hàng hóa với sản xuất tự cấp, tự túc.
Sản xuất tự cấp, tự túc: là kiểu tổ chức kinh tế mà sản phẩm do lao động
tạo ra là nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu của người sản xuất.
Sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế với mục đích sản xuất ra sản
phẩm để trao đổi, mua bán.
Điểm giống nhau: quá trình sản xuất đều là quá trình kết hợp các yếu tố sản xuất
để tạo ra sản phẩm.
Điểm khác nhau:
Mục đích sản xuất:
Tự cấp, tự túc là sản xuất để tiêu dùng (làm thỏa mãn nhu cầu trực tiếp của
người sản xuất)
Sản xuất hàng hóa là sản xuất ra để bán, thỏa mãn nhu cầu của người mua, có
lãi.
Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất:
Sản xuất tự cấp, tự túc là lực lượng sản xuất ở trình độ cịn thấp (tồn tại ở chế
độ cơng xã ngun thủy)
Ví dụ: vùng sâu, vùng xa.
Sản xuất hàng hóa lực lượng sản xuất đã phát triển hơn.
Quan hệ kinh tế:
Sản xuất tự cấp, tự túc: Sản xuất để tiêu dùng nên khơng cần phải hoạch tốn
kinh tế và nó mang hình thái hiện vật.
Sản xuất hàng hóa: Sản xuất để trao đổi mua bán nên phải hạch toán kinh tế và
nó mang hình thái giá trị, hàng hóa tiền tệ.
Người quyết định chủng loại, số lượng sản phẩm:
Sản xuất tự cấp, tự túc: Người sản xuất quyết định
Sản xuất hàng hóa: Người tiêu dùng quyết định.
3
Tính chất của mơi trường sản xuất:
Sản xuất tự cấp, tự túc: Khơng có sự cạnh tranh, mơ hình khép kín.
Sản xuất hàng hóa: Cạnh tranh gay gắt, thị trường ngày càng mở rộng.
3. Điều kiện ra đời của sản xuất hàng hóa:
Sản xuất hàng hóa khơng xuất hiện đồng thời với sự xuất kiện của xã hội
loài người. nền kinh tế hàng hóa có thể hình thành và phát triển khi có các điều
kiện:
Thứ nhất, Phân cơng lao động xã hội (điều kiện cần)
Phân công lao động xã hội là sự phân chia lao động trong xã hội thành các
ngành, các lĩnh vực sản xuất khác nhau, tạo nên sự chun mơn hóa của những
người sản xuất thành những ngành nghề khác nhau. Khi đó, mỗi người thực hiện
sản xuất một hoặc một số loại sản phẩm nhất định, nhưng nhu cầu của họ lại yêu
cầu nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thỏa mãn nhu cầu của mình, tất yếu những
người sản xuất phải trao đổi sản phẩm với nhau.
Thứ hai, sự tách biệt tương đối về kinh tế của các chủ thể sản xuất (điều
kiện đủ)
Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản xuất làm cho giữa những
người sản xuất độc lập với nhau, có sự tách biệt về lợi ích. Trong điều kiện đó,
người này muốn tiêu dùng sản phẩm của người khác phải thông qua trao đổi, mua
bán, tức là phải trao đổi dưới hình thức hàng hóa. C.Mác viết: “chỉ có sản phẩm
của những lao động tư nhân độc lập và không phụ thuộc vào nhau mới đối diện
với nhau như là những hàng hóa”1. Sự tách biệt về mặt kinh tế giữa những người
sản xuất là điều kiện đủ để nền sản xuất hàng hóa ra đời và phát triển.
Trong lịch sử, sự tách biệt về mặt kinh tế giữa các chủ thể sản
xuất xuất hiện khách quan dựa trên sự tách biệt về quyền sở hữu. Xã hội loài
người càng phát triển, sự tách biệt về quyền sở hữu càng sâu sắc, hàng hóa được
sản xuất ra càng phong phú.
Khi còn sự hiện diện của hai điều kiện nêu trên, con người khơng thể dùng
ý chí chủ quan mà xóa bỏ nền sản xuất hàng hóa được. Việc cố tình xóa bỏ nền
sản xuất hàng hóa, sẽ làm cho xã hội đi tới chỗ khan hiếm và khủng hoảng. Với ý
nghĩa đó, cần khẳng định, nền sản xuất hàng hóa có ưu thế tích cực vượt trội so
với nền sản xuất tự cấp, tự túc.
4. Đặc trưng của sản xuất hàng hóa:
1
. C.Mác và Ph. Ăngghen: Tồn tập, sđd, t.23, tr.72
4
Sản xuất hàng hóa có những đặc trưng cơ bản sau đây:
Sản xuất hàng hóa là sản xuất để trao đổi, mua bán. Theo chủ nghĩa MácLenin thì trong lịch sử loài người tồn tại hai kiểu tổ chức kinh tế khác nhau là sản
xuất tự cung, tự cấp (tự túc, tự cấp) và sản xuất hàng hóa. Sản xuất tự cung, tự cấp
là kiểu tổ chức kinh tế trong đó sản phẩm được sản xuất ra nhằm đáp ứng nhu cầu
tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất như sản xuất của người dân trong
thời kỳ công xã nguyên thủy, sản xuất của những người nông dân gia trưởng dưới
chế độ phong kiến... Trong khi đó, sản xuất hàng hóa là kiểu tổ chức kinh tế trong
đó sản phẩm được sản xuất ra để bán chứ không phải là để đáp ứng nhu cầu tiêu
dùng của chính người trực tiếp sản xuất ra nó, tức là để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng
của người khác, thông qua việc trao đổi, mua bán.
Lao động của người sản xuất hàng hóa vừa mang tính tư nhân, vừa mang tính
xã hội. Lao động của người sản xuất hàng hóa mang tính chất xã hội vì sản phẩm
làm ra để cho xã hội, đáp ứng nhu cầu của người khác trong xã hội. Nhưng với sự
tách biệt tương đối về kinh tế, thì lao động của người sản xuất hàng hóa đồng thời
lại mang tính chất tư nhân, vì việc sản xuất cái gì, như thế nào là cơng việc riêng,
mang tính độc lập của mỗi người. Tính chất tư nhân đó có thể phù hợp hoặc khơng
phù hợp với tính chất xã hội. Đó chính là mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng
hóa. Theo chủ nghĩa Mác - Lenin thì mâu thuẫn giữa lao động tư nhân và lao động
xã hội là cơ sở, mầm mống của khủng hoảng trong nền kinh tế hàng hóa.
Mục đích của sản xuất hàng hóa là giá trị, là lợi nhuận chứ khơng phải giá
trị sử dụng.
Sự phát triển của sản xuất hàng hóa từ thấp đến cao, từ quy mô nhỏ đến quy
mô lớn. Sản xuất hàng hóa quy mơ nhỏ (sản xuất hàng hóa giản đơn) được đặc
trưng bởi kỹ thuật sản xuất kém hiện đại, lao động thủ công lạc hậu, khơng có sự
hỗ trợ của các máy móc thiết bị hiện đại, năng suất lao động kém, chưa cao, số
lượng hàng hóa thấp. Sản xuất quy mơ hàng hóa lớn (sản xuất hiện đại) đặc trưng
bởi trình độ kỹ thuật của sản xuất ngày càng tiến bộ, hiện đại, lao động sử dụng
nhiều máy móc, trang thiết bị hỗ trợ, năng suất lao động tăng cao, số lượng và
chất lượng hàng hóa ngày càng nhiều và được cải thiện đáng kể.
5. Ưu thế và những hạn chế của sản xuất hàng hóa:
Ưu thế của sản xuất hàng hóa:
So với sản xuất tự cung tự cấp, sản xuất hàng hóa có những ưu thế hơn hẳn,
cụ thể như:
Sản xuất hàng hóa ra đời trên cơ sở của phân công lao động xã hội, chun
mơn hóa sản xuất chính vì thế, nó khai thác được những lợi thế về tự nhiên, xã
hội của từng người, từng cơ sở sản xuất cũng như từng vùng, từng địa phương.
Bên cạnh đó, sự phát triển của sản xuất hàng hóa lại có tác động trở lại, thúc đẩy
sự phát triển của phân công lao động xã hội, làm cho chun mơn hóa lao động
5
ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành, các vùng ngày càng trở nên mở rộng,
sâu sắc. Phá vỡ tính tự cấp tự túc, bảo thủ, trì trệ, lạc hậu của mỗi ngành, mỗi địa
phương làm cho nhu cầu của xã hội được đáp ứng đầy đủ hơn. Khi sản xuất và
trao đổi hàng hóa mở rộng giữa các quốc gia, thì nó cịn khai thác được lợi thế của
các quốc gia với nhau.
Trong nền sản xuất hàng hóa, quy mơ sản xuất khơng cịn bị giới hạn bởi
nhu cầu và nguồn lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, gia đình, mỗi cơ sở,
mỗi vùng, mỗi địa phương, mà nó được mở rộng, dựa trên cơ sở nhu cầu và nguồn
lực của xã hội.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự tác động của quy luật vốn có của sản xuất
và trao đổi hàng hóa là quy luật giá trị, quy luật cung - cầu, quy luật cạnh tranh...
buộc người sản xuất hàng hóa phải ln ln năng động, nhạy bén, biết tính tốn,
cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả
kinh tế, cải tiến hình thức, quy cách và chủng loại hàng hóa, làm cho chi phí sản
xuất hạ xuống đáp ứng nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng ngày càng cao hơn.
Trong nền sản xuất hàng hóa, sự phát triển của sản xuất, sự mở rộng và giao
lưu kinh tế giữa các cá nhân, giữa các vùng, giữa các nước... không chỉ làm cho
đời sống vật chất mà cả đời sống văn hóa, tinh thần cũng được nâng cao hơn,
phong phú hơn, đa dạng hơn.
Tóm lại, nếu như sản xuất tự cung tự cấp bị giới hạn bởi nhu cầu và nguồn
lực mang tính hạn hẹp của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi địa phương, quy mô
sản xuất nhỏ, không tạo được động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. nên đời sống
vật chất, văn hóa, tinh thần của mỗi người cịn nghèo nàn, lạc hậu, thì ngược lại,
sản xuất hàng hóa tạo được động lực thúc đẩy sản xuất phát triển, làm cho sản
xuất phù hợp với nhu cầu, từ đó mà góp phần nâng cao đời sống vật chất, văn hóa,
tinh thần của mỗi cá nhân và toàn xã hội.
Hạn chế của sản xuất hàng hóa:
Bên cạnh những ưu thế sản xuất hàng hóa cũng có những mặt trái của nó như:
Sự phân hóa giàu – nghèo giữa những người sản xuất hàng hóa.
Điều tiết tự phát nền kinh tế (bàn tay vơ hình)
Khủng hoảng, lạm phát, thất nghiệp, ơ nhiễm mơi trường, cạnh tranh khơng
lành mạnh, làm giàu bất chính, suy thối đạo đức, tệ nạn xã hội và tội phạm phát
triển.
II, Liên hệ với việc phát triển nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay.
1. Giải thích tại sao Việt Nam phải xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của nhà nước.
6
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam xuất
phát từ những lý do cơ bản sau đây:
Một là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phù hợp
với xu hướng phát triển khách quan của Việt Nam trong bối cảnh thế giới hiện
nay.
Như đã chỉ ra, nền kinh tế thị trường là nền kinh tế hàng hóa phát triển ở
trình độ cao. Khi có đủ các điều kiện cho sự tồn tại và phát triển, nền kinh tế hàng
hóa tự hình thành và phát triển đạt tới trình độ nền kinh tế thị trường. Do đó, sự
hình thành kinh tế thị trường ở Việt Nam là tất yếu khách quan.
Mong muốn dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh là
mong muốn chung của các quốc gia trên thế giới. Do đó, việc định hướng tới xác
lập những giá trị đó trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam là phù hợp và tất yếu
trong phát triển.
Thực tiễn lịch sử cho thấy, mặc dù kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa đã
đạt tới giai đoạn phát triển khá cao và phồn thịnh ở các nước tư bản phát triển,
nhưng những mâu thuẫn vốn có của nó khơng thể nào khắc phục được. Vì vậy, sự
lựa chọn mơ hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt Nam
là phù hợp với xu thế của thời đại và đặc điểm phát triển của dân tộc.
Hai là, do tính ưu việt của kinh tế thị trường trong thúc đẩy phát triển Việt
Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Thực tiễn cho thấy kinh tế thị trường là phương thức phân bổ nguồn lực
hiệu quả, là động lực thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh, kích thích tiến
bộ kỹ thuật - công nghệ, nâng cao năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và giá
thành hạ.
Xét trên góc độ đó, sự phát triển của kinh tế thị trường không hề mâu thuẫn
với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội cần phải phát triển kinh tế thị trường thực hiện mục tiêu của chủ nghĩa xã hội
7
là “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Tuy nhiên, trong quá
trình phát triển kinh tế thị trường cần chú ý tới những thất bại và khuyết tật của
thị trường để có sự can thiệp, điều tiết kịp thời của nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa. Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là sự lựa chọn
cách làm, bước đi đúng quy luật kinh tế khách quan, là phương tiện cần thiết để
đi đến mục tiêu của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Ba là, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với nguyện
vọng của nhân dân mong muốn dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh của người Việt Nam
Phấn đấu vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn
minh là khát vọng của nhân dân Việt Nam. Để hiện thực hóa khát vọng như vậy,
việc thực hiện kinh tế thị trường mà trong đó hướng tới những giá trị mới, do đó,
là tất yếu khách quan.
Cần phải khẳng định rằng: kinh tế thị trường sẽ còn tồn tại lâu dài ở nước
ta là tất yếu khách quan, là sự cần thiết cho công cuộc xây dựng và phát triển. Bởi
lẽ sự tồn tại hay không tồn tại của kinh tế thị trường là do những điều kiện kinh tế
- xã hội khách quan sinh ra nó quy định.
Mặt khác, nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa về thực chất là quá tình phát triển “rút ngắn” của lịch sử, chứ không phải là
sự “đốt cháy” giai đoạn và phù hợp với khát vọng của nhân dân Việt Nam.
2. Đặc trưng của nền kinh tế thị trường ở nước ta:
Về mục tiêu:
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là phương thức để phát
triển lực lượng sản xuất, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã
hội; nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh”.
Đây là sự khác biệt cơ bản của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
8
nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mục đích đó bắt nguồn từ cơ sở
kinh tế - xã hội của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và là sự phản ánh mục
tiêu chính trị - xã hội mà nhân dân ta đang phấn đấu dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam. Mặt khác, đi đôi với việc phát triển lực lượng sản xuất
hiện đại, quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam còn gắn với xây
dựng quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp nhằm ngày càng hoàn thiện cơ sở kinh
tế - xã hội của chủ nghĩa xã hội.
Về quan hệ sở hữu và thành phần kinh tế.
Sở hữu được hiểu là quan hệ giữa con người với con người trong quá trình sản
xuất và tái sản xuất xã hội trên cơ sở chiếm hữu nguồn lực của quá trình sản xuất
và kết quả lao động tương ứng của quá trình sản xuất hay tái sản xuất ấy trong
một điều kiện lịch sử nhất định.
Khi đề cập tới sở hữu hàm ý trong đó có chủ thể sở hữu, đối tượng sở hữu và
lợi ích từ đối tượng sở hữu. Mục đích của chủ sở hữu là nhằm thực hiện những
lợi ích từ đối tượng sở hữu. Cơ sở sâu xa cho sự hình thành sở hữu hiện thực trước
hết, xuất phát từ quá trình sản xuất và tái sản xuất xã hội. Chừng nào còn sản xuất
xã hội, chừng đó con người cịn cần phải chăm lo, thúc đẩy sở hữu. Trình độ phát
triển của kinh tế xã hội đến đâu, sẽ phản ánh trình độ phát triển của sở hữu tương
ứng.
Sở hữu bao hàm nội dung kinh tế và nội dung pháp lý.
Về nội dung kinh tế, sở hữu là cơ sở, là điều kiện của sản xuất2. Nội dung kinh
tế của sở hữu biểu hiện ở những lợi ích kinh tế mà chủ thể sở hữu sẽ được thụ
hưởng. Không xác lập quan hệ sở hữu, khơng có cơ sở để thực hiện lợi ích kinh
tế. Vì vậy, khi có sự thay đổi phạm vi và quy mô các đối tượng sở hữu, địa vị của
các chủ thể sở hữu sẽ thay đổi.
Về nội dung pháp lý, sở hữu thể hiện những quy định mang tính chất pháp luật
2
. Xem C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.860.
9
về quyền hạn, nghĩa vụ của chủ thể sở hữu. Sở hữu luôn là vấn đề quan trọng hàng
đầu khi xây dựng và hoạch định cơ chế quản lý nhà nước với quá trình phát triển.
Nội dung kinh tế và nội dung pháp lý của sở hữu thống nhất biện chứng trong
một chỉnh thể. Nội dung pháp lý là phương thức để thực hiện lợi ích một cách
chính đáng. Khi khơng xét trong nội dung pháp lý, lợi ích - biểu hiện tập trung
của nội dung kinh tế không được thực hiện một cách hợp pháp. Khi không xét tới
nội dung kinh tế, nội dung pháp lý của sở hữu chỉ mang giá trị vê mặt hình thức.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế có
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữ
vai trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng, kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc
lập tự chủ. Các chủ thể thuộc các thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh
tranh cùng phát triển.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam không
chỉ củng cố và phát triển các thành phần kinh tế dựa trên chế độ công hữu là kinh
tế nhà nước và kinh tế tập thể mà còn phải khuyến khích các thành phần kinh tế
dựa trên sở hữu tư nhân coi đó là động lực quan trọng, thực hiện sự liên kết giữa
các loại hình cơng hữu - tư hữu sậu rộng ở cả trong và ngoài nước. Chỉ có như
vậy mới có thể khai thác được mọi nguồn lực, nâng cao hiệu quả kinh tế, phát huy
được tiềm năng to lớn của các thành phần kinh tế vào sự phát triển chung của đất
nước.
Trong nền kinh tế thị trường định hưóng xã hội chủ nghĩa, kinh tế nhà nước
đóng vai trị chủ đạo, cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững
chắc của nền kinh tế quốc dân. Đó là vấn đề có tính nguyên tắc nhằm bảo đảm
đúng định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Về quan hệ quản lý nền kinh tế.
Quan hệ quản lý và cơ chế quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam có đặc trưng: Nhà nước quản lý và thực hành cơ chế
10
quản lý là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản, sự làm chủ và giám sát của nhân
dân với mục tiêu dùng kinh tế thị trường để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho
chủ nghĩa xã hội, vì “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đảng lãnh đạo nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua
cương lĩnh, đường lối phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ phát triển của
đất nước. Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thông qua pháp luật, các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch và cơ chế chính sách
cùng các công cụ kinh tế trên cơ sở tôn trọng những nguyên tắc của thị trường,
phù hợp với yêu cầu xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nhằm bảo đảm
tính bền vững của các cân đối kinh tế vĩ mô; khắc phục những khuyết tật của kinh
tế thị trường.
Về quan hệ phân phối.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam thực hiện phân
phối công bằng các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội và điều kiện
phát triển của mọi chủ thể kinh tế (phân phối đầu vào) để tiến tới xây dựng xã hội
mọi người đều giàu có, đồng thời phân phối kết quả làm ra (đầu ra) chủ yếu theo
kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Quan hệ phân phối bị chi phối và quyết định bởi quan hệ sở hữu về tư liệu sản
xuất. Thực hiện nhiều hình thức phân phối (thực chất là thực hiện các lợi ích kinh
tế) ở nước ta sẽ có tác dụng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội, góp
phần cải thiện và nâng đời sống cho mọi tầng lớp nhân dân trong xã hội, bảo đảm
cơng bằng xã hội.
Trong các hình thức phân phối đó, phân phối theo lao động và hiệu quả kinh
tế, phân phối theo phúc lợi là những hình thức phân phối phản ánh định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường.
Về quan hệ giữa gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội.
11
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam phải thực hiện
gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội; phát triển kinh tế đi đơi với phát
triển văn hóa - xã hội; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng chính
sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và từng giai đoạn phát triển của kinh tế thị
trường.
Đây là đặc trưng phản ánh thuộc tính quan trọng mang tính định hướng xã hội
chủ nghĩa nền kinh tế thị trường ở Việt Nam. Bởi đó là điều kiện bảo đảm cho sự
phát triển bền vững của nền kinh tế, vừa là mục tiêu thể hiện bản chất tốt đẹp của
chế độ xã hội chủ nghĩa.
Ngày nay, ở các nước tư bản chủ nghĩa người ta cũng đặt ra vấn đề giải quyết
cơng bằng xã hội. Song thực chất nó chỉ được đặt ra khi tác động tiêu cực của cơ
chế thị trường đã làm gay gắt các vấn đề xã hội, tạo ra bùng nổ các vấn đề xã hội,
đe dọa sự tồn vong của chế độ tư bản. Còn trong nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa, giải quyết công bằng xã hội không chỉ là phương tiện để duy trì
sự tăng trưởng ổn định, bền vững mà cịn là mục tiêu phải hiện thực hóa.
Tuy nhiên, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội không phải là cào bằng hay
kiểu bình quân, chia đều các nguồn lực và của cải làm ra bất chấp chất lượng, hiệu
quả sản xuẩt kinh doanh và sự đóng góp của mỗi người cho sự phát triển chung
của nền kinh tế. Hoặc cũng không thể dồn mọi nguồn lực cho phát triển xã hội
vượt quá khả năng của nền kinh tế. Ngày nay, thực hiện công bằng xã hội ở nước
ta khơng chỉ dựa vào chính sách điều tiết thu nhập, an sinh xã hội và phúc lợi xã
hội mà còn phải tạo ra những điều kiện, tiền đề cần thiết để bảo đảm cho mọi
người dân đều có cơ hội như nhau trong việc tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản.
Nhà nước vừa phải quan tâm đầu tư thỏa đáng vừa phải coi trọng huy động các
nguồn lực trong nhân dân để đem lại lợi ích chung cho xã hội và mỗi người.
Với những đặc trưng trên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam là sự kết hợp những mặt tích cực, ưu điểm của kinh tế thị trường với
bản chất ưu việt của chủ nghĩa xã hội để hướng tới một nền kinh tế thị trường hiện
12
đại, văn minh. Tuy nhiên, kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam đang trong quá trình hình thành và phát triển tất sẽ cịn bộc lộ nhiều yếu kém
cần phải khắc phục và hoàn thiện.
3. Ưu thế và hạn chế của nền kinh tế thị trường ở nước ta
Ưu thế của nền kinh tế thị trường ở nước ta:
Xuất phát từ đặc điểm của nền kinh tế nước ta: Cùng với sự phát triển của
kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta phát triển nhờ có sự chuyển đổi từ kinh tế
hàng hóa lên kinh tế thị trường.
Thỏa mãn được hai điều kiện để tồn tại:
Phân công lao động xã hội ở nước ta: với tư cách là cơ sở chung của sản
xuất hàng hóa chẳng những khơng mất đi, mà trái lại cịn được phát triển mạnh
mẽ về cả chiều rộng lẫn chiều sâu. Phân công lao động trong từng khu vực, từng
địa phương ngày càng phát triển. Sự phát triển của phân cơng lao động được thể
hiện ở tính đa dạng và chất lượng ngày càng cao của sản phẩm đưa ra trao đổi trên
thị trường. Việc chun mơn hóa sản xuất khơng chỉ ở các sản phẩm với nhau mà
cịn ở các chi tiết của một sản phẩm.
Sự tách biệt tương đối về mặt kinh tế giữa các chủ thể: Trong nền kinh tế
nước ta tồn tại nhiều loại hình sở hữu khá nhau về tư liệu sản xuất. Do đó tồn tại
nhiều chủ thể kinh tế độc lập, có lợi ích riêng nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ
được thực hiện bằng quan hệ hàng hóa tiền tệ.
Hạn chế của nền kinh tế thị trường ở nước ta:
Có thể nhận thấy rõ quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường xã hội
chủ nghĩa diễn ra còn chậm, chưa theo kịp công cuộc đổi mới và hội nhập kinh tế
quốc tế của đất nước, biểu hiện cụ thể ở các điểm sau:
Một là, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa đầy đủ, chưa đồng bộ
và chưa thống nhất. Việc xử lí các vấn đề liên quan đến đất đai, tài ngun, tài sản
cơng… cịn nhiều bất cập vướng mắc.
Hai là, vấn đề sở hữu, quản lý và phân phối trong các doanh nghiệp nhà
nước chưa giải quyết tốt, gây khó khăn cho sự phát triển và làm thất thoát tài sản
nhà nước, nhất là khi tiến hành cổ phần hóa. Doanh nghiệp thuộc các thành phần
kinh tế khác còn bị phân biệt đối sử.
Ba là, các yếu tố thị trường và các loại thị trường hình thành, phát triển
chậm, thiếu đồng bộ, vận hành chưa thông suốt. Tình trạng cạnh tranh khơng lành
mạnh, gian lận thương mại, trốn, lậu thuế còn nhiều, chậm chưa được khắc phục.
13
Bốn là, phân bổ nguồn lực quốc gia chưa hợp lý. Chính sách tiền lương cịn
mang tính bình qn, chưa đảm bảo đời sống của người hưởng lương, chưa
khuyến khích, thu hút và sử dụng được người tài. Hệ thống thuế chưa thực hiện
tốt chức năng điều tiết và bảo đảm công bằng xã hội, thúc đẩy đầu tư, đổi mới
công nghệ, nuôi dưỡng và phát triển nguồn thu.
Năm là, tổ chức bộ máy, cơ chế vận hành của bộ máy và đội ngũ cán bộ,
cơng chức nhà nước cịn nhiều bất cập, hiệu lực, hiệu quả quản lý còn thấp. Cải
cách hành chính chưa đạt được mục tiêu, yêu cầu đề ra, tệ tham nhũng, quan liêu,
lãng phí vẫn nghiêm trọng.
Sáu là, cơ chế, chính sách phát triển các lĩnh vực văn hóa, xã hội đổi mới
chậm, chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục - đào tạo còn thấp. Khoảng cách giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa các vùng ngày càng lớn. Hệ thống an sinh
xã hội còn kém. Những vấn đề bất cập, bức xúc trong xã hội và bảo vệ môi trường
chưa được giải quyết tốt.
4.Giải pháp để phát triển kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường:
Trong nền kinh tế thị trường thì vai trị của Nhà nước là vơ cùng cần thiết
và không thể thiếu được. Nhà nước dẫn dắt thị trường phát triển theo hướng tích
cực và khắc phục, sửa chữa những gì mà cơ chế thị trường chưa đạt được để kinh
tế phát triển một cách tốt nhất. Vậy vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị
trường được thể hiện ở những điểm sau:
Định hướng cho sự phát triển nền kinh tế:
Hiện nay nhà nước cho phép các doanh nghiệp được quyền lựa chọn
phương án sản xuất kinh doanh và tôn trọng quyết định của họ về việc sản xuất
cái gì, bằng cách nào, tiêu thụ ở đâu… Trong khi đó thì các doanh nghiệp đưa ra
phương án kinh doanh lấy mục tiêu lợi nhuận làm thước đo hiệu quả công việc và
cũng là định hướng cho hành vi của họ. Sự tự do kinh doanh đã đưa các doanh
nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau nhưng hoạt động cạnh tranh với
nhau, việc này vừa thúc đẩy việc phát triển, vừa dẫn đến sự khai thác bừa bãi các
nguồn lực, hủy hoại môi trường.
Không giống như doanh nghiệp, mục tiêu Nhà nước theo đuổi là mục tiêu
chung của dân tộc: làm cho dân giàu nước mạnh, nền kinh tế tăng trưởng một cách
ổn định, vững chắc trong điều kiện công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế của toàn
bộ nền kinh tế quốc dân.
Nhà nước muốn đưa ra lợi ích này thực chất là thống nhất các lợi ích kinh
tế khác nhau và quy tụ chúng về cùng một lợi ích để sao cho trong khi mỗi người
theo đuổi lợi ích cá nhân của mình cũng đồng thời góp phần vào việc theo đuổi
14
lợi ích dân tộc. Để có thể hồn thiện chức năng định hướng nền kinh tế, Chính
phủ phải tạo ra được công cụ định hướng để quy tụ hành động của doanh nghiệp
và người tiêu dùng theo chiều hướng vận động của nền kinh tế Nhà nước, cụ thể
ban Chính phủ đã đưa ra hai định hướng cơ bản cho sự phát triển kinh tế:
Chiến lược phát triển kinh tế dài hạn.
Kế hoạch hóa định hướng.
Tạo điều kiện thuận lợi cho nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần:
Mỗi thành phần kinh tế chỉ có thể hoạt động khi có môi trường thuận lợi
với những điều kiện kinh tế xã hội cần và đủ. Nhà nước chủ động sử dụng kiến
trúc thượng tầng và quyền lực của mình để tạo ra môi trường kinh doanh thuận
lợi cho các doanh nghiệp yên tâm đầu tư, mở rộng phát triển sản xuất. Để hồn
thiện vai trị đó nhà nước đã thực hiện các công việc sau:
Tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tự do hóa giá cả, thương mại hóa nền
kinh tế.
Bảo đảm các quyền của người chủ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Đa dạng hóa chế độ sở hữu về tư liệu sản xuất.
Xây dựng hệ thống pháp luật của nền kinh tế thị trường.
Ổn định về chính trị.
Phân phối thu nhập quốc dân một cách công bằng - hiệu quả:
Trong nền kinh tế thị trường càng mở rộng thì hoạt động của quy luật giá trị
càng dẫn đến việc phân hóa thu nhập giữa các tầng lớp dân cư và phân hóa dân
cư thành các tầng lớp khác nhau, từ đó tạo ra các quyền lực khác nhau giữa họ:
quyền lực kinh tế và quyền lực chính trị. Tình trạng bất bình đẳng xảy ra quá
khuân khổ cho phép sẽ dẫn đến sự phản ứng của dân cư trong mọi lĩnh vực: chính
trị, xã hội… Để ổn định về mặt chính trị, Nhà nước cần phải tạo ra môi trường
lành mạnh cho các doanh nghiệp làm ăn, đồng thời phải hoàn thành phân phối lại
thu nhập của các tầng lớp dân cư sao cho thỏa mãn yêu cầu công bằng hiệu quả.
Mặt khác, sự khác nhau về sở hữu của cải, năng lực sở trường, trình độ tay nghề
và sự may mắn là điều lẽ dĩ nhiên.
Can thiệp vào các q trình kinh tế mỗi khi có chấn động.
Bên cạnh những chiến lược dài hạn mà Nhà nước đặt ra và thực hiện cơ chế
cung cầu giá cả thị trường trong nội địa và quan hệ kinh tế quốc dân cũng ảnh
hưởng đến nền kinh tế ở nước ta hiện nay. Trong trường hợp Nhà nước sử dụng:
lãi suất, thuế, quỹ dự trữ quốc gia và chỉ tiêu ngân sách để làm giảm những chấn
động do cú sốc mang lại như: thực hiện hóa mục tiêu định hướng của các chương
15
trình kéo dài… và đưa nền kinh tế đi theo đúng con đường định hướng xã hội chủ
nghĩa.
Quản lí tài sản quốc gia, phân bổ các nguồn lực:
Nhà nước ta phải hoàn thành cùng một lúc hai nhiệm vụ lớn trong nền kinh tế
thị trường, đó là:
Nhà nước điều khiển sự vận động của nền kinh tế bằng cách hoạch định các
chiến lược phát triển kinh tế xã hội dài hạn và ngắn hạn, quyết định các phương
án phân phối và phân phối lại thu nhập quốc dân sao cho bình đẳng, cơng bằng,
hiệu quả, tạo mơi trường thuận lợi, hướng dẫn các doanh nghiệp làm ăn, can thiệp
vào nền kinh tế mỗi khi có cú sốc để làm giảm các chấn động trên con đường đi
đến mục tiêu.
Nhà nước quản lý tài sản quốc gia. Về mặt đối ngoại, Nhà nước có trách nhiệm
bảo vệ các nguồn lực, ngăn chặn mọi âm mưu từ bên ngoài đến vùng trời và vùng
biển. Về mặt đối nội, Nhà nước là chủ sở hữu các nguồn lực của khu vực doanh
nghiệp Nhà nước. Với tư cách đó, Nhà nước quản lý trực tiếp và đóng vai trị độc
quyền ở các thị trường quan trọng. Song bên cạnh tư cách là chủ các nguồn lực,
Nhà nước còn quản lý đất nước và là trọng tài, là chủ thể của q trình phân cơng
lại vai trị giữa các thành phần kinh tế khơng làm triệt tiêu lợi ích chung của tồn
bộ xã hội.
Q trình tự do giá cả, thương mại hóa nền kinh tế.
Xóa bỏ tình trạng độc quyền, xây dựng các đạo luật chống độc quyền bằng
cách tạo điều kiện cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo ra các điều kiện, các tiền
đề kinh tế, pháp lý cho sự hoạt động của các thị trường: thị trường vốn, thị trường
chứng khoán, thị trường lao động…
Ngồi các vai trị chức năng trên Nhà nước cịn thiết lập và duy trì quyền
sở hữu các quyền lực kinh tế theo hướng xác định số chủ sở hữu đích thực của
cơng nhân, của các doanh nghiệp tập thể, tư nhân và Nhà nước, cụ thể:
Giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho nông dân với các quyền khác
như: thừa kế, thế chấp, cho thuê…
Cho thuê hoặc đấu thầu tài sản sản xuất.
Cho nước ngoài thuê đất và các tài sản phục vụ sản xuất kinh doanh.
Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta:
Thứ nhất, hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các
loại hình doanh nghiệp:
16
Bảo đảm công khai, minh bạch về nghĩa vụ, trách nhiệm trong thủ tục hành
chính để quyền tài sản được giao dịch thông suốt. Nâng cao năng lực của các thiết
chế và hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh chấp dân sự, kinh tế trong bảo vệ quyền
tài sản.
Thực hiện nhất quán một chế độ pháp lý kinh doanh cho các doanh nghiệp,
khơng phân biệt hình thức sở hữu, thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc
các thành phần kinh tế đều hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng và cạnh
tranh lành mạnh theo pháp luật. Tạo điều kiện thúc đẩy phát triển doanh nghiệp
và đội ngũ doanh nhân Việt Nam thực sự trở thành lực lượng nòng cốt, đi đầu
trong sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, bảo
đảm tính độc lâp, tự chủ của nền kinh tế.
Thứ hai, hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các
loại thị trường:
Thực hiện nhất quán cơ chế giá thị trường; hồn thiện pháp luật về phí và lệ
phí. Đẩy mạnh hồn thiện thể chế bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; hoàn thiện pháp
luật về phá sản doanh nghiệp theo cơ chế thị trường, thể chế bảo vệ nhà đầu tư.
Đẩy mạnh phát triển thị trường hàng hóa - dịch vụ; phát triển cân bằng,
đồng bộ thị trường tài chính, đẩy mạnh hợp tác cơng - tư, điều hành lãi suất phù
hợp; đổi mới phát triển mạnh mẽ thị trường khoa học, công nghệ, tăng cường bảo
hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ; hồn thiện pháp luật, cơ chế, chính sách để
phát triển và vận hành thơng suốt thị trường bất động sản; hồn thiện cơ chế, chính
sách để phát triển đồng bộ, liên thông thị trường lao động cả về quy mô, chất
lượng lao động và cơ cấu ngành nghề.
Thứ ba, hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm tiến
bộ, cơng bằng xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi trường và ứng phó với
biến đổi khí hậu:
Kết hợp chặt chẽ phát triển kinh tế nhanh và bền vững với phát triển xã hội
bền vững, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, tạo cơ hội cho mọi thành viên trong
xã hội tham gia bình đẳng và thụ hưởng cơng bằng thành quả từ q trình phát
triển. Phát triển hệ thống an sinh xã hội, huy động sự tham gia của các tầng lớp
Nhân dân, cộng đồng xã hội thực hiện chính sách an sinh xã hội.
Hồn thiện thể chế về kết hợp phát triển kinh tế với bảo đảm quốc phòng,
an ninh, phát triển các khu kinh tế - quốc phòng. Gắn kết chặt chẽ giữa cơng
nghiệp quốc phịng, an ninh với cơng nghiệp dân sinh trong tổng thể chính sách
cơng nghiệp quốc gia. Phát triển mạnh các ngành kinh tế biển gắn với bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia và nâng cao đời sống Nhân dân vùng biển.
17
Thứ tư, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý
của Nhà nước và phát huy vai trò làm chủ của Nhân dân trong phát triển kinh tế xã hội:
Đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội. Nâng
cao năng lực hoạch định đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của
Đảng; đổi mới, kiện toàn tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Đảng,
đáp ứng yêu cầu lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao hiệu quả hoạt động
của cả hệ thống chính trị.
Nhà nước tập trung thể chế hóa nghị quyết của Đảng, xây dựng và tổ chức
thực hiện pháp luật; đổi mới phương thức quản lý nhà nước về kinh tế. Nâng cao
hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, kiểm tra, thanh tra, kiểm toán và thực thi
pháp luật; tạo môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh.
Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam
và các tổ chức chính trị - xã hội. Bảo đảm mọi người đều được bình đẳng trong
tiếp cận các cơ hội, điều kiện phát triển, được tham gia và hưởng lợi từ q trình
phát triển. Thể chế hóa các quy định của Hiến pháp về quyền con người, quyền
công dân, quyền và nghĩa vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính
trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp.
Thứ năm, hoàn thiện thể chế đẩy mạnh nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế
quốc tế:
Rà soát, điều chỉnh, bổ sung hệ thống pháp luật và các thiết chế, cơ chế liên
quan đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế. Đổi mới công tác xúc tiến
thương mại, đầu tư, cung cấp thông tin, hỗ trợ doanh nghiêp phát triển thị trường,
nhất là thị trường xuất khẩu. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp
với pháp luật quốc tế.
Thực hiện nhất quán chủ trương đa phương hóa, đa dạng hóa trong hợp tác
kinh tế quốc tế, không để lệ thuộc vào một số ít thị trường. Xây dựng và thực hiện
các cơ chế phù hợp với thông lệ quốc tế để phản ứng nhanh nhạy trước các diễn
biến bất lợi trên thị trường thế giới, bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội.
Tóm lại, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội là một nhiệm vụ chiến lược, là khâu đột phá quan trọng, tạo động lực để phát
triển nhanh và bền vững, tạo tiền đề vững chắc cho việc xây dựng thành công và
vận hành đồng bộ, thông suốt nền kinh tế thị trường ở nước ta, góp phần huy động
và phân bổ, sử dụng có hiệu quả nhất mọi nguồn lực để thúc đẩy kinh tế - xã hội
phát triển nhanh và bền vững, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng
bằng, văn minh”.
18
C.KẾT LUẬN.
Với đề tài tiểu luận: ‘‘Phân tích điều kiện ra đời, đặc trưng và ưu thế của
sản xuất hàng hóa. Liên hệ với việc phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện
nay.’’ Em hi vọng cung cấp những cái nhìn rõ nét hơn, cụ thể hơn, sâu sắc những
khía cạnh của sản xuất hàng hóa bao gồm lịch sử ra đời, đặc trưng sản xuất hàng
hóa, ưu thế và những hạn chế của sản xuất hàng hóa và thực trạng nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam. Từ đó, có những giải pháp giúp kinh tế sản xuất hàng hóa
nước ta phát triển hơn, bền vững hơn, sản xuất hàng hóa ở mọi nơi và với những
khoa học kĩ thuật công nghệ hiện đại giúp cho sản xuất hàng hóa biến tướng với
đại đa dạng các loại hàng hóa. Vì vậy, việc nghiên cứu các đặc điểm sản xuất của
hàng hóa cũng góp một phần nào đó trong việc đưa ra những giải pháp nhằm nâng
cao sức cạnh tranh cho hàng hóa của quốc gia giúp đạt được mong muốn trở thành
cường quốc khủng kinh tế, xã hội vững mạnh và cần phải tiếp bước đưa nền kinh
tế phát triển mạnh mẽ. Với việc kinh tế phát triển mạnh mẽ, nâng cao sản xuất
hàng hóa góp phần to lớn thúc đẩy nền kinh tế khởi sắc sánh vai với các cường
quốc Trung Quốc, Hàn Quốc, Singapore,... Song song với việc phát triển kinh tế
vững mạnh, cần đảm bảo hài hòa yếu tố phát triển bền vững, đặc biệt giải quyết
vấn đề xã hội, khắc phục khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, giải quyết tình trạng
lãng phí, ơ nhiễm môi trường. Trong tương lai không xa chúng ta sẽ được chứng
kiến một Việt Nam mới, với những bước nhảy vọt, chuyển ngoạn mục nền kinh
tế thị trường. Hẹn gặp lại mọi người ở một đất nước Việt Nam với nền kinh tế
phát triển, dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Em xin chân thành
cảm ơn!
D.TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. GIÁO TRÌNH KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC - LÊNIN (Dành cho bậc đại học
hệ không chuyên lý luận chính trị) nhà xuất bản chính trị quốc gia sự thật.
2. Bài giảng kinh tế chính trị Mác – lênin trường đại học công nghệ giao thông
vận tải.
3.
/>ng_h%C3%B3a
4. />E1%BB%83%20ch%E1%BA%BF,v%E1%BB%AFng%20%C4%91%E1%BB
%8Bnh%20h%C6%B0%E1%BB%9Bng%20x%C3%A3%20h%E1%BB%99i