Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

Giáo trình nghiên cứu Marketing- Chương 6

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (355.94 KB, 16 trang )

6

CHƯƠNG SÁU

TỔ CHỨC THU THẬP DỮ LIỆU

NỘI DUNG CHÍNH

Nội dung chủ yếu của chương này gồm:
-

Lý do của việc chọn mẫu trong nghiên cứu marketing

-

Sai số do lấy mẫu và sai số không phải do lấy mẫu

-

Các phương pháp chọn mẫu xác suất và các phương pháp chọn mẫu phi xác suất.

-

Các công việc liên quan đến thu thập dữ liệu tại hiện trường của mỗi phương pháp thu thập dữ
liệu.

-

Những sai lầm thường xảy ra khi thu thập dữ liệu tại hiện trường

-



Quản trị việc thu thập dữ liệu tại hiện trường

82


MẪU VÀ NHỮNG LÍ DO CỦA VIỆC CHỌN MẪU
Một số định nghĩa
Phần tử:
Một phần tử là một đơn vị trong đó thơng tin về nó được thu thập và làm cơ sở cho việc phân
tích. Thơng thường trong lấy mẫu nghiên cứu marketing, những phần tử là con người, tuy vậy
cũng có những loại phần tử khác như là: gia đình, cửa hàng hoặc doanh nghiệp.
Tổng thể
Một tổng thể là sự tập hợp các phần tử. có 2 loại tổng thể:
- Tổng thể chủ đích (target population): Là một tổng thể được yêu cầu bởi đặc trưng thông tin
cần nghiên cứu.
- Tổng thể lấy mẫu (sampling population): Là một tổng thể thực tế được chọn trên yêu cầu
thông tin cần nghiên cứu.
Cấu trúc mẫu (sampling frames)
Cấu trúc mẫu là một danh sách các phần tử lấy mẫu. Ví dụ: yêu cầu đánh giá trình độ trung bình
của sinh viên năm thứ 4 của một trường đại học. Tổng thể chủ đích là tất cả sinh viên đang học
năm thứ 4 đã theo học từ năm đầu tiên. Tuy nhiên, một số sinh viên đã bỏ học vì chuyển sang
trường khác, hoặc vì lý do nào đó. Số sinh viên cịn lại là tổng thể lấy mẫu. Danh sách các sinh
viên này là cấu trúc mẫu. Mỗi sinh viên trong danh sách là một phần tử lấy mẫu.
Những lí do của việc chọn mẫu
Trong nghiên cứu marketing nói riêng và trong các lĩnh vực nghiên cứu khác nói chung, việc
lấy mẫu để điều tra thay vì phải điều tra tồn bộ được thực hiện bởi các lý do sau:
- Những người ra quyết định thường bị giới hạn về mặt thời gian, do đó họ phải dựa vào bất kỳ
thơng tin nào có thể dùng được trong thời gian đó.
- Đối với qui mơ tổng thể nghiên cứu lớn, chi phí cho một cuộc điều tra toàn bộ rất lớn, sẽ gặp

hạn chế về kinh phí. Vì vậy việc điều tra trên một mẫu sẽ có ưu thế hơn nhưng vẫn bảo đảm
thu thập đầy đủ thơng tin thích hợp.
- Trong một số trường hợp, việc tiến hành điều tra toàn bộ tổng thể vẫn khơng thể nâng cao độ
chính xác của thơng tin trong khi lại tốn kém chi phí và mất nhiều thời gian.
- Trong những tình huống mà việc kiểm tra, đo lường có thể phá hủy phần tử thì việc lấy mẫu
là điều hiển nhiên. Ví dụ: kiểm tra các phim chụp ảnh...
Vấn đề sai số trong việc chọn mẫu
Thay vì điều tra tồn bộ, chúng ta chỉ thu thập các thông tin từ các phần tử trong mẫu được
chọn, sau đó sử dụng các kết quả này để ước lượng cho tổng thể, vì vậy ln luôn xuất hiện sự
sai biệt về trị số mẫu và trị số tổng thể. Sai số này gồm hai loại:
Sai số lấy mẫu
Sai số lấy mẫu là sai số xảy ra do những phần tử khi tiến hành chọn không đại diện cho tổng
thể, nghĩa là có sự khác biệt giữa trị số mẫu với trị số trung bình tổng thể. Vì thực tế khơng thể
có một đọan nhỏ hơn của tổng thể làm đại diện chính xác cho tổng thể, nên sai số lấy mẫu sẽ
hiện diện vào bất cứ lúc nào khi ta chọn mẫu dù người nghiên cứu có cẩn thận đến mức nào. Do
đó sai số này là kết quả của sự ngẫu nhiên. Sai số lấy mẫu có thể giảm thiểu bằng cách tăng
kích thước của mẫu.
83


Sai số không lấy mẫu (sai số khác)
Sai số không lấy mẫu liên quan đến bất kỳ sự việc gì (ngồi sai số lấy mẫu) có thể làm xuất
hiện các sai số hay độ chệch trong kết quả nghiên cứu. Những sai số này bao gồm:
- Lập báo cáo không chính xác.
- Xác định vị trí hiện tại của người trả lời không đúng.
- Lý giải sai các vấn đề do dùng từ ngữ mập mờ.
- Người trả lời bỏ dỡ nửa chừng do cảm thấy quá lâu, quá vô vị.
- Người phỏng vấn chỉ dẫn, hoặc giải thích các hướng dẫn sai; ghi chép không đầy đủ.
- Do sai lầm khi hiệu chỉnh và mã hóa dữ liệu.
Để giảm thiểu các sai số khi lấy mẫu này, Lipstein đã cung cấp một số hướng dẫn tổng quát như

sau:
- Dùng mẫu điều tra càng dễ tiến hành điều tra càng tốt.
- Sử dụng phương pháp chọn mẫu thích hợp với đối tượng nghiên cứu.
- Chỉ giới hạn các câu hỏi cần thiết cho những vấn đề chính của cuộc điều tra.
- Kiểm tra trước các câu hỏi.
- Cố gắng giảm thiểu sự mệt mỏi của những người tham gia trả lời.
- Cố gắng xoay quanh các câu hỏi then chốt để phát hiện xem khi nào thì người trả lời bắt đầu
thấy mệt mỏi.
- Thiết lập những cách thức để khiến cả người trả lời và người phỏng vấn tập trung tâm trí của
mình vào cuộc nghiên cứu.
- Khơng đặt câu hỏi khi người được hỏi thật sự không thể trả lời được; không yêu cầu họ
những điều không thể làm được.
CÁC PHƯƠNG PHÁP CHỌN MẪU
Phương pháp chọn mẫu phi xác suất
Chọn mẫu thuận tiện
Theo cách chọn mẫu này, người nghiên cứu chọn ra các đơn vị lấy mẫu dựa vào “sự thuận tiện”
hay “tính dễ tiếp cận”. Với phương pháp chọn mẫu thuận tiện, rất khó xác định tính đại diện
của mẫu. Sự lựa chọn các đơn vị mẫu mang tính chủ quan của người nghiên cứu, vì thế độ
chính xác và độ tin cậy khơng cao, ít được sử dụng rộng rãi.
Chọn mẫu tích lũy nhanh
Theo phương pháp này, những đơn vị lấy mẫu (hay phần tử) ban đầu được lựa chọn bằng cách
sử dụng các phương pháp xác suất, nhưng những đơn vị bổ sung tiếp đó được xác định từ thông
tin được cung cấp bởi các đơn vị lấy mẫu ban đầu (quy nguyên). Dù phương pháp xác suất nào
được sử dụng để lựa chọn những đơn vị lấy mẫu ban đầu, thì tồn bộ mẫu vẫn được coi là mẫu
phi xác suất vì những quy nguyên theo sau được chứa đựng trong mẫu ấy.
Kích thước mẫu và thời gian hao phí giảm đi là những thuận lợi chủ yếu của kỹ thuật lấy mẫu
tích lũy nhanh. Tuy nhiên cách chọn mẫu “nhờ giới thiệu” này có thể có sai lệch vì những
người được giới thiệu ra thường có một số đặc điểm tương đồng về nhân khẩu học hay tâm lý,
84



sở thích. Do đó, phương pháp này chỉ được sử dụng khi các phần tử mà chúng ta muốn nghiên
cứu rất khó tìm.
Chọn mẫu phán đốn
Theo phương pháp chọn mẫu phán đoán, những đơn vị của mẫu được chọn dựa vào điều mà
nhà chun mơn suy nghĩ có thể thỏa mãn một tiêu chuẩn nào đó. Có hai hình thức lựa chọn
phán đoán: lấy mẫu theo dư luận và phán đoán thống kê.
Chọn mẫu kiểm tra tỷ lệ
Chọn mẫu kiểm tra tỷ lệ là phương pháp chọn mẫu mà trong đó người nghiên cứu cố gắng bảo
đảm mẫu được lựa chọn có một tỷ lệ tương ứng với tỷ lệ tổng thể theo các tham số quan trọng
nào đó (tuổi tác, giới tính, nghề nghiệp...). Các phần tử trong mẫu cũng được chọn theo chủ ý
của người nghiên cứu chứ không phải dựa vào quy luật ngẫu nhiên. Chẳng hạn, nếu xác định
kích thước mẫu cần điều tra là 100, và giới tính là một tham số quan trọng đối với nội dung
điều tra (chẳng hạn việc sử dụng kẹo sơcola); khi đó, nếu biết được tỷ lệ giới tính nữ - nam của
tổng thể là 51:49 (tỷ lệ bách phân) thì mẫu được chọn sẽ có 51 nữ và 49 nam. Đây là một ví dụ
đơn giản; trong thực tế, tùy thuộc nội dung điều tra, người ta xác định tỷ lệ theo nhiều tham số:
tuổi tác - giới tính - thu nhập...
Phương pháp chọn mẫu xác suất
Phương pháp chọn mẫu xác suất thực hiện việc chọn các phần tử của mẫu dựa trên việc sử dụng
các quy luật phân phối xác suất trong thống kê toán. Tuy nhiên, trong phần này do đối tượng
nghiên cứu của môn học nên khơng trình bày tỉ mỉ như trong thống kê học, mà chủ yếu giới
thiệu phương pháp để trên cơ sở đó có thể lựa chọn phương pháp chọn mẫu thích hợp cho từng
mục tiêu nghiên cứu marketing.
Chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản
Chọn mẫu ngẫu nhiên là một quá trình chọn lựa mẫu sao cho mỗi đơn vị lấy mẫu trong cấu trúc
có một cơ hội hiện diện trong mẫu bằng nhau.
Chọn mẫu ngẫu nhiên có hai loại: chọn mẫu ngẫu nhiên có sự thay thế hoặc là khơng có sự thay
thế. Trong lấy mẫu ngẫu nhiên có sự thay thế thì một phần tử đã được chọn ln ln được thay
thế trước khi thực hiện sự lựa chọn kế tiếp. Cách này có khả năng lấy trên cùng một cá thể
nhiều lần. Do vậy, trong nghiên cứu marketing, lấy mẫu ngẫu nhiên không thay thế được sử

dụng chủ yếu.
Ưu điểm của phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản là dễ hiểu, dễ thực hiện; trung bình
mẫu là một sự tính tốn khách quan của trung bình tổng thể nghiên cứu; phương pháp tính tốn
đơn giản, dễ dàng.
Nhược điểm của phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên:
- Trong nhiều trường hợp, sự biến thiên của tổng thể nghiên cứu rất rời rạc và khơng theo quy
tắc, thì lấy mẫu ngẫu nhiên khơng được dùng đến vì nó kém chính xác; mẫu có thể khơng
mang tính đại diện, hoặc bị lệch.
- Để lựa chọn các phần tử, cần phải đánh dấu và lập danh sách tòan bộ tổng thể để sử dụng
bảng số ngẫu nhiên, bốc thăm, quay số,... công việc này khó thực hiện được khi tổng thể là
qúa lớn.
- Mẫu được chọn có thể bị phân tán, do vậy tốn kém chi phí và khó khăn trong đi lại khi thu
thập dữ liệu.
85


Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản được áp dụng có kết quả khi tổng thể nghiên cứu
khơng phân tán quá rộng về mặt địa lý; các phần tử trong tổng thể có khá nhiều sự đồng nhất về
đặc điểm muốn nghiên cứu.
Chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng
Khi tổng thể nghiên cứu được cấu tạo bởi nhiều tập hợp không đồng nhất liên quan đến những
đặc điểm nghiên cứu, để thực hiện lấy mẫu cần phải phân tầng tổng thể nghiên cứu thành từng
nhóm có những đặc điểm tương đồng. Lấy mẫu phân tầng là chọn một mẫu ngẫu nhiên đơn
giản từ mỗi nhóm trong tổng thể nghiên cứu.
Tùy theo đặc điểm nghiên cứu, tổng thể có thể được phân tầng theo nhiều tiêu thức khác nhau;
và có thể phân tầng một cấp (một tiêu thức) hoặc nhiều cấp (nhiều tiêu thức); và khi chọn mẫu
ngẫu nhiên phân tầng có thể theo tỷ lệ (tỷ lệ mẫu tương ứng với tỷ lệ tổng thể) hoặc không theo
tỷ lệ.
Ưu điểm của phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng: sự phân nhóm có thể làm gia tăng
mức độ chính xác của việc đánh giá các đặc điểm tổng thể nghiên cứu; thực hiện thuận tiện,

phân tích số liệu khá tồn diện.
Nhược điểm của phương pháp này là cần phải lập danh sách các đơn vị lấy mẫu theo từng nhóm;
tốn kém chi phíđi lại, đặc biệt khi tổng thể nghiên cứu trải rộng trên một vùng địa lý rộng lớn.
Với những ưu điểm và nhược điểm trên, phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên phân tầng thường
được áp dụng khi tổng thể nghiên cứu có sự phân bố của đặc điểm nghiên cứu rất rời rạc, hay
tập trung trên những điểm nhỏ bị phân tán của tổng thể.
Chọn mẫu có hệ thống
Chọn mẫu có hệ thống với sự bắt đầu ngẫu nhiên là một phương pháp chọn mẫu được tiến hành
bằng cách lấy từng đơn vị thứ k từ một tổng thể nghiên cứu có thứ tự. Đơn vị đầu tiên được
chọn một cách ngẫu nhiên, k được gọi là khoảng cách lấy mẫu, số nghịch đảo 1/k là tỷ lệ lấy
mẫu.
Ưu điểm của phương pháp chọn mẫu có hệ thống là mẫu được thiết lập dễ dàng, dễ thực hiện
trên hiện trường (điều tra theo đường phố), mẫu được phân tán đều khắp tổng thể nghiên cứu và
kết quả tính tốn chính xác hơn so với lấy mẫu ngẫu nhiên đơn giản.
Nhược điểm của phương pháp chọn mẫu này là: có thể một mẫu được lấy chỉ bao gồm những
đơn vị có cùng một dạng, và cần thiết phải có danh sách các đơn vị lấy mẫu theo thứ tự.
Vì thế phương pháp chọn mẫu có hệ thống thường được áp dụng khi thứ tự của các đơn vị lấy
mẫu là ngẫu nhiên, gần như có sự phân nhóm trong tổng thể nghiên cứu.
Chọn mẫu theo cụm
Chọn mẫu theo cụm là phương pháp chọn mẫu được tiến hành bằng cách lấy những nhóm riêng
biệt hoặc những cụm của những đơn vị nhỏ hơn. Những cụm của mẫu có thể được chọn bằng
cách lấy mẫu ngẫu nhiên hay lấy mẫu có hệ thống với một sự khởi đầu ngẫu nhiên.
Tương tự với nhóm trong lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng, các cụm là các nhóm phụ riêng biệt
với nhau cùng tạo nên tổng thể nghiên cứu. Tuy nhiên, không giống như nhóm, các cụm được
tạo nên bởi những phần tử dị biệt, khơng đồng nhất, miễn sao mỗi nhóm sẽ là đặc trưng của
tổng thể nghiên cứu. Ví dụ, nghiên cứu về sinh viên trong một trường đại học, thay vì chọn các
phần tử là sinh viên theo kích thước mẫu, có thể chọn đơn vị lấy mẫu là lớp; do vậy không cần
phải lập danh sách sinh viên, mà lập danh sách các lớp. Khi thực hiện điều tra, thì tất cả sinh
viên trong một lớp được chọn đều được tiếp xúc.
86



Ưu điểm của phương pháp chọn mẫu theo cụm là không cần thiết phải xây dựng một danh sách
tất cả các phần tử trong tổng thể nghiên cứu, mà cấu trúc đối với lấy mẫu theo cụm là một danh
sách các cụm. Ngay cả khi danh sách các phần tử đã có sẵn, việc lấy mẫu theo cụm vẫn ít tốn
kém hơn về chi phí.
Nhược điểm của phương pháp này là ở chỗ trong thực tế, lấy mẫu theo cụm không hiệu quả
bằng lấy mẫu ngẫu nhiên hay phân tầng. Chẳng hạn, những hộ gần kề nhau thường có đặc điểm
tương tự nhau hơn những hộ riêng biệt. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tính đại điện của mẫu, và
được thể hiện qua sai số chọn mẫu tăng.
Phương pháp chọn mẫu theo cụm được áp dụng khi danh sách đầy đủ các phần tử trong tổng
thể nghiên cứu khơng có sẵn, hoặc khi chi phí điều tra thấp được xem là quan trọng hơn so với
yêu cầu về sự chính xác.
Chọn mẫu nhiều giai đoạn
Việc chọn mẫu được thực hiện qua hai hay nhiều giai đoạn. Trước hết, tổng thể nghiên cứu
được phân ra thành những đơn vị của giai đoạn đầu tiên, từ đó tiến hành chọn mẫu, và sau đó
có thể tăng thêm nhiều giai đoạn qua việc phân chia tổng thể nghiên cứu thành nhiều cấp bậc
của những đơn vị lấy mẫu tương ứng với mỗi giai đoạn lấy mẫu khác nhau.
Ví dụ: Giả định muốn chọn một mẫu 30 hộ từ một thành phố nào đó, và thành phố được phân
thành 10 khu phố, mỗi một khu phố có 10 hộ. Cách làm như sau:
(1) Đánh số các khu phố từ 1 - 10.
(2) Dùng bảng số ngẫu nhiên lấy 5 số ngẫu nhiên; tương ứng là các khu phố được chọn.
(3) Đánh số thứ tự các hộ, liên tục từ 1 đến 10 trong cấu trúc của các khu phố được chọn.
(4) Lấy 5 nhóm số ngẫu nhiên, với mỗi nhóm gồm 6 số trong từng khu phố được chọn.
(5) Chọn 6 hộ theo nhóm số ngẫu nhiên ban đầu; sau đó chọn 6 hộ ở nhóm số ngẫu nhiên tiếp
theo ...đến khi đủ 30.
Ưu điểm của phương pháp lấy mẫu này là có tính hiệu quả và linh hoạt hơn lấy mẫu một giai
đoạn. Ngoại trừ những đơn vị của giai đoạn thứ nhất, cấu trúc mẫu chỉ yêu cầu đối với những
đơn vị đã chọn để lấy những đơn vị phụ.
Nhược điểm: Lý thuyết phức tạp khi áp dụng trên hiện trường; qui trình tính tốn khó khăn cho

những người khơng phải là chuyên viên thống kê.
Phương pháp lấy mẫu theo nhiều giai đoạn được áp dụng khi danh sách của các đơn vị lấy mẫu
khơng có sẵn, tổng thể nghiên cứu trải rộng trên vùng rộng lớn.
Những lưu ý đối với việc chọn mẫu
Hiệu quả lấy mẫu
Một mẫu được coi là có hiệu quả thống kê hơn một mẫu khác (theo phương pháp chọn mẫu
khác nhau) khi có cùng một kích thước mẫu nhưng sai số trung bình nhỏ hơn. Nói cách khác,
một mẫu có hiệu quả thống kê hơn, khi ở mức chính xác đã cho (sai số tiêu chuẩn) thì có kích
thước mẫu nhỏ hơn.
Một mẫu được coi là có hiệu quả kinh tế hơn mẫu khác, khi với một độ chính xác mong muốn,
phí tổn điều tra là thấp hơn. Một cách lý tưởng, người nghiên cứu luôn muốn đạt được độ chính
xác cao với một phí tổn thấp. Tuy nhiên, trên thực tế, sự chính xác có liên quan kích thước mẫu,
nghĩa là sự chính xác càng lớn thì phí tổn càng cao.
87


Kích thước mẫu trong chọn mẫu phi xác suất
Quyết định về kích thước mẫu trong chọn mẫu phi xác suất thường được xác định một cách chủ
quan chứ không dựa theo cơng thức tính tốn như chọn mẫu xác suất. Người nghiên cứu quyết
định kích thước mẫu mà theo cảm tính của họ là đại diện cho tổng thể. Trong nhiều cuộc nghiên
cứu, sự hạn chế về tài chính là yếu tố quan trọng nhất đối với việc xác định kích thước mẫu
thích hợp.
Khảo sát một tham số và khảo sát nhiều tham số
Khi xác định kích thước mẫu trong phương pháp xác suất, điều quan trọng là lựa chọn tham số
nào để tính tốn, bởi vì kích thước mẫu được xác định theo tham số này chưa chắc chắn là phù
hợp với tham số khác.
Trên thực tế, khi sử dụng bản câu hỏi, người nghiên cứu thường chọn một vấn đề mà họ cho là
quan trọng nhất (vấn đề then chốt của cuộc nghiên cứu), và dựa trên vấn đề đó, sẽ xác định kích
thước mẫu tương xứng.
Vấn đề về tỷ lệ trả lời

Hiếm có một cuộc điều tra nào mà số lượng bản câu hỏi gửi đi (theo kích thước mẫu được
chọn) bằng với số lượng bản câu hỏi thu về, tức là tỷ lệ không trả lời ln ln tồn tại, và do
vậy sẽ làm giảm kích thước mẫu, tương ứng là sai số gia tăng. Sự khơng trả lời có thể do là bản
câu hỏi khơng đến được nơi nhận hoặc người nhận được bảng câu hỏi từ chối trả lời. Chính vì
thế, các nỗ lực nhằm gia tăng tỷ lệ trả lời luôn là vấn đề quan trọng để giảm bớt sai số do không
trả lời. Sau đây là một số giải pháp nhằm cố gắng gia tăng tỷ lệ trả lời:
- Gửi thư trước để thông báo cho người phỏng vấn và đề nghị họ hợp tác.
- Khi gửi thư, cần lưu ý hình thức và chất lượng bao thư, tem.
- Sự động viên bằng tiền hoặc tặng phẩm sẽ làm gia tăng tỷ lệ trả lời.
- Đối với các vấn đề riêng tư cần đảm bảo việc dấu tên hay giữ bí mật.
- Nên có những cuộc tiếp xúc sau khi người trả lời đã nhận được bản câu hỏi.
- Huấn luyện, tuyển chọn nhân viên phỏng vấn kỹ lưỡng sẽ góp phần tăng hiệu quả tiếp xúc.
TỔ CHỨC THU THẬP DỮ LIỆU
Sau khi lập kế hoạch thu thập dữ liệu và chọn mẫu nghiên cứu hoàn tất, việc thu thập dữ liệu
bắt đầu. Trong giai đoạn thu thập dữ liệu cần đạt được hai mục tiêu:
- Phải tối đa hóa việc thu thập dữ liệu từ các đối tượng được hỏi ý kiến.
- Cố gắng giảm đến mức tối thiểu những sai sót thuộc nhiều đối tượng khác nhau.
Để đạt được những mục tiêu trên, người nghiên cứu phải ln đối phó với ba vấn đề sau:
- Thời gian: Thời gian để tiến hành thu thập dữ liệu luôn bị hạn chế và chi phối đến khả năng
tiếp xúc được các đối tượng cần hỏi ý kiến.
- Ngân sách: Chi phí có thể không đủ để trang trải hoặc bị cắt giảm nên khó có thể thực hiện
được cơng việc một cách đầy đủ theo ý muốn.
- Môi trường thu thập dữ liệu: Con người rất khác nhau về trí nhớ, động cơ hành động, mức độ
tích cực, sự tự cao và sự nghi ngờ. Tất cả các biến số kể trên đều có thể làm giảm tính chính
xác của những thơng tin thu thập được.
Trong phần này, chúng ta sẽ đề cập đến công tác thu thập dữ liệu tại hiện trường.
88


Tổ chức thu thập dữ liệu tại hiện trường

Có nhiều cách để thu thập dữ liệu ban đầu như đã được trình bày trong chương III, phần này tập
trung vào việc phác thảo quy trình thực hiện một phương pháp thu thập dữ liệu đã được quyết
định lựa chọn trong dự án nghiên cứu.
Quan sát
Chương trình quan sát:
Chương trình quan sát có thể được xác định chi tiết gồm việc trả lời các câu hỏi sau:
- Ai? Nhà nghiên cứu phải cung cấp những đặc điểm để có thể xác định đối tượng quan sát.
- Cái gì? Xác định các chi tiết cơ bản để quan sát viên biết phải ghi chép điều gì.
- Khi nào? Thời gian được chỉ định để quan sát. Quan sát vào một ngày hay một tuần đặc biệt,
quan sát trong một khoảng thời gian nhất định (ví dụ một giờ quan sát 30 phút).
- Ở đâu? Quan sát viên phải được biết cần quan sát ở đâu, địa chỉ, địa điểm quan sát.
- Cách nào? Cách hành động để quan sát đối tượng, có thể cho biết hay không cho biết sự hiện
diện của quan sát viên.
Phỏng vấn cá nhân trực tiếp
Phỏng vấn cá nhân trực tiếp là sự tiếp xúc cá nhân qiữa người phỏng vấn và đối tượng phỏng
vấn. Đây là phương pháp thuận lợi nhất để thu thập thông tin, đồng thời cũng là phương pháp
đắt tiền và tốn thời gian, đôi khi dễ phạm sai lầm nhất.
Bản chất của việc phỏng vấn là một tiến trình tiếp xúc giữa hai cá nhân, trong đó một người cố
gắng rút ra những dữ liệu hay phản ứng, quan điểm của một người khác (đối tượng).
Quá trình phỏng vấn cá nhân trực tiếp bao gồm nhiều cơng việc có thể tóm tắt như sau:
- Thực hiện một chương trình mẫu trên một vùng được xác định và gặp gỡ những người được
chọn phỏng vấn.
- Phân phát những bảng câu hỏi phù hợp với bản hướng dẫn.
- Ghi chép những phản ứng của người trả lời một cách chính xác theo những phương thức đã
được hướng dẫn.
- Chuyển dữ liệu thu thập được về trung tâm xem xét và xử lý trong thời gian qui định.
- Hồn thành cơng tác nghiên cứu trên hiện trường theo kinh phí đã cấp.
Phỏng vấn bằng điện thoại
Với phương pháp này, người phỏng vấn và đối tượng chỉ tiếp xúc qua giọng nói. Việc phỏng
vấn qua điện thoại được tiến hành qua các bước công việc như sau:

- Gọi số điện thoại được liệt kê trong chương trình lấy mẫu, tìm gặp người đã được xác định
trong chương trình đó.
- Khi gặp người đó truyền đạt bản câu hỏi kèm với bản hướng dẫn.
- Ghi chép chính xác phản ứng của đối tượng theo cách được trình bày trong bản hướng dẫn.
- Chuyển câu hỏi đã được trả lời hồn tất cho người có trách nhiệm xử lý dữ liệu.

89


Phỏng vấn bằng thư tín
Trong điều tra bằng thư tín, việc tiếp xúc với đối tượng được thực hiện qua bưu điện, không sử
dụng người phỏng vấn - trung gian nên việc truyền thông trực tiếp và đơn giản hơn. Tất cả công
việc được chuyển cho những người ở văn phòng trung tâm và được tiến hành cụ thể như sau:
- Sưu tầm hoặc mua danh sách, địa chỉ của các loại đối tượng cần thiết cư trú trong vùng được
chọn làm mẫu.
- Ghi địa chỉ lên bì thư, bỏ bản câu hỏi và những tài liệu khác vào và gửi cho những người
được chọn để phỏng vấn. Trong một thời gian qui định, với những đối tượng không trả lời thì
gửi thư lần nữa với bản câu hỏi kèm theo và lời yêu cầu gửi thư trả lời.
- Xem xét các bản câu hỏi nhận được và chuẩn bị xử lý dữ liệu.
Sự thành công của việc nghiên cứu bằng thư tín phụ thuộc vào hai yếu tố:
- Bản câu hỏi được soạn thảo và những thông tin hướng dẫn.
- Sự giám sát của nhà nghiên cứu.
Những sai lầm thường xảy ra khi nghiêm cứu thực địa
Hai mục tiêu của nghiên cứu tại hiện trường là khai thác tối đa nguồn dữ liệu thích hợp và giảm
thiểu những sai sót của người phỏng vấn. Trong phần này chúng ta bàn đến những sai lầm có
khả năng xảy ra là việc bóp méo và diễn tả vơ căn cứ những thông tin mà đối tượng đã cung
cấp. Nếu nhà nghiên cứu hiểu biết về những loại sai lầm có thể có ở hiện trường, họ có thể ngăn
ngừa để giảm bớt những sai lầm đó.
Trong nghiên cứu hiện trường thường mắc những sai lầm do những nguyên nhân sau đây:
Sai lầm do lựa chọn đối tượng

Việc lựa chọn thành phần thực hiện mẫu có thể đưa đến 3 loại sai lầm:
- Thu thập thơng tin ở nơi khơng thích hợp.
- Thu thập thơng tin ở những người khơng thích hợp.
- Bỏ qua những thông tin của những người lẽ ra phải được phỏng vấn trong mẫu.
Đối với từng loại thông tin (trực tiếp, qua điện thoại và qua thư tín), khả năng xảy ra các loại sai
lầm này có thể khác nhau:
- Phỏng vấn cá nhân trực tiếp phải đối phó với những sai lầm do phỏng vấn sai chỗ và sai đối
tượng, nhưng loại sai làm này có thể giám sát trong chừng mực nhất định nào đó.
- Phỏng vấn qua điện thoại có nhiều rủi ro do phỏng vấn nhầm người. Cần phải có những câu
hỏi khởi đầu để xác định đúng đối tượng, tuy nhiên việc kiểm tra này khó thực hiện được
trong việc phỏng vấn bằng thư.
Sai lầm do thực hiện không đầy đủ
Sai lầm này phổ biến cả 3 phương pháp nghiên cứu:
- Trong phương pháp thư tín thường có những thư được trả về do khơng có người nhận và điều
này khơng thể sửa được. Trong chừng mực nào đó sai lầm này có thể tránh được bằng cách
loại những địa chỉ lỗi thời ra khỏi danh sách.
- Trong phương pháp phỏng vấn trực tiếp, không thực hiện đầy đủ vẫn xảy ra do người phỏng
vấn bỏ sót một số đơn vị dân cư hoặc cố lãng tránh một số đơn vị khác.
90


- Trong phương pháp điều tra bằng điện thoại, người phỏng vấn có thể khơng tiếp xúc được
với tất cả các đối tượng phỏng vấn qua điện thoại do có một số người khơng có ở nhà và có
những hộ khơng có điện thoại. Khi những người này đóng vai trị quan trọng trong dự án
nghiên cứu thì sai lầm do không thực hiện đầy đủ này trở nên đáng kể, ảnh hưởng đến độ
chính xác của kết quả.
Sai lệch do không trả lời
Không trả lời là những sai lệch thường gặp nhất trong lấy mẫu tại hiện trường. Lý do là:
- Không tiếp xúc được với đối tượng do họ vắng mặt hoặc không nỗ lực tiếp xúc với họ.
- Người được tiếp xúc không cung cấp những thông tin mong muốn.

Do những sai lệch nêu trên nên trong mọi cuộc nghiên cứu việc lấy mẫu chính xác là vấn đề cần
luôn được quan tâm và xem xét cẩn thận.
Với phương pháp phỏng vấn bằng điện thoại thì sai lệch khơng trả lời ít xảy ra và ít phức tạp
hơn, tỷ lệ trả lời thường cao hơn. Còn đối với phương pháp phỏng vấn qua thư, tỷ lệ trả lời
thường rất thấp, khoảng từ 15 - 30% và thông thường thì dữ liệu thu thập được có thể khơng có
tính tiêu biểu và khơng đúng đối tượng (người trả lời thư chưa hẳn là đối tượng mà cuộc phỏng
vấn hướng đến, ví dụ con cái trả lời thay bố, mẹ...)
Các phương pháp nâng cao tỷ lệ trả lời và giảm các sai sót:
- Đối với phỏng vấn cá nhân trực tiếp: Trong phỏng vấn cá nhân trực tiếp thường gặp hai khó
khăn là: tìm địa chỉ và đến nhà người đã chọn mẫu phỏng vấn; và khi đã tìm được, họ có
chấp thuận cho phỏng vấn hay khơng?
Có thể giải quyết bằng hai cách:
+ Gọi điện thoại báo trước: Cách này tốn kém nhưng trong trường hợp phỏng vấn những
nhân vật có vai trị quan trọng đối với cuộc nghiên cứu thì nên làm.
+ Viết thư báo trước cho người sẽ được phỏng vấn về tính chất, tên người phỏng vấn và thời
gian phỏng vấn.
Để được chấp thuận trả lời phỏng vấn, đơn vị tổ chức nghiên cứu có thể sử dụng các thủ
thuật và các biện pháp thích hợp cho từng trường hợp như:
+ Trả tiền cho người được phỏng vấn trong mỗi cuộc phỏng vấn.
+ Điện thoại xin phỏng vấn chỉ một số ít câu hỏi mà thôi. Nếu được đồng ý nhân viên phỏng
vấn đến và có thể hỏi nhiều hơn đã giao hẹn.
+ Gọi điện thoại vào những thời điểm khác nhau trong ngày hoặc xếp lịch phỏng vấn trước
để giảm chi phí.
Khi phỏng vấn chung nhiều người với một mẫu tổng quát, có thể đi đến những nơi có nhiều
người mua sắm và tiến hành phỏng vấn thật nhanh và gọn (không dùng trong trường hợp
phải lấy ý kiến của những khách hàng đặc biệt).
- Đối với phỏng vấn bằng điện thoại:
Phỏng vấn bằng điện thoại gặp khó khăn lớn nhất là những số điện thoại được chọn lại khơng
có trong danh bạ. Phương pháp xử lý trong trường hợp này đơn giản là chọn lại, cũng theo
phương pháp ngẫu nhiên.

- Đối với thăm dò ý kiến bằng thư:
91


Nhược điểm chính của phương pháp này là tỷ lệ khơng hồi đáp cao. Cách khắc phục:
+ Có những nỗ lực theo dõi bằng gửi thư nhắc (từ 2 - 3 lần), gửi thiệp nhắc, hoặc dùng điện
thoại nhắc (cần hết sức tế nhị).
+ Tiến hành thu thập dữ liệu tập trung vào một nhóm người đã có quan hệ với công ty trước,
sẵn sàng hợp tác với công ty.
+ Nếu kết hợp phương pháp khảo sát bằng thư với phương pháp bằng sổ ghi chép thì độ
chính xác sẽ tăng lên.
Những sai sót trong giao tiếp giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn
Trong quá trình hỏi và trả lời, người phỏng vấn đặt câu hỏi và người được phỏng vấn trả lời,
khi đó những sai lầm trong giao tiếp giữa hai bên có thể xảy ra và ảnh hưởng đến tính chính xác
của cuộc điều tra. Những sai sót này bao gồm:
- Nếu khơng có mối quan hệ tốt giữa hai bên, đối tượng phỏng vấn sẽ e dè không trả lời, hoặc
không chú ý đến câu hỏi. Có thể tạo tin tưởng bằng giấy giới thiệu của công ty.
- Nếu hai bên quen biết nhau khá rõ thì người được phỏng vấn sẽ bị ảnh hưởng của người
phỏng vấn và ngược lại, làm giảm tính khách quan của cuộc điều tra.
- Người phỏng vấn không theo sát yêu cầu hướng dẫn của bảng câu hỏi, không giải thích về
tính chất của cuộc điều tra, hoặc có giải thích nhưng khơng chính xác.
- Các câu hỏi có thể bị bỏ bớt vì quá vội hay vì cẩu thả.
- Người được phỏng vấn trả lời không sát với yêu cầu, cung cấp những thông tin không cần
thiết, trả lời không nhất quán hoặc không đủ khả năng để trả lời (khả năng diễn đạt).
Những sai sót trong lúc ghi chép
Trong q trình ghi chép, người phỏng vấn có thể có q ít thời gian hoặc khơng đủ chỗ để ghi
mà phải dùng cách viết tắt hoặc ghi thật nhanh nên đã xảy ra một số sai sót làm ảnh hưởng đến
nội dung của cuộc phỏng vấn. Những sai sót thường gặp là:
- Người phỏng vấn dùng câu trả lời của mình thay cho câu trả lời của người được phỏng vấn
hoặc sửa đổi theo cách nhìn, cách hiểu của mình.

- Đánh dấu sai sót trong các câu hỏi trắc nghiệm.
- Trong những cuộc phỏng vấn có tính cách thân mật phải chờ đến khi kết thúc mới bắt đầu
ghi chép, thì khi đó việc ghi chép rất dễ mắc sai lầm (không thể nhớ hết nội dung).
- Những câu hỏi có nhiều cách trả lời trên điện thoại gây nhiều khó khăn cho việc ghi chép vì
người phỏng vấn vừa phải lôi cuốn sự chú ý của người trả lời vừa phải ghi chép.
Sự giả mạo
- Đôi khi người phỏng vấn đưa ra những câu hỏi giả vờ vì họ thấy rằng người trả lời khơng thể
trả lời hoặc bỏ sót câu hỏi.
- Làm giả cuộc phỏng vấn. Việc làm giả cuộc phỏng vấn thường xảy ra khi người phỏng vấn
phải thu thập dữ liệu tại vùng quá xa xôi mà người tổ chức nghiên cứu không thể giám sát
được. Có thể hạn chế sự giả mạo bằng cách tuyển chọn những người đáng tin cậy và dùng
những phương pháp quản trị hữu hiệu.

92


Quản trị việc thu thập dữ liệu tại hiện trường
Quản trị tốt giữ vai trò quan trọng trong sự thành cơng của cơng tác phỏng vấn. Các chương
trình nghiên cứu sử dụng phương pháp phỏng vấn cá nhân trực tiếp phải được quản lý thật tốt vì
nơi phỏng vấn có thể ở xa, số lượng người phỏng vấn nhiều... do đó có thể làm tăng khả năng
sai lầm và giảm tính hiệu quả.
Việc quản trị thực hiện theo 5 giai đoạn sau:
(1) Khảo sát thử.
(3) Tuyển chọn nhân viên.
(4) Hướng dẫn nhân viên.
(5) Giám sát.
(6) Kiểm tra.
Khảo sát thử
Khảo sát thử là việc áp dụng toàn bộ những phương pháp thu thập dữ liệu đối với một nhóm
người được lựa chọn giống như việc tiến hành một dự án nghiên cứu trong thực tế.

Qua khảo sát thử, người chỉ đạo việc thu thập dữ liệu có thể khám phá ra những điểm cần điều
chỉnh như: việc trình bày mục đích phỏng vấn không rõ ràng, sắp xếp các câu hỏi khơng đúng
thứ tự, dùng những từ khó hiểu, hỏi những câu hỏi khơng có trong bảng câu hỏi, khơng đủ khả
năng kích thích việc trả lời... và tiến hành việc điều chỉnh bằng cách tuyển chọn lại những
người phỏng vấn cho phù hợp với thực tế, loại bỏ những hướng dẫn không rõ ràng và sửa chữa
những khuyết điểm, sai sót khác.
Tuyển chọn nhân viên
Người phỏng vấn được giao nhiệm vụ thu thập dữ liệu nên đòi hỏi họ phải có nghiệp vụ phỏng
vấn vững thì chất lượng, tính chính xác của dữ liệu thu thập mới cao.
Những tiêu chuẩn sau đây cần được xem xét khi tuyển chọn nhân viên phỏng vấn:
(1) Học vấn: Phải đọc và viết khá, có trình độ phổ thơng hoặc đại học.
(2) Giới tính : Nữ được ưu tiên hơn nam. Đa số người phỏng vấn là nữ vì cơng việc phỏng vấn
thường có tính chất khơng thường xun và làm việc ngồi giờ.
(3) Giọng nói: Giọng phải êm nhẹ, dễ nghe khiến người được phỏng vấn cảm thấy dễ chịu lúc
tiếp xúc và làm việc.
(4) Kinh nghiệm: Người có kinh nghiệm được ưu tiên vì làm cơng việc hiệu quả hơn và việc
đào tạo thêm đỡ mất thời gian.
Hướng dẫn nhân viên
Việc hướng dẫn nhân viên nên bao gồm cả lý thuyết và thực hành. Tài liệu phải được viết rõ
ràng, dễ hiểu và thường bao gồm những điểm sau:
- Mục đích của cuộc nghiên cứu (không được cho biết người hoặc cơ quan tài trợ).
- Thời điểm bắt đầu và kết thúc.
- Số lượng người sẽ được phỏng vấn; chọn người ở đâu và cách chọn như thế nào; phải làm gì
để giải quyết những trường hợp người được phỏng vấn không có ở nhà.
- Cách tự giới thiệu và mở đầu cuộc phỏng vấn.
93


- Cách đặt câu hỏi, thứ tự câu hỏi.
- Phương pháp gợi ý và cách ghi nhớ.

- Cách xác định nội dung chính,những điểm cần quan tâm của một vấn đề.
- Cách nghiên cứu và sửa đổi một bảng câu hỏi trước khi nộp.
- Xử lý một bảng câu hỏi đã được trả lời.
- Khi nào người được phỏng vấn được trả lương, bao nhiêu?
- Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng cơng việc.
Qua q trình huấn luyện, học viên sẽ được cung cấp những kiến thức và kỹ năng cần thiết. 4
phương pháp sau thường được các tổ chức sử dụng để huấn luyện nhân viên phỏng vấn:
- (1) Dùng tài liệu viết, sổ tay hướng dẫn.
- (2) Dùng các bài nói chuyện và các buổi phỏng vấn làm mẫu.
- (3) Thực tập trên lớp: Học viên thay nhau đóng vai trò người phỏng vấn và người trả lời.
- (4) Thực tập thực tế: Đây là giai đoạn giúp người học viên làm quen với cộng việc cụ thể từ
cách gõ cửa đến cách rời nhà sau khi phỏng vấn.
Tổ chức huấn luyện trực tiếp tập trung là cách lý tưởng nhất, tuy nhiên trong một số trường hợp
có thể huấn luyện theo lối hàm thụ, hoặc không cần huấn luyện trực tiếp (cơng việc khơng có gì
mới và người phỏng vấn đã có kinh nghiệm). Trong thực tế thường áp dụng cả hai phương
pháp. Thời gian huấn luyện thường thay đổi tùy theo từng dự án, có thể từ một vài giờ đến một
vài ngày.
Để đơn giản hóa quá trình thực hiện, trong quá trình thực hiện, chúng ta có thể áp dụng một số
biện pháp sau đây:
- (1) Người phỏng vấn có thể được trang bị thêm các bản giải thích, bản giới thiệu... Các tài
liệu trên cùng với các biểu đồ, tranh ảnh, bản trắc nghiệm, các yêu cầu phải được trả lời sẽ
được trao cho người đi phỏng vấn.
- (2) Người đi phỏng vấn không cần đặt câu hỏi bằng lời mà chỉ đưa bản câu hỏi in sẵn để
người được phỏng vấn điền vào. Có thể đợi lấy hoặc trở lại nhận bản trả lời sau một thời gian
nào đó.
- (3) Dùng băng ghi âm để giảm nhẹ công việc cho người phỏng vấn và làm cho việc ghi nhận
chính xác hơn, đặc biệt là trong những cuộc phỏng vấn có tính chun mơn cao.
- (4) Hẹn trước bằng điện thoại trước khi đến nhà phỏng vấn.
- (5) Để tăng tính chính xác có thể áp dụng nhiều cách khác nhau để cải tiến cách soạn thảo
các câu hỏi làm cho người đọc dể hiểu hơn.

Tóm lại, khóa huấn luyện phải cung cấp cho học viên tất cả các kỹ năng, kiến thức có liên quan
đến cơng việc, làm cho họ hiểu rõ mục đích của cuộc phỏng vấn và cách để giải quyết những
tình huống bất ngờ.
Giám sát - Kiểm tra
Nhiệm vụ của những nhân viên giám sát:
- Huấn luyện, giúp đỡ, quan sát cơng việc.
- Sắp đặt chương trình và có thể lập bảng địa chỉ đến phỏng vấn.
94


- Mượn một số nhân viên phỏng vấn ở địa phương làm giúp nếu ở xa văn phòng trung tâm.
Người giám sát phải liên lạc thường xuyên với nhân viên phỏng vấn đang làm việc ở các địa
phương khác nhau, đồng thời phải báo cáo với công ty. Nhiệm vụ quan trọng nhất của công tác
giám sát là thu thập được những thông tin cần thiết để đánh giá việc hoạt động của nhân viên
phỏng vấn.
Đánh giá nhân viên phỏng vấn:
Nhân viên phỏng vấn có thể được đánh giá theo một số tiêu thức sau đây:
- Chi phí: Chi phí bao gồm thời gian (dùng để phỏng vấn, đi lại, giải quyết những cơng việc
hành chính), năng suất (được đánh giá qua một số lượng các cuộc phỏng vấn hoàn tất) và
cước phí đi đường.
- Tỷ lệ trả lời: Việc đánh giá tỷ lệ trả lời phải được thực hiện kịp thời, đúng lúc để có thể đề ra
các biện pháp sửa chữa kịp thời, thích hợp, do đó các bản báo cáo định kỳ về tỷ lệ từ chối là
rất quan trọng. Trong trường hợp một số người từ chối quá mức qui định, người giám sát
phải góp ý cho nhân viên ngay lập tức.
Phương pháp giám sát :
Trong phỏng vấn tại hiện trường, có 2 phương pháp để giám sát:
- Cùng đi với nhân viên phỏng vấn và quan sát.
- Nghe một số nhân viên phỏng vấn giới thiệu mở đầu.
Trong hai trường hợp trên, người giám sát có thể đưa ra những gợi ý để giải quyết các khó khăn
khi chúng xuất hiện.

- Chất lượng dữ liệu: Đánh giá chất lượng dữ liệu thông qua các yếu tố: dễ đọc, theo đúng
hướng dẫn, ghi đúng những gì người được phỏng vấn trả lời và tóm tắt nội dung, ghi chép
đầy đủ giúp cho việc mã hóa được dễ dàng.
- Chất lượng cuộc phỏng vấn: Để biết cách nhân viên phỏng vấn thu thập dữ liệu, người giám
sát phải trực tiếp quan sát quá trình phỏng vấn và chú ý đến những điểm sau đây:
+ Giới thiệu thích hợp.
+ Hỏi câu hỏi chính xác.
+ Cách gợi ý trả lời tế nhị.
+ Mối quan hệ giữa hai bên.
TÓM TẮT
Để nghiên cứu các đặc điểm của một tổng thể, người ta có thể thực hiện điều tra tồn bộ. Tuy
nhiên ngân sách và thời gian thường có hạn, qui mơ tổng thể lại thường lớn nên thích hợp hơn
là sử dụng một mẫu để điều tra.
Trong lấy mẫu người ta phân biệt giữa các kỹ thuật lấy mẫu theo phương pháp xác suất và các
kỹ thuật lấy mẫu theo phương pháp phi xác suất. Các kỹ thuật lấy mẫu theo phương pháp phi
xác suất dựa vào sự phán đoán của nhà nghiên cứu, những ước lượng không được dùng suy ra
cho tổng thể. Các kỹ thuật lấy mẫu phi xác suất thường dùng là lấy mẫu tiện lợi, lấy mẫu theo
phán đốn, lấy mẫu tích luỹ nhanh và lấy mẫu kiểm tra tỷ lệ. Trong phương pháp lấy mẫu xác
suất, các đơn vị điều tra được chọn ngẫu nhiên. Lấy mẫu theo phương pháp này, các ước lượng
95


có thể suy diễn thống kê cho tổng thể. Các kỹ thuật lấy mẫu phi xác suất bao gồm lấy mẫu
ngẫu nhiên đơn giản, lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng, lấy mẫu hệ thống, lấy mẫu theo cụm, chọn
mẫu nhiều giai đoạn.
Để có được kết quả cao trong nghiên cứu marketing, vấn đề đặt ra cho người làm công tác
nghiên cứu marketing là làm sao giảm thiểu những sai sót gặp phải trong thu thập dữ liệu tại
hiện trường, tạo điều kiện cho việc xử lý cũng như tối đa hóa thơng tin thu thập được. Để làm
được điều đó, địi hỏi phải thiết kế chương trình thu thập thơng tin một cách đầy đủ và khả thi.
Quá trình thu thập dữ liệu tại hiện trường có thể tạo ra những sai số trong nghiên cứu là do: lựa

chọn sai đối tượng; không thực hiện được đầy đủ; không trả lời; sai sót do q trình giao tiếp
giữa người phỏng vấn và người được phỏng vấn; sai sót xảy ra do ghi chép. Cần phải có các
biện pháp để giảm bớt những sai sót khi thực hiện thu thập dữ liệu do từ phí người trả lời như
gọi điện, viết thư báo trước, trả tiền, tặng quà cho người được phỏng vấn...để tránh những sức
ép tâm tâm lý hoặc kích thích sự hứng thú khi tham gia phỏng vấn.
Sự thành cơng của của việc thu thập dữ liệu cịn liên quan đến xác định đúng đối tượng hỏi và
đảm bảo chất lượng người phỏng vấn nên quản trị tốt thu thập dữ liệu là một công việc quan
trọng nhằm giảm thiểu những sai lầm và tăng tính hiệu quả trong công tác thu thập. Quản trị thu
thập dữ liệu bao gồm các nội dung: khảo sát thử (khám phá những điều cần điều chỉnh và điều
chỉnh thích hợp, loại bỏ những sai sót), đơn giản hóa thủ tục làm việc, tuyển mộ nhân viên
(người nhân viên phải có trình độ tay nghề, có một số khả năng riêng phù hợp với công tác thu
thập thông tin), hướng dẫn nhân viên (cả lý thuyết và thực hành), giám sát, kiểm tra quá trình
thực hiện.
CÂU HỎI
1. Tại sao phải thực hiện điều tra theo mẫu mà khơng điều tra tồn bộ tổng thể?
2. Những kỹ thuật lấy mẫu xác suất và phi xác suất?
3. Các loại sai số thường gặp trong nghiên cứu? Mơ tả những lý do chính của sai số liên quan
đến thu thập dữ liệu tại hiện trường?
4. Làm thế nào để hạn chế được sai số liên quan đến thu thập dữ liệu tại hiện trường?
5. Kênh truyền hình VTV3 muốn biết được đánh giá của khán giả đối với các chương trình
của kênh. Hãy cho biết tổng thể của nghiên cứu này? Kỹ thuật lấy mẫu nào sẽ được chọn?
6. Một cửa hàng dụng cụ thể thao cao cấp muốn biết thái độ của khách hàng về sản phẩm và
dịch vụ khách hàng của họ. Hãy cho biết tổng thể của nghiên cứu này? Kỹ thuật lấy mẫu nào sẽ
được chọn?
7. Các nguyên nhân gây sai lầm trong nghiên cứu thực địa và những phương pháp khắc phục
các sai lầm đó.
8. Tại sao cần phải quản trị việc thu thập dữ liệu tại hiện trường.
9. Người phỏng vấn phải có được những tiêu chuẩn nào?
10. Hãy soạn thảo một vài chỉ dẫn liên quan đến vấn đề thực hiện thu thập dữ liệu thực địa cho
nhóm sinh viên thực hiện một nghiên cứu bằng cách phỏng vấn cá nhân tại nhà.


96


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Donald H. Sanders, Statistics: A First Course (New York: McGraw Hill, 1995), 173.
Adamantios Diamantopoulos and Bodo B. Schlegelmilch, Taking the Fear Out of Data Analysis
(London: The Dryden Press, 1997), 120–121.
P.J. Lavrakas, “Telephone survey methods: Sampling, selection, and supervision,” Applied Social
Research Method Series, vol. 7 (Newbury Park, Calif.: Sage, 1987).
Shiraz Mishra, David Dooley, Ralph Catalano, and Seth Serxner, “Telephone health surveys: Potential
bias from
noncompletion,” American Journal of Public Health, vol. 83, no. 1 (January, 1993): 94–99.
Thomas T. Semon, “A good sample of accounts may not always be a good sample of your customers,”
Marketing News (April 25, 1994): 8.
Barbara A. Bailar, “Does sampling work?” Business Economics, vol. 32, no. 1 (January, 1997): 47–53.
Niels Schillewaert, Fred Langerak, and Tim Duhamel, “Non-probability sampling for WWW surveys: A
comparison of methods,” Journal of the Market Research Society, vol. 40, no. 4 (October, 1998):
307–322.

97



×