Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

THỰC TRẠNG hội NHẬP KINH tế QUỐC tế ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.86 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
------------------------------

BÀI TẬP LỚN:
KINH TẾ CHÍNH TRỊ MÁC-LENIN
THỰC TRẠNG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM HIỆN
NAY

Hà Nội, 2021


MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................3
PHẦN I: LÝ THUYẾT VỀ VẤN ĐỀ................................................................5
PHẦN II: GIẢI THÍCH THỰC TRẠNG.........................................................7
1

Yêu cầu hội nhập quốc tế:..........................................................................7

2

Các vấn đề liên quan:.................................................................................8

3

Được và mất bởi “hội nhập kinh tế quốc tế”:.........................................11

4

Giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế:.........................................13


PHẦN III: KẾT LUẬN....................................................................................14
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................15

2


ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, tồn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội và do đó đã trở
thành môi trường của các cuộc cạnh tranh gay gắt giữa các nước trên phạm vi
toàn thể giới. Tuy thế, giữa các nước và các bộ phận xã hội ở mỗi nước vẫn
đang tồn tại sự khác biệt đáng kể về nhận thức cũng như trong hành động trước
tồn cầu hóa. Những nước và các nhóm xã hội yếu thể thường bị thua thiệt do
tác động từ những mặt trái của tồn cầu hóa và ln phản đối nó hoặc trong tâm
thể thích ứng bị động. Trong khi đó, những nước và những người có sức mạnh
chi phối tồn cầu hóa lại coi nó là cơ hội mang lại sự tiến bộ cho mình và ra sức
tận dụng những mặt tích cực của nó. Nước ta đang quá độ lên chủ nghĩa xã hội
trong điều kiện kinh tế nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến năng suất
lao động chưa cao, hiệu quả kinh tế thấp. Bên cạnh đó cịn chịu ảnh hưởng nặng
nề của chiến tranh. Điều đó chính làm cho nguyên nhân làm cho kinh tế nước ta
chậm phát triển hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đứng trước
tình hình đó địi hỏi đảng phải đề ra đường lối chính sách đường lối đổi mới
nhằm đưa đất nước ta phát triển về mọi mặt mà trọng tâm là chuyển nền kinh tế
Việt Nam sang kinh tế thị trường, mở cửa hội nhập kinh tế khu vực và toàn cầu.
Tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng cộng sản Việt Nam
(tháng 12 năm 1986) đã khởi xướng công cuộc đổi mới mà một trong những
định hướng quan trọng là mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế. Quán triệt quan
điểm đó đại hội lần thứ VII (1992) và lần thứ VIII (1996) tiếp tục phát triển
đường lối đối ngoại độc lập tự chủ đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ
quốc tế theo tinh thần:"Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng
đồng thế giới phấn đấu vì hồ bình độc lập và phát triển". Trải qua 17 năm thực

hiện đường lối mở cửa, đổi mới và hội nhập với nền kinh tế khu vực và toàn
cầu, Việt Nam đã thiết lập các quan hệ thương mại, đầu tư, dịch vụ và khoa học
kỹ thuật với tất cả các nước, tích cực tham gia vào các tổ chức, diễn đàn kinh tế

3


thế giới và khu vực. Vì vậy, vấn đề nâng cao khả năng hội nhập của nền kinh tế
nước ta hiện nay đang là vấn đề lý luận và thực tiễn nóng bỏng.
Đây là một xu hướng khách quan tác động một cách tồn diện đến mọi
dân

tộc khơng có ngoại lệ, nó đặt mỗi quốc gia trước những thời cơ và cả

những thách thức to lớn. Do đó việc nghiên cứu tìm hiểu tồn cầu hố một cách
sâu sắc, tồn diện, đặc biệt là những tác động của nó đến đời sống kinh tế -chính
trị để có đối sách thích hợp là nhiệm vụ trọng đại của mọi quốc gia trong những
thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Thông qua những tài liệu tham khảo cùng với những kiến thức đã được
lĩnh hội trong nhà trường, trong khuôn khổ bài tiểu luận của mình, em xin phép
được trình bày quan điểm cá nhân về đề tài:“Thực trạng hội nhập kinh tế quốc
tế ở Việt Nam hiện nay”.

4


PHẦN I: LÝ THUYẾT VỀ VẤN ĐỀ
Có thể hiểu, hội nhập kinh tế quốc tế của một quốc gia là q trình quốc
gia đó thực hiện gắn kết nền kinh tế của mình với nền kinh tế thế giới dựa trên
sự chia sẻ lợi ích đồng thời tuân thủ các chuẩn mực quốc tế chung.

Hội nhập kinh tế quốc tế là điều cẩn thiết bởi do xu thế khách quan trong
bối cảnh tồn cầu hóa kinh tế, đây là q trình tạo ra liên kết và sự phụ thuộc lẫn
nhau ngảy cảng tăng giữa các quốc gia trên quy mô tồn cầu diễn ra trên nhiều
phương diện: kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội v.v...trong đó, tồn cầu hố kinh
tế là xu thế nổi trội nhất, nó vừa là trung tâm vừa là cơ sở và cũng là động lực
thúc đẩy tồn cầu hố các lĩnh vực khác, tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới
thống nhất.
Trong tồn cầu hóa kinh tế, các yếu tố sản xuất được lưu thông trên phạm
vi tồn cầu. Do đó, nếu khơng hội nhập kinh tế quốc tế, các nước không thể tự
đảm bảo được các điều kiện cần thiết cho sản xuất trong nước. Hội nhập kinh tế
quốc tế tạo ra cơ hội để các quốc gia giải quyết những vấn đề toàn cầu đã và
đang xuất hiện ngày càng nhiều, tận dụng được các thành tựu của cách mạng
cơng nghiệp, biến nó thành động lực cho sự phát triển.
Hơn thế nữa, hội nhập kinh tế quốc tế là phương thức phát triển phổ biến
của các nước, nhất là các nước đang và kém phát triển trong điều kiện hiện nay.
Đối với các nước đang và kém phát triển thì hội nhập kinh tế quốc tế là cơ hội
để tiếp cận và sử dụng được các nguồn lực bên ngồi như tài chính, khoa học
cơng nghệ, kinh nghiệm của các nước khác cho phát triển của mình. Khi mà các
nước tư bản giàu có nhất, các công ty xuyên quốc gia đang nắm trong tay những
nguồn lực vật chất và phương tiện hùng mạnh nhất để tác động lên tồn thế giới
thì chỉ có phát triển kinh tế mở và hội nhập quốc tế, các nước đang và kém phát
triển mới có thể tiếp cận được nhưng năng lực này cho phát triển của mình. Đây
là con đường có thể giúp cho các nước đang và kém phát triển có thể tận dụng
5


thời cơ phát triển rút ngắn, thu hẹp khoảng cách với các nước tiên tiến, trong đó
có Việt Nam.
Khơng chỉ vậy, hội nhập kinh tế quốc tế giúp mở cửa thị trường, thu hút

vốn, thúc đẩy cơng nghiệp hố, tăng tích luỹ; tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới
và nâng cao mức thu nhập tương đối của các tầng lớp dân cư.
Hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gia tăng sự liên hệ giữa nền kinh tế
nước nhà với nền kinh tế thế giới. Do đó, một mặt, quá trình hội nhập sẽ tạo ra
nhiều tác động tích cực đối với q trình phát triển của Việt Nam, mặt khác
cũng đồng thời đưa đến nhiều thách thức địi hỏi phải vượt qua mới có thể thu
được những lợi ích to lớn từ q trình hội nhập kinh tế thế giới đem lại. Những
hậu quả có thể kể đến như làm gia tăng sự cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh
nghiệp và ngành kinh tế nước ta gặp khó khăn trong phát triển, thậm chí là phá
sản, gây nhiều hậu quả bất lợi về mặt kinh tế - xã hội; gia tăng sự phụ thuộc của
nền kinh tế quốc gia vào thị trường bên ngoài. Hơn nữa, hội nhập kinh tế quốc
tế có thể tạo ra một số thách thức đối với quyền lực Nhà nước, phát sinh nhiều
vấn đề phức tập đối với việc duy trì an ninh và ổn định trật tự, an toàn xã hội.
Điều này dẫn đến làm tăng nguy cơ gia tăng của tình trạng khủng bố quốc tế,
bn lậu, tội phạm xun quốc gia, dịch bệnh, nhập cư bất hợp pháp
Tóm lại, hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay vừa có khả năng tạo ra những
cơ hội thuận lợi cho sự phát triển kinh tế, vừa có thể dẫn đến những nguy cơ to
lớn mà hậu quả của chúng là rất khó lường. Vì vậy, tranh thủ thời cơ, vượt qua
thách thức trong hội nhập kinh tế là vấn đề cần phải đặc biệt coi trọng.

6


PHẦN II: GIẢI THÍCH THỰC TRẠNG
1 Yêu cầu hội nhập quốc tế:
Trong bối cảnh cách mạng khoa học kỹ thuật ngày càng phát triển và có
vai trị quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của thế giới thì việc đề ra chủ
trương hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật đối với các nước là một nhu cầu cấp
thiết cho quá trình đổi mới của Việt Nam.
Thực tiễn đất nước những năm sau chiến tranh đặt Đảng ta trước những

thách thức to lớn, đòi hỏi, phải đổi mới phương pháp lãnh đạo, trước hết là đổi
mới tư duy. Đối với một nước kinh tế còn thấp kém, lạc hậu như Việt Nam tại
thời điểm đó, hội nhập kinh tế quốc tế là con đường để rút ngắn khoảng cách với
các nước khác trong khu vực và trên thế giới, phát huy những lợi thế và tìm
cách khắc phục hạn chế thông qua việc học hỏi kinh nghiệm của các nước.
Nhận thức được vai trò, tầm quan trọng của hội nhập kinh tế quốc tế,
trong suốt thời gian qua, Đảng đã nhất quán chủ trương phải tăng cường hội
nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Đại hội VI đưa ra chủ trương
tranh thủ những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật,
tham gia ngày càng rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong “Hội
đồng tương trợ kinh tế và mở rộng với các nước khác". Đây chính phương
hướng trước tiên nhất khởi đầu cho các chủ trương tiếp theo của Đảng về hội
nhập kinh tế quốc tế. Tới Đại hội VII, Đảng ta định hướng “đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ với các quốc gia, các tổ chức kinh tế". Tại Đại hội VIII,
thuật ngữ “hội nhập” bắt đầu được đề cập trong các văn kiện của Đảng: “Xây
dựng một nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới”. Và đến đại hội XII
của Đảng (năm 2016) đã đưa thêm khái niệm “Tồn cầu hóa” và tiếp tục khẳng
định: “Tồn cầu hóa, hội nhập quốc tế, cách mạng khoa học - công nghệ, kinh
tế tri thức tiếp tục được đẩy mạnh”. Báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng
(năm 2021) nhấn mạnh: “Tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế tiếp tục tiến triển
nhưng đang phải đối mặt với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc...”

7


2 Các vấn đề liên quan:
a) Tình hình trong nước:
Phát triển đất nước theo đường lối đổi mới, Chính phủ Việt Nam ngày
càng nhận thấy rõ hơn sự cần thiết phải tham gia vào q trình tồn cầu hóa
kinh tế và cạnh tranh quốc tế. Chiến lược phát triển kinh tế – xã hội 2001 - 2010

nêu rõ, phải "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, tranh thủ mọi thời cơ để phát
triển... Trong quá trình chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, chú trọng phát huy
lợi thế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, không ngừng tăng năng lực cạnh tranh
và giảm dần hàng rào bảo hộ". Báo cáo của Chính phủ tại kỳ họp thứ 4 (tháng
10–2003) Quốc hội khóa XI, cũng thẳng thắn thừa nhận: Tăng trưởng kinh tế
trong ba năm vừa qua (2001 – 2003) chủ yếu vẫn theo chiều rộng, tăng về số
lượng, nhưng chậm chuyển biến về chất lượng... Nhìn chung, sức cạnh tranh và
hiệu quả của doanh nghiệp và nền kinh tế đều thấp. Từ đó nhấn mạnh một trong
các giải pháp lớn là "phải tạo bước phát triển mới về kinh tế đối ngoại... Năm
2004 phải có bước đi mạnh mẽ hơn, với quyết tâm cao về chủ động hội nhập
kinh tế quốc tế”
Như vậy, quyết tâm về mặt chính trị đối với vấn đề tham gia q trình
tồn cầu hóa kinh tế của Việt Nam đã rõ. Nhưng phân tích về thực chất cho thấy
công tác chuẩn bị cho hội nhập lại chưa thực sự tốt, chủ trường của Đảng đưa ra
chưa được quán triệt và thực hiện đầy đủ, chậm được cụ thể hóa và thể chế hóa.
Các hoạt động hội nhập kinh tế quốc tế và mở rộng quan hệ trong các lĩnh vực
khác chưa được triển khai nhịp nhàng trong một chiến lược tổng thể. Hơn thế
nữa, hợp tác quốc tế về quốc phòng, an ninh chưa được phát huy, hợp tác quốc
tế về văn hóa, xã hội và một số lĩnh vực khác thì vẫn chưa sâu rộng, vẫn còn
thiếu sự chủ động và sáng tạo. Cùng với những tác động tiêu cực từ bên ngoài,
những hạn chế trên đây đã góp phần làm gia tăng khoảng cách về trình độ phát
triển giữa các vùng miền; một số bộ phận dân cư không được hưởng lợi, thậm
chí bị thua thiệt do q trình hội nhập quốc tế, sự phân hóa giàu – nghèo sâu sắc
thêm. Do quản lý chưa chặt chẽ và hiệu quả, các nguồn tài nguyên thiên nhiên
bị khai thác cạn kiêt; vấn đề ô nhiễm môi trường, vệ sinh, an toàn thực phẩm trở
8


nên trầm trọng hơn. Đây cũng chính là những yếu tố khiến cho quá trình “hội
nhập kinh tế quốc tế” ở Việt Nam chưa thực sự đạt hiệu quả.

b) Tình hình thế giới:
Nền kinh tế thế giới và tiến trình tồn cầu hóa đang đứng trước nhiều
thách thức mới khi các diễn đàn đa phương có sự tham gia của một số siêu
cường kinh tế (WTO, Liên hợp quốc, APEC,v.v.) bộc lộ khơng ít bất đồng và
gặp khó khăn trong việc tìm tiếng nói chung. Những bất ổn kinh tế vĩ mô ở các
nền kinh tế chủ chốt và bất bình đẳng trong thương mại quốc tế làm gia tăng chủ
nghĩa dân tộc và xu hướng bảo hộ. Nhiều hiệp định thương mại tự do được thúc
đẩy, đàm phán và ký kết với quy mô ngày càng lớn. Mặc dù vậy, mất cân đối
thương mại toàn cầu vẫn chưa được cải thiện, làm gia tăng xung đột thương
mại, cạnh tranh chiến lược, và cọ sát kinh tế, đặc biệt giữa các nền kinh tế chủ
chốt. Điển hình là Mỹ sẵn sàng leo thang xung đột thương mại với các đối tác,
áp dụng cách tiếp cận đơn phương, không tuân theo các quy tắc của WTO trong
xử lý thâm hụt thương mại với các đối tác quan trọng (Trung Quốc, EU, v.v.).
Phạm vi và lộ trình đàm phán Anh rời khỏi EU còn khá nhiều bất định, kéo theo
những rủi ro không nhỏ đối với triển vọng đầu tư – thương mại liên quan đến
các thị trường này.
Một yếu tố khác tác động đến bối cảnh kinh tế thế giới là cuộc cách mạng
Cơng nghiệp 4.0 đang có những diễn biến nhanh chưa từng có, với sự hội tụ của
nhiều cơng nghệ đột phá. Kinh tế thế giới đang bước vào giai đoạn tăng trưởng
chủ yếu dựa vào công nghệ và đổi mới, sáng tạo.
c) Thách thức từ các cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký kết đòi hỏi có lộ
trình tổng thể và tổ chức thực hiện:
Với việc hoàn tất ký kết các hiệp định thương mại tự do và cam kết hội
nhập ở tất cả các cấp độ, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam đã
chuyển sang giai đoạn triển khai sâu rộng và toàn diện. Với việc triển khai và
hoàn tất 16 Hiệp định FTA đã thực thi, đang đàm phán và chuẩn bị phê chuẩn,
Việt Nam hứa hẹn sẽ trở thành tâm điểm của mạng lưới khu vực thương mại tự
9



do rộng lớn. Trong 5 - 10 năm tới sẽ là giai đoạn đi vào thực thi các cam kết
kinh tế quốc tế trên nhiều tầng nấc, trong đó có những cam kết FTA thế hệ mới
tiêu chuẩn cao. Đây là thời điểm chúng ta bắt đầu thực thi nhiều cam kết cắt
giảm sâu, tiêu chuẩn cao, trong khi thời hạn phải triển khai các cam kết FTA thế
hệ mới đã rất gần. Điều đó sẽ tác động trực diện và sâu rộng đến kinh tế đất
nước, các địa phương và doanh nghiệp, gia tăng sức ép cạnh tranh gay gắt hơn.
Vấn đề đặt ra hiện nay là cần tích hợp các cam kết nêu trên thành một kế
hoạch thực thi tổng thể. So với giai đoạn đàm phán và ký kết, giai đoạn tổ chức
thực thi sẽ khó khăn hơn nhiều, khơng chỉ địi hỏi phải có bộ máy, nguồn nhân
lực và năng lực thực thi mà toàn bộ nền kinh tế được đặt trong một khung cảnh
phát triển mới với tất cả các tác động thuận nghịch
d) Thách thức của giai đoạn hội nhập theo chiều sâu: hài hịa hóa thể chế bên
trong với cam kết hội nhập của một nền kinh tế thị trường thực thụ:
Việc ký kết các hiệp định thương mại tự do trên diện rộng và lộ trình cắt
giảm thuế quan dù được thực hiện đúng tiến độ thì nền kinh tế cũng mới chỉ ở
giai đoạn đầu của tiến trình hội nhập. Giai đoạn hội nhập sâu hơn địi hỏi phải
hài hịa hóa chính sách và đặc biệt là tạo lập mơt thể chế kinh tế tương thích. Đó
chính là phải tạo lập một nền kinh tế thị trường thực thụ. Thực tiễn trên thế giới
cho thấy, hướng mở cửa chủ yếu của các quốc gia kém phát triển phải là nền
kinh tế thị trường phát triển, do vậy cơ chế thị trường ở các nước kém phát triển
được xác lập đủ mức thích ứng với các thị trường phát triển, đủ mức hấp dẫn
các nhà đầu tư và kinh doanh của các nền kinh tế thị trường phát triển. Việc thực
thi các hiệp định thương mại tự do và các cam kết hội nhập đặt nền kinh tế và
các doanh nghiệp nội địa trước sự cạnh tranh gay gắt.
Với 96% tổng số doanh nghiệp đang hoạt động là doanh nghiệp nhỏ và
siêu nhỏ, áp lực cạnh tranh đối với nền kinh tế Việt Nam là rất lớn. Doanh
nghiệp và hàng Việt Nam không chỉ phải cạnh tranh trên thị trường xuất khẩu
mà phải cạnh tranh ở cả thị trường nội địa. Việt Nam đã loại bỏ hồn tồn tới
90% số dịng thuế cho hàng hóa nhập khẩu từ các nước ASEAN cũng như các
10



đối tác khác như Nhật Bản, Hàn Quốc, … tự do vào Việt Nam không phải chịu
thuế hoặc chịu thuế thấp hơn thời gian trước. Riêng đối với thị trường Trung
Quốc, với nhiều điểm tương đồng về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu, nhất là về
giá, chắc chắn sẽ dẫn tới việc hàng hóa Trung Quốc xâm nhập ngày càng mạnh
vào thị trường nước ta. Thực tế này khiến một số ngành sản xuất của Việt Nam
đang và sẽ đứng trước nguy cơ phải thu hẹp sản xuất hoặc đóng cửa vì khơng
cạnh tranh được với hàng Trung Quốc, trong khi chúng ta chưa xây dựng đầy đủ
và sử dụng hiệu quả hàng rào thương mại để bảo vệ thị trường trong nước theo
quy định WTO.
e) Hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn tới đặt ra những vấn đề xã hội, môi
trường, lao động và việc làm ngày càng bức thiết:
Ngay từ năm 2007, khi Việt Nam vừa ra nhập tổ chức thương mại thế
giới, Đảng ta đã nhận định “ Gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, tham gia
vào tiến trình tồn cầu hóa kinh tế có thể làm tăng thêm sự phân phối lợi ích
khơng đồng đều giữa các khu vực, các ngành, các vùng, miền đất nước; có
những bộ phận dân cư ít được hưởng lợi, thậm chí cịn bị tác động tiêu cực;
một bộ phận doanh nghiệp có thể bị phá sản, thất nghiệp có thể tăng lên;
khoảng cách giàu - nghèo, mức sống giữa nơng thơn và thành thị có thể dỗng
ra hơn, từ đó có thể dẫn đến những yếu tố gây bất ổn định xã hội, ảnh hưởng
đến định hướng xã hội chủ nghĩa của đất nước...” (Nghị quyết 08, TW khóa
X ).Nhận định này đã được thực tế chứng minh và đến nay đây vẫn là vấn đề
lớn đặt ra trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn hội nhập kinh tế sâu rộng.
3 Được và mất bởi “hội nhập kinh tế quốc tế”:
Với chủ trương “chủ động và tích cực hội nhập quốc tế”, những năm qua,
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế tồn diện của Việt Nam đã đạt những kết quả
tích cực, với 5 điểm nhấn sau:
Một là, hội nhập kinh tế quốc tế đã góp phần gia tăng sức mạnh tổng hợp
quốc gia. Nền kinh tế Việt Nam từng bước được cơ cấu lại gắn với đổi mới mơ

hình tăng trưởng, hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế được tăng cường, nguồn nhân
11


lực để cung ứng cho phát triển kinh tế - xã hội ngày càng phát triển. Hai là, hội
nhập kinh tế quốc tế đã tác động mạnh tới tăng trưởng, góp phần thúc đẩy phát
triển kinh tế - xã hội. Nhờ đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế, GDP bình quân
đầu người tăng từ 2.109 USD (năm 2015) lên 2.587 USD (năm 2018). Ba là, hội
nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy hoạt động thương mại quốc tế của Việt Nam phát
triển mạnh, gia tăng kim ngạch xuất nhập khẩu, mở rộng thị trường đa dạng các
loại hàng hóa tham gia xuất nhập khẩu. Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế sâu
rộng góp phần đưa Việt Nam trở thành một “mắt xích” quan trọng trong mạng
lưới các liên kết kinh tế với các nền kinh tế hàng đầu thế giới. Đồng thời, tạo
động lực và “sức ép” mới để hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa gắn với đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế. Năm
là, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) của Việt Nam đạt được nhiều
kết quả ấn tượng. Hiện nay, có gần 26.000 doanh nghiệp FDI đang hoạt động tại
Việt Nam với số vốn cam kết đầu tư trên 330 tỷ USD đến từ gần 130 quốc gia
và đối tác. Vốn FDI vào Việt Nam chiếm 25% tổng vốn đầu tư toàn xã hội...
Bên cạnh những kết quả đạt được, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế của
Việt Nam cịn tồn tại một số hạn chế, khó khăn. Cụ thể như:
Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
hội nhập kinh tế quốc tế có nơi, có lúc chưa được quán triệt kịp thời, đầy đủ và
thực hiện nghiêm túc. Hội nhập kinh tế quốc tế còn bị tác động bởi cách tiếp cận
phiến diện, ngắn hạn và cục bộ; do đó, chưa tận dụng được hết các cơ hội và
ứng phó hữu hiệu với các thách thức. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế và quá
trình đổi mới ở trong nước, nhất là đổi mới, hoàn thiện thể chế, trước hết là hệ
thống luật pháp, cơ chế, chính sách chưa được thực hiện một cách đồng bộ,
chưa gắn kết chặt chẽ với quá trình nâng cao năng lực cạnh tranh, đáp ứng yêu
cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an tồn xã

hội, mơi trường sinh thái, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Hơn thế
nữa, hội nhập kinh tế quốc tế chưa được phối hợp chặt chẽ, hiệu quả với hội
nhập trong các lĩnh vực khác. Chưa tạo được sự đan xen chặt chẽ lợi ích chiến
12


lược, lâu dài với các đối tác. Việc ứng phó với những biến động và xử lý những
tác động từ mơi trường khu vực và quốc tế cịn bị động, lúng túng và chưa đồng
bộ.
4 Giải pháp thúc đẩy hội nhập kinh tế quốc tế:
Mặc dù, tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được những kết quả tích
cực, song trong bối cảnh thế giới diễn biến khó lường như hiện nay, Việt Nam
cần chủ động triển khai hội nhập kinh tế quốc tế lên mức toàn diện, sâu rộng,
đổi mới sáng tạo và hiệu quả hơn:
Thứ nhất, hội nhập quốc tế là sự nghiệp của toàn dân và chỉ có thể thành cơng
khi có sự tham gia hưởng ứng của các DN và người dân. Thứ hai, cùng với đẩy
mạnh các hoạt động thương mại, đầu tư, Việt Nam cần nâng cao năng lực phòng
chống, giải quyết, xử lý các tranh chấp, khiếu nại, khiếu kiện về thương mại,
đầu tư quốc tế, trong đó chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ luật sư,
cán bộ pháp lý để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người dân
và DN. Thứ ba, nhận diện các động thái, xu hướng phát triển lớn của thế giới, từ
đó có điều chỉnh đúng đắn, kịp thời trong chiến lược phát triển, tận dụng triệt để
những cơ hội mới mở ra. Thứ tư, cần nắm bắt cơ hội và nhận diện rõ những
thách thức của các FTA để có hội nhập phù hợp song khơng để bị lệ thuộc và bị
cuốn theo các trào lưu ngắn hạn. Thứ năm, thiết lập một nền kinh tế thị trường
đầy đủ, minh bạch và hiện đại vừa là mục tiêu vừa là yêu cầu của hội nhập. Thứ
sáu, tạo điều kiện thuận lợi, phát huy hơn nữa vai trò của địa phương, của doanh
nghiệp trong công tác hội nhập kinh tế quốc tế.
Thực hiện chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, những năm qua, tiến
trình hội nhập quốc tế của Việt Nam đã đạt một tầm cao mới. Tiến trình hội

nhập quốc tế đã góp phần quan trọng nâng tầm thế và lực cho Việt Nam trong
phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao thu nhập cho người dân; tạo sức ép và
điều kiện để tích cực hoàn thiện thể chế kinh tế; nỗ lực nâng cao năng lực cạnh
tranh quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm… Tuy nhiên, tiến trình hội nhập cũng

13


mang lại nhiều thách thức đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội của Việt
Nam.

PHẦN III: KẾT LUẬN
Có thể kết luận rằng, hội nhập kinh tế quốc tế là điều cần thiết. Tuy nhiên,
việc khắc phục những hạn chế, yếu kém, tồn tại và triển khai thực hiện các cam
kết quốc tế mới cũng sẽ đặt ra nhiều khó khăn, thách thức khơng chỉ về kinh tế
mà cịn cả về chính trị, xã hội. Sức ép cạnh tranh ngày càng gay gắt, nhiều
ngành, doanh nghiệp và sản phẩm của nước ta sẽ gặp khó khăn hơn. Việc thực
hiện các cam kết sâu rộng và cao hơn, nhất là vấn đề lao động, việc làm, bảo vệ
môi trường... đáp ứng yêu cầu nội luật hóa các cam kết nếu khơng được nghiên
cứu, chuẩn bị kỹ, có lộ trình, bước đi phù hợp, sẽ tác động tiêu cực đến q trình
đổi mới, hồn thiện thể chế, giải quyết những vấn đề phức tạp, nhạy cảm. Việc
thực hiện các tiêu chuẩn của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng đặt ra
những thách thức mới không chỉ đối với quản lý của Nhà nước mà cịn có thể
ảnh hưởng đến ổn định chính trị - xã hội. Những cơ hội và thách thức nêu trên
có mối quan hệ qua lại và có thể chuyển hóa lẫn nhau. Cơ hội có thể trở thành
thách thức nếu không được tận dụng kịp thời. Thách thức có thể biến thành cơ
hội nếu chúng ta chủ động ứng phó thành cơng./.

14



PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác- Lenin, 2020, T172-T175

2.

ThS. Nguyễn Thị Thúy Ngọc - Khoa Tài chính kế tốn, Trường

Cao đẳng Cơng nghiệp Hưng Yên (2019): Hội nhập kinh tế quốc tế của Việt
Nam trong bối cảnh hiện nay, />3. Ban chỉ đạo 35 Bộ Công thương (21/08/2020): Hội nhập kinh tế quốc tế,

hướng đi đúng đắn, sáng suốt mà Đảng đã lựa chọn cho phát triển kinh tế đất
nước, />4. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương
Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 18
5. Nguyễn Phú Trọng: “Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa

XII

về

các

văn

kiện

trình

Đại


hội

XIII

của

Đảng”,

/>6. Nghị quyết số 22-NQ/TW của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế
7. Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010, Báo cáo của Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
của Đảng
8. Bùi Phụ: “Những cơ hội, thách thức về hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt
Nam”, />
15


9.

PGS.TS Lê Bộ Lĩnh: “Một số vấn đề về hội nhập kinh tế quốc tế

của Việt Nam”, />10.

Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 05/2/2007 của Hội nghị lần thứ tư

Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về một số chủ trương, chính sách lớn
để nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững khi Việt Nam là thành viên của Tổ
chức Thương mại thế giới
11.

Thụy Miên: “Thu nhập bình quân đầu người năm 2018 đạt 2.587
USD”,

/>
2587-usd.htm
12.
TS. Lê Quang Thuận, ThS. Nguyễn Thị Phương Thúy - Viện Chiến
lược và Chính sách tài chính: “Xu hướng bảo hộ thương mại trên thế giới và
kiến nghị đối với Việt Nam”, />13.
Nguyễn Nguyệt Nga- Đại sứ Ban Thư ký Quốc gia APEC 2017:
“Một số vấn đề then chốt của hội nhập quốc tế nước ta giai đoạn mới”
14.
Vũ Khoan- Nguyên Bí thư TW Đảng, Ngun Phó Thủ tướng Chính
phủ: “Nên hiểu thế nào về “Hội nhập kinh tế quốc tế”?”, bài đăng trên Tạp chí
kiến trúc số 11/2015
15.
15. Hội nhập kinh tế - UNDP,
16.


16



×