Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

CHỦ TRƯƠNG của ĐẢNG QUA các NGHỊ QUYẾT từ năm 1930 1945 làm rõ QUAN điểm CÁCH MẠNG THÁNG tám 1945 là CUỘC CÁCH MẠNG GIẢI PHÓNG dân tộc điển HÌNH về NHIỆM vụ, lực LƯỢNG và THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (150.18 KB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC ĐIỆN LỰC
BỘ MƠN KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

MÃ ĐỀ:01

TIỂU LUẬN MÔN
LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Tên đề tài: CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG QUA CÁC NGHỊ QUYẾT TỪ
NĂM 1930-1945. LÀM RÕ QUAN ĐIỂM: CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
1945 LÀ CUỘC CÁCH MẠNG GIẢI PHĨNG DÂN TỘC ĐIỂN HÌNH
VỀ NHIỆM VỤ, LỰC LƯỢNG VÀ THÀNH QUẢ CÁCH MẠNG.

Hà Nội, 10/2021

1


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................ 3
NỘI DUNG............................................................................................................................ 5
I.

Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trước năm 1930:..........................................................5
1. Bối cảnh quốc tế:......................................................................................................5
2. Bối cảnh trong nước:...............................................................................................5

II.

Nội dung chủ trương của Đảng:.............................................................................6

1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930):.................................................6


2. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương (10/1930)......................7
3. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
(07/1936).......................................................................................................................... 8
4. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương (11/1939)...................................................................................................8
5. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (05/1941).......9
III. Chứng minh cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc điển hình:............................................................................................................10
KẾT LUẬN.......................................................................................................................... 14
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................................................................................................15

2


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt quá trình vận động của dịng chảy lịch sử nhân loại, bất cứ một quốc
gia nào hình thành và phát triển cũng đều phải trải qua chiến tranh. Các nước đứng ở vị
trí chủ chiến hay bị xâm lược đều cần phải đưa ra một đường lối chiến tranh đúng đắn.
Chủ trương đúng đắn sẽ đưa đến kết quả thắng lợi của đất nước đó. Đó chính là kết tinh
của trí tuệ vẹn toàn của con người, là ngọn đèn hải đăng cho mỗi hành động, bước đi
trong đêm tối khắc nghiệt.
Lịch sử dân tộc Việt Nam, kể từ khi có Đảng là những trang sử sôi động nhất, hào
hùng và oanh liệt nhất. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời đã đánh dấu một bước ngoặt vĩ
đại trong lịch sử cách mạng nước ta, nó chấm dứt sự bế tắc về chủ trương đường lối cách
mạng nước nhà lúc bấy giờ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chủ tịch Hờ Chí
Minh, dân tộc ta tiếp tục giành được những thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại
sâu sắc, thể hiện những bước nhảy vọt trong tiến trình lịch sử của dân tộc. Mở đầu là
thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa tới chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy năm châu chấn động địa cầu và cuối cùng là

chiến thắng vĩ đại mùa xuân năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất đất nước.
Chính vì lí do trên, em đã quyết định lựa chọn vấn đề “Chủ trương của Đảng qua
các Nghị quyết từ năm 1930- 1945. Qua đó làm rõ quan điểm: Cách mạng Tháng Tám
1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc điển hình về nhiệm vụ, lực lượng và thành
quả cách mạng” làm đề tài cho bài tiểu luận kết thúc mơn Lịch sử Đảng Cộng sản Việt
Nam của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu:Là công dân của một đất nước xã hội chủ nghĩa, chịu sự dìu
dắt của Đảng Cộng sản, chúng ta phải nắm vững tư tưởng đúng đắn của Đảng thông qua
nghiên cứu các Nghị quyết, Cương lĩnh, Luận cương từ năm 1930 đến năm 1945. Vai trò
của các chủ trương của Đảng Cộng sản vơ cùng to lớn, nó có tầm ảnh hưởng quan trọng
và không thể thiếu đối với lịch sử dân tộc và tương lai đất nước. Điển hình nhất đây
chính là một trong những cơ sở dẫn đến thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
Nhiệm vụ nghiên cứu:
 Tìm hiểu hồn cảnh Việt Nam trước năm 1930
 Trình bày nội dung các chủ trương của Đảng thông qua Nghị quyết, Luận cương
từ 1930- 1945
 Chứng minh Cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân
tộc điển hình về nhiệm vụ, lực lượng và thành quả cách mạng.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Các chủ trương của Đảng
Phạm vi nghiên cứu: Tập trung nghiên cứu hoàn cảnh, đặc điểm Việt Nam những
năm 1930-1945; những chủ trương, chính sách, đường lối của Đảng trong việc dẫn dắt
cuộc kháng chiến đi tới thắng lợi.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
3


Cơ sở lý luận: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hờ Chí Minh về
vấn đề phân tích đường lối, cương lĩnh, chính sách của Đảng

Phương pháp nghiên cứu:
 Phương pháp nghiên cứu văn bản: giáo trình, tài liệu tham khảo.
 Đề tài sử dụng phương pháp lơgic và lịch sử, phương pháp phân tích, tổng hợp,
khái qt hóa và hệ thống hố.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo thì nội dung của tiểu
luận được chia thành 03 chương và mỗi chương chia ra các tiết và tiểu tiết.

4


NỘI DUNG
I. Hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trước năm 1930:
1. Bối cảnh quốc tế:
Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang
chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường
bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân
dân các dân tộc thuộc địa ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ - Latinh. Sự thống trị của
chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu
thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào
đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.
Trong bối cảnh đó, năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga, chủ
nghĩa Mác -Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực khơng chỉ có ý nghĩa to lớn đối với
cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản đối với các nước tư bản mà còn tác động sâu sắc đến
phong trào giải phóng dân tộc ở các nước bị đơ hộ, mở ra một thời đại mới trong lịch sử
loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải
phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Tháng 3 năm 1919, Quốc tế
Cộng sản (Quốc tế III) ra đời đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trị quan trọng trong việc
truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

2. Bối cảnh trong nước:
Là một đất nước bé nhỏ hình chữ S nằm ven bờ Tây của Biển Đông, không thể
phủ nhận rằng, mẹ thiên nhiên đã ban tặng cho nước ta một địa hình đặc biệt cùng vô vàn
nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú trải khắp từ Bắc chí Nam. Tuy nhiên, cũng bởi cả
ưu điểm và nhược điểm trên, Việt Nam và các nước Đông Nam Á trở thành miếng mồi
ngon béo bở cho các nước tư bản phương Tây dịm nhó với mục đích biến thành các nước
thuộc địa, phục vụ cho ý đờ xâm lược rộng khắp và thống trị tồn thế giới.
Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống
trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc
nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”.[1] Chính sách thống trị của
thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.
Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực
đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn, đó là một chính sách chuyên
chế điển hình, “là chế độ độc tài chuyên chế nhất, nó vơ cùng khả ố và khủng khiếp hơn
cả chế độ chuyên chế của nhà nước quân chủ châu Á đời xưa”.[2] Chúng đàn áp đẫm
máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam,lập nhà tù Côn Đảo để
giam cầm những người Việt Nam yêu nước chống Pháp. Chúng chia rẽ ba nước Đông
Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ
một chế độ cai trị riêng.
Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc
lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình
thức thuế khóa nặng nề, vơ lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp, hệ thống đường giao
thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.
5


Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách “ngu dân” để dễ cai trị, lập nhiều
nhà tù hơn trường học. Chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế
giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung
túng, duy trì các hủ tục lạc hậu và ra sức tuyên truyền cái gọi là tư tưởng “khai hóa văn

minh” của nước “Đại Pháp”.
Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt. Phần lớn
giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nơng dân; một bộ phận địa chủ
có lịng u nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác
nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân
mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp.
Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa
nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu
thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.
Theo quy luật tất yếu “Có áp bức thì có đấu tranh”, Trước sự xâm lược của thực
dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên
tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần
thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ
phong kiến như phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa
Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nơng dân n Thế của
Hồng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước
theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương
Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học
lãnh đạo cũng bị thất bại,… Triều đình Nguyễn từng bước thỏa hiệp với Pháp và đầu
hàng chúng bằng cách kí hiệp định Patơnốt cịn cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc
khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước. Nhiệm vụ lịch sử cấp thiết đặt ra cho thế hệ
yêu nước đương thời là cần có một đường lối, chủ trương cứu nước đúng đắn để giải
phóng dân tộc.
Trước yêu cầu cấp thiết đó và lòng nhiệt huyết yêu nước, vượt lên trên những hạn
chế của các bậc yêu nước thời bấy giờ, Nguyễn Ái Quốc đã ra đi tìm đường cứu nước
năm 1911, và Người đã phát hiện ra con đường để dẫn đến thành cơng đó là cách mạng
vơ sản của C.Mác và Ăngghen. Đến ngày 3/2/1930, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời dưới
sự lãnh đạo của Chủ tịch Hờ Chí Minh tại Cửu Long (Hồng Kông).
II. Nội dung chủ trương của Đảng:
1. Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng (2/1930):

Trong các văn kiện do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc soạn thảo thơng qua Hội nghị
thành lập Đảng, có hai văn kiện: Chánh cương vắn tắt của Đảng và Sách lược vắn tắt [3]
của Đảng đã phản ánh về đường hướng phát triển và những vấn đề cơ bản về chiến lược
và sách lược của cách mạng Việt Nam. Vì vậy, hai văn kiện trên được coi là Cương lĩnh
chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.[4]
Từ việc phân tích thực trạng và mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam bấy giờ, Đảng
đã xác định rõ đường lối chiến lược của cách mạng của nước ta là “Chủ trương làm tư
sản dân quyền, cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”. Đây là quá
6


trình phát triển lâu dài trải qua những thời kỳ, giai đoạn chiến lược khác nhau trong tiến
trình cách mạng dân tộc, dân chủ và xã hội chủ nghĩa mà trước tiên là đấu tranh giành
độc lập dân tộc. Do đó, “Đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến” là nhiệm
vụ cơ bản hàng đầu “Làm cho nước Nam hồn tồn độc lập” và dân cày có ruộng. Chủ
tịch Hờ Chí Minh khẳng định: “Cương lĩnh ấy rất phù hợp với nguyện vọng thiết tha của
đại đa số nhân dân ta là nơng dân. Vì vậy, Đảng đã đoàn kết được những lực lượng cách
mạng to lớn xung quanh giai cấp mình, cịn các đảng phái của các giai cấp khác thì hoặc
bị phá sản hoặc bị cơ lập. Do đó, quyền lãnh đạo của Đảng ta - Đảng của giai cấp công
nhân không ngừng củng cố và tăng cường”.
Vì vậy, những nội dung chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa của cương lĩnh chính trị
đầu tiên của Đảng ta đã đáp ứng đúng yêu cầu khách quan của lịch sử, nhuần nhuyễn
quan điểm giai cấp và thấm nhuần tinh thần dân tộc, phù hợp với xu thế phát triển của
thời đại mới mở ra sau thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga (1917), đúng như Chủ
tịch Hờ Chí Minh đã nhận định, thời đại mới là “Thời đại cách mạng chống đế quốc, thời
đại giải phóng dân tộc”. Cương lĩnh chính trị đầu tiên này đã xử lý đúng đắn vấn đề dân
tộc và giai cấp trong chiến lược cách mạng nước nhà vì mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu của
xã hội Việt Nam thời kỳ này là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và
tay sai phản động.
2. Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đơng Dương (10/1930)

Từ ngày 14 đến ngày 31-10-1930, Ban Chấp hành Trung ương họp Hội nghị lần
thứ nhất tại Hương Cảng tức Hồng Kông (Trung Quốc), quyết định đổi tên Đảng Cộng
sản Việt Nam thành Đảng Cộng sản Đơng Dương, đờng chí Trần Phú được bầu làm Tổng
bí thư của Đảng
Đảng Cộng sản Việt Nam nhấn mạnh mâu thuẫn giai cấp ngày càng diễn ra gay
gắt ở Việt Nam, Lào và Cao Miên: “một bên là thợ thuyền dân cày và các phần tử lao
khổ, một bên thì địa chủ phong kiến, tư bản và đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương xác định
tính chất của cuộc cách mạng Đơng Dương lúc đầu là cuộc “cách mạng tư sản dân
quyền”, cho đây là “thời kỳ dự bị để làm xã hội cách mạng”. Luận cương cho rằng:
Nhiệm vụ cốt yếu của cách mạng tư sản dân quyền là phải: “Tranh đấu để đánh đổ các
di tích phong kiến, đánh đổ các cách bóc lột theo lối tư bản và để thực hành thổ địa cách
mạng cho triệt để” và “Đánh đổ chủ nghĩa đế quốc Pháp làm cho Đơng Dương hồn
tồn độc lập”. Luận cương còn xác định hai nhiệm vụ chiến lược phản đế và phản phong
phải được đặt ngang hàng nhau: “Có đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa mới phá được các
giai cấp địa chủ và làm cách mạng thổ địa được thắng lợi, mà có phá tan được chế độ
phong kiến thì mới đánh đổ được đế quốc chủ nghĩa”. Luận cương đã nhấn mạnh cách
mạng ruộng đất và đấu tranh giai cấp là điều không phù hợp với thực tiễn của xã hội
thuộc địa.
Cuối cùng, Luận cương chính trị của Đảng chỉ rõ: cách mạng Đông Dương là một
bộ phận khăng khít của cách mạng vơ sản thế giới. Vì thế giai cấp vơ sản Đơng Dương
phải đồn kết gắn bó với giai cấp vơ sản thế giới, trước hết là giai cấp vô sản Pháp, và
phải mật thiết liên hệ với phong trào cách mạng ở các nước thuộc địa và nửa thuộc địa.
7


Luận cương chính trị năm 1930 của Đảng đã đóng góp quan trọng vào kho tàng lý
luận của cách mạng Việt Nam, vạch ra con đường đi lên của cách mạng nước ta. Song,
Luận cương còn một số mặt hạn chế, do còn chịu ảnh hưởng của tư tưởng tả khuynh nên
không nêu ra được mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế quốc
Pháp, từ đó khơng nêu được nhiệm vụ chống đế quốc lên hàng đầu. Do vậy, chưa phát

huy đầy đủ vị trí của yếu tố dân tộc, chưa nhận thức được đầy đủ vai trò của Mặt trận dân
tộc thống nhất trong việc đoàn kết các lực lượng yêu nước. Luận cương chưa đánh giá
đúng khả năng cách mạng của giai cấp tiểu tư sản, tinh thần yêu nước của tư bản dân tộc
và một bộ phận địa chủ nhỏ.
3. Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương (07/1936)
Vào những năm 30 của thế kỷ XX, thế lực phát xít cầm quyền ở Đức, Italia, Nhật
Bản chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh thế giới. Cịn tại Việt Nam, đây là thời kỳ
phục hời và phát triển kinh tế nhưng nhìn chung vẫn lạc hậu và lệ thuộc kinh tế Pháp. Đời
sống nhân dân khó khăn do chính sách tăng thuế của Pháp; cơng nhân bị thất nghiệp,
lương giảm; nông dân không đủ ruộng cày, chịu mức địa tơ cao và bóc lột của địa chủ,
cường hào…; tư sản dân tộc ít vốn, chịu thuế cao, bị tư bản Pháp chèn ép; tiểu tư sản trí
thức bị thất nghiệp, lương thấp; cịn các tầng lớp lao động khác phải chịu thuế khóa nặng
nề, sinh hoạt đắt đỏ. Do đời sống đa số nhân dân khó khăn nên hăng hái tham gia đấu
tranh đòi tự do, cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 7/1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đơng Dương
do Lê Hờng Phong chủ trì ở Thượng Hải (Trung Quốc), dựa trên Nghị quyết Đại hội VII
của Quốc tế cộng sản đã đề ra đường lối và phương pháp đấu tranh nhằm giải quyết vấn
đề và chuyển hướng đường lối trong tình hình mới.Hội nghị xác định mục tiêu trực tiếp,
trước mắt là đấu tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh,
đòi tự do dân chủ, cơm áo và hồ bình. Kẻ thù trước mắt của nhân dân Đơng Dương lúc
này là bọn phản động thuộc địa và bè lũ tay sai của chúng. Hội nghị chủ trương dùng các
hình thức tổ chức và đấu tranh cơng khai hợp pháp, nửa hợp pháp; đờng thời tiếp tục duy
trì tổ chức và đấu tranh không hợp pháp.
Những nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị được trình bày cụ thể trong tài
liệu Chung quanh vấn đề chiến sách mới, đánh dấu sự chấm dứt thời kỳ đấu tranh khôi
phục phong trào, đưa cách mạng Đông Dương chuyển lên một cao trào mới.
4. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản
Đông Dương (11/1939)
Sau khi Chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp ở Đông Dương

tiến hành khủng bố Đảng Cộng sản Đơng Dương và các đồn thể quần chúng.Trước tình
hình đó, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp trong ba ngày 6, 7, 8-11-1939,
nhằm giải quyết vấn đề chuyển hướng đường lối và phương pháp cách mạng trong tình
hình mới tại Bà Điểm (Hóc Mơn, Gia Định).
Về tình hình Đơng Dương, Hội nghị nhận định Đơng Dương sẽ bị lôi kéo vào
guồng máy chiến tranh "một cuộc đại thảm sát xưa nay chưa từng thấy”. Sau khi phân
tích rõ mâu thuẫn chủ yếu, gay gắt nhất ở Đông Dương lúc này là mâu thuẫn giữa đế
8


quốc và các dân tộc Đông Dương, Hội nghị xác định: kẻ thù là chủ nghĩa phát xít; nhiệm
vụ chống chủ nghĩa phát xít; mục tiêu là đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hịa bình, thành
lập Mặt trận nhân dân rộng rãi.“Bước đường sinh tồn của các dân tộc Đơng Dương
khơng có con đường nào khác hơn là con đường đánh đổ đế quốc Pháp, chống tất cả ách
ngoại xâm vô luận da trắng hay da vàng để giành lấy giải phóng độc lập”. Để phù hợp
với tình hình mới, Đảng xác định mục tiêu trực tiếp, trước mắt là đấu tranh chống chế độ
phản động thuộc địa, chống phát xít và chiến tranh, địi tự do dân chủ, cơm áo và hồ
bình. Hội nghị chủ trương tạm gác khẩu hiệu “lập chính quyền Xơ viết cơng-nơng-binh”,
thay bằng khẩu hiệu “lập chính quyền cộng hồ dân chủ”, hình thức nhà nước chung cho
tất cả các tầng lớp dân chúng và phong trào giải phóng dân tộc.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11-1939 đánh dấu bước phát triển
quan trọng về lý luận và đường lối phương pháp cách mạng của Đảng– đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu, đưa nhân dân ta bước vào thời kì trực tiếp vận động cứu
nước, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. Nghị quyết góp
phần làm phong phú kho tàng lý luận của Đảng ta về cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân.[5]
5. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (05/1941)
Sau khi về nước một thời gian, với tư cách là đại biểu Quốc tế Cộng sản, đờng chí
Nguyễn Ái Quốc triệu tập và chủ trì Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương
Đảng, từ 10-19/5/194 tại hang Pắc Bó (Cao Bằng).

Căn cứ sự phân tích tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị khẳng định nhiệm
vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải phóng dân tộc giành cho được độc lập dân
tộc và tự do, hạnh phúc cho đồng bào. “Trong lúc này nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc giải phóng, khơng địi được độc lập, tự do cho tồn thể dân tộc, thì chẳng những
tồn thể quốc gia dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của bộ phận, giai
cấp đến vạn năm cũng khơng địi lại được”. Từ xác định đúng mâu th̃n cơ bản chủ yếu,
đến chỉ rõ kẻ thù chủ yếu là đế quốc Pháp - Nhật, Hội nghị đã xác định rõ tính chất của
cuộc cách mạng là cách mạng giải phóng dân tộc, lực lượng tiến hành cuộc cách mạng
này là tồn dân Việt Nam bao gờm mọi tầng lớp, mọi tổ chức chính trị, mọi giai cấp, mọi
tơn giáo, dân tộc, mọi lứa tuổi. Nhằm triệt để phát huy yếu tố dân tộc, phân hoá hàng ngũ
giai cấp địa chủ, Hội nghị tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu đánh đổ địa
chủ, chia ruộng đất cho dân cày thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế quốc
và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng công, giảm tô, giảm tức. Theo đề
nghị của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, Mặt trận dân tộc thống nhất chống phát-xít Pháp Nhật với tên gọi Việt Nam Độc lập đồng minh gọi tắt là Việt Minh đã ra đời ngày
19/5/1941. Đảng Cộng sản Đông Dương là thành viên của Việt Minh và là hạt nhân chính
trị lãnh đạo Việt Minh.
Với khí thế của cả dân tộc, thực hiện phương châm kết hợp chặt chẽ giữa đấu
tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, phát triển từ khởi nghĩa từng phần tiến tới tổng
khởi nghĩa. Chủ trương trong Nghị quyết của Hội nghị Trung ương 8 chính là sự trở về
và hồn chỉnh chủ trương cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vơ
sản đã được Hờ Chí Minh nêu ra trong Cương lĩnh đầu tiên năm 1930, không chỉ giương
9


cao ngọn cờ giải phóng dân tộc lên hàng đầu mà cịn đề ra nhiều chủ trương, chính sách
cụ thể nhằm động viên mọi tầng lớp nhân dân tiến lên, giành độc lập, tự do cho dân tộc.
Tư tưởng chiến lược giải phóng dân tộc của Hờ Chí Minh đến đây đã được hoàn chỉnh.
Nghị quyết của Hội nghị lần thứ 8 và những chủ trương sáng suốt của Nguyễn Ái Quốc
được toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ra sức phấn đấu thực hiện, đi đến thành công.
Nhận xét:

Chủ trương đường lối cách mạng của Đảng được xây dựng, phát triển và từng
bước hoàn chỉnh qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng Việt Nam. Trong thời kỳ
kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, đó là đường lối kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính. Phương pháp cách mạng là nhiệm vụ kháng
chiến được đặt lên hàng đầu; thực hiện vừa kháng chiến, vừa kiến quốc. Phương thức tiến
hành kháng chiến là kết hợp chặt chẽ chiến tranh nhân dân địa phương với chiến tranh
bằng các đơn vị bộ đội chủ lực. Đây thực sự là một sáng tạo của đường lối chiến tranh
nhân dân Việt Nam – đường lối kháng chiến – mà Đảng ta với tư cách chủ thể. Bởi lẽ,
chiến tranh của ta là chiến tranh nhân dân, do nhân dân tiến hành (mỗi người dân là một
chiến sĩ), với lực lượng vũ trang ba thứ quân làm nòng cốt. Kháng chiến tồn diện, là vì
thực dân Pháp tiến hành xâm lược, nơ dịch nhân dân ta cả chính trị, kinh tế, văn hố, xã
hội, qn sự,... do đó ta phải đấu tranh toàn diện, lâu dài với địch, trong khi phải dựa vào
sức mình là chính để giành thắng lợi cho cuộc kháng chiến vĩ đại. Đường lối đó là sự kế
thừa truyền thống, kinh nghiệm chống giặc ngoại xâm của dân tộc, nắm vững và vận
dụng đúng quy luật chiến tranh trong điều kiện “lấy nhỏ đánh lớn, lấy ít địch nhiều”.[6]
III. Chứng minh cách mạng tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng
dân tộc điển hình:
Lịch sử hơn 80 năm kể từ ngày Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời cho đến nay, Cách
mạng Tháng Tám năm 1945 là thành quả đầu tiên của Đảng ta với tư cách là lực lượng chính
trị lãnh đạo cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đi đến thắng lợi. Đây là thắng lợi điển hình
cho phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa và phụ thuộc trong thế kỷ
XX. [7] Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám cịn là điển hình cho khát vọng độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của toàn thể nhân loại trong thế kỷ XX. Tính điển hình đó
được thể hiện trong những nội dung sau:
Một là, tập trung hoàn thành nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng là giải phóng dân
tộc để giải quyết được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Việt Nam bấy giờ, đáp ứng đúng
yêu cầu khách quan của lịch sử và ý chí, nguyện vọng độc lập tự do của quần chúng nhân
dân. Trong hoàn cảnh lịch sử của một đất nước bị thực dân đế quốc và chế độ phong kiến
lỗi thời lạc hậu áp bức bóc lột, Chủ tịch Hờ Chí Minh và Đảng ta đã tìm ra con đường
cứu nước cho cả dân tộc. Trung thành và kiên định với đường lối đã lựa chọn, vượt qua

những thách thức nghiệt ngã, Đảng Cộng sản Đông Dương đã giương cao ngọn cờ độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Đảng ta đã “gõ
những nhịp trống đầu tiên” báo hiệu sự thắng lợi của phong trào cách mạng ở các nước
thuộc địa và phụ thuộc. Đây cũng là báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm
vi tồn thế giới. Có đấu tranh chống giặc giải phóng dân tộc, ta mới có thể giải phóng giai
cấp, giải phóng con người.
10


Hai là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là biểu hiện tập trung nhất của lý tưởng
độc lập tự chủ, tự lực, tự cường của dân tộc ta: "Đem sức ta mà giải phóng cho ta"- chính
là lực lượng cách mạng bao gờm tồn dân tộc.
Nhận thức sâu sắc và triệt để tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin: Sự nghiệp
cách mạng là của quần chúng nhân dân. Ngay từ khi ra đời, trong Cương lĩnh cách
mạng đầu tiên của mình Đảng ta đã khẳng định: Ngồi cơng - nơng là gốc của cách
mạng thì "Đảng phải liên lạc với tiểu tư sản, trí thức, trung nơng, thanh niên, Tân
Việt... để kéo họ đi vào phe vô sản giai cấp. Cịn đối với bọn phú nơng, trung, tiểu địa
chủ và tư bản An Nam mà chưa rõ mặt phản cách mạng thì phải lợi dụng, ít ra cũng
làm cho họ đứng trung lập". Như vậy, khác với các đảng phái và tổ chức chính trị
đương thời, Đảng ta đã đánh giá đúng đắn sức mạnh của quần chúng nhân dân. Từ đó,
Đảng khơng ngừng xây dựng, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân để tập hợp lực lượng,
nhân lên sức mạnh của các tầng lớp nhân dân trong cả nước.
Một điểm rất đặc sắc của quá trình hình thành, phát triển và hoàn thiện đường lối
chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc thời kỳ 1930-1945 là lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc
và Trung ương Đảng ta đã sáng tạo một hình thức tổ chức độc đáo phù hợp với điều kiện
lịch sử của Việt Nam, đó là lập mặt trận dân tộc thống nhất để hiện thực hóa tư tưởng của
V.Lenin vĩ đại: Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng- Cách mạng giải phóng dân tộc
là sự nghiệp của toàn dân Việt Nam được Đảng tuyên truyền giác ngộ và được tập hợp tổ
chức trong mặt trận dân tộc thống nhất nhằm phát huy sức mạnh đại đồn kết tồn dân
tộc.

Chính sức mạnh của khối đại đồn kết tồn dân đã tạo nên áp lực chính trị mạnh mẽ làm tan
rã một thể chế chính trị lạc hậu và phản động để lập nên một Nhà nước cơng nơng,
hình thành nên một thể chế chính trị mới. Đó là nhà nước của dân, do dân và vì dân. Sử
dụng hình thức khởi nghĩa, Đảng ta đã huy động được sức mạnh của tất cả các tầng lớp
nhân dân vào cuộc cách mạng. Đây là một trong những biểu hiện độc đáo của tính chất
điển hình của Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Ba là, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là cuộc cách mạng giải phóng dân tộc
thành công đầu tiên ở một nước thuộc địa và phụ thuộc do một chính đảng của giai cấp
cơng nhân lãnh đạo, một chính quyền “của chung tồn dân tộc” theo chủ trương của
Đảng với hình thức cộng hịa dân chủ. Lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các
dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng
thành công, đã nắm chính quyền tồn quốc. Thắng lợi ấy cịn là mẫu mực của quá trình
lật đổ chế độ cũ, xây nên chế độ mới một cách nhân văn và tiến bộ.
Tính nhân văn của Cách mạng Tháng Tám và việc lật đổ chế độ cũ, xây dựng
chế độ mới đã thể hiện được bản chất của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc của
Đảng ta là vì con người và cho con người. Cách mạng thành công, bộ máy nhà nước
nhanh chóng được thiết lập trên khắp cả nước từ trung ương đến địa phương mà
không gặp những cản trở lớn. Đó cũng là một thành cơng điển hình của Đảng ta trong
việc giải quyết quá trình xác lập quyền lực và giải quyết vấn đề cơ bản và chủ yếu
nhất của một cuộc cách mạng đó là vấn đề chính quyền.
11


Để có thành quả cách mạng Tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã có sự điều chỉnh về
đường lối chiến lược và sách lược phù hợp. Từ việc tiến hành song song hai nhiệm vụ
cách mạng là phản đế và phản phong, đến việc xác định nhiệm vụ trước mắt là giải phóng
dân tộc. Thực hiện chủ trương kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, tiến từ
khởi nghĩa từng phần đến Tổng khởi nghĩa với phương pháp đấu tranh phù hợp, chuyển
từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền
của đế quốc và tay sai; từ hoạt động hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và

bất hợp pháp… Các quan điểm này được thể hiện nhất quán, xuyên suốt qua các cao trào
cách mạng 1930 - 1931, 1936 - 1939, 1939 - 1945, mà đỉnh cao là cuộc Tổng khởi nghĩa
giành chính quyền tháng Tám năm 1945.
Khơng hề có một cuộc thanh trừng hay "tắm máu", trả thù cá nhân. Thực hiện
chiến lược đại đoàn kết toàn dân, một số quan chức cũ của triều đình Nhà Nguyễn
cũng được mời tham gia chính quyền cách mạng. Kiên quyết, triệt để mà hạn chế
được sự đổ máu, đó cũng là nét đặc biệt của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 ở nước
ta.
Kết quả là, nhân dân cả nước đồng loạt vùng dậy, tiến hành tổng khởi nghĩa, giành
chính quyền. Từ ngày 14 đến ngày 18-8, cuộc tổng khởi nghĩa nổ ra giành được thắng lợi
ở nông thôn đồng bằng Bắc Bộ, đại bộ phận miền Trung, một phần miền Nam và ở các
thị xã: Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Hội An, Quảng Nam... ngày 19/8/1945 nhân dân
ta đã giành thắng lợi trong cuộc Tổng khởi nghĩa “long trời, lở đất”, đập tan xiềng xích
nơ lệ hàng trăm năm của thực dân, đế quốc, giành chính quyền về cho nhân dân. Chỉ
trong vịng 15 ngày cuối tháng 8-1945, cuộc tổng khởi nghĩa đã giành thắng lợi hồn
tồn, chính quyền trong cả nước về tay nhân dân. Dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng,
đứng đầu là Chủ tịch Hờ Chí Minh vĩ đại, Đảng ta khi đó mới trịn 15 tuổi và chỉ có
khoảng 5.000 đảng viên đã làm nên sự kiện mang tầm vóc thời đại, mở ra trang sử mới
vô cùng rạng rỡ trong lịch sử hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt
Nam.
Ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hờ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tun
ngơn độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng
hịa – Nhà nước cơng nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhân dân Việt Nam từ thân
phận nô lệ bước lên địa vị người chủ đất nước. Nước Việt Nam từ một nước thuộc địa trở
thành một quốc gia độc lập có chủ quyền, vươn lên sáng vai cùng các cường quốc năm
châu, tiếp tục đấu tranh cho mục tiêu cao cả của chế độ xã hội chủ nghĩa – một kỉ nguyên
mới của hịa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây không chỉ là chiến
công của mình dân tộc ta mà cịn là chiến cơng chung của các dân tộc thuộc đại đang đấu
tranh vì độc lập tự do, vì thế nó càng có sức cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân
tộc tồn thế giới.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám đã chứng minh tính đúng đắn Cương lĩnh
chính trị đầu tiên, đờng thời, là thắng lợi công tác dân vận của Đảng, chỉ với khoảng
3.000 đảng viên, nhưng Đảng đã tin vào dân, gắn bó với dân, hiểu dân, dựa vào sức mạnh
của dân; tuyên truyền giác ngộ cho nhân dân hiểu rõ con đường giành độc lập, tự do,
giành quyền sống; tổ chức tập hợp nhân dân vào mặt trận, các đoàn thể chính trị - xã hội
12


và các hình thức tổ chức khác một cách linh hoạt; hướng dẫn quần chúng đấu tranh từ
thấp đến cao, khởi nghĩa đánh đổ thực dân, phong kiến, giành chính quyền về tay nhân
dân, làm nên thắng lợi của cách mạng dân tộc dân chủ, mang tính chất nhân dân sâu
sắc; mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử dân tộc - kỷ nguyên độc lập, tự do và làm
tiền đề cho cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
Vận dụng tình hình đất nước hiện nay:
Gần 80 năm qua, những bài học kinh nghiệm quý giá của cuộc cách mạng tháng
Tám luôn tạo nên sức mạnh nội lực cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta giành hết thắng
lợi này đến thắng lợi khác, lập nên những kỳ tích vang dội trong thế kỷ XX và hai thập
niên đầu của thế kỷ XXI. [8] Dưới sự lãnh đạo của Đảng, đất nước ta đã ra khỏi nhóm
nước chậm phát triển và trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang thực
hiện mục tiêu đưa nước ta phát triển trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại hóa.
Trong bối cảnh tình hình thế giới và trong nước có nhiều thuận lợi và khó khan
đan xen nhau như: Trên thế giới hịa bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Xu thế
toàn cầu hóa và chủ nghĩa đa phương là xu thế khơng gì có thể ngăn cản được. những
quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay và những năm
tới vẫn phải dựa trên những quan điểm, đường lối chiến lược ban đầu của thời kỳ đổi
mới, song cần được phát triển và hoàn thiện để đáp ứng những yêu cầu bức thiết được đặt
ra. Hơn nữa, những quan điểm, đường lối chiến lược đó phải luôn được kiểm chứng qua
thực tiễn gần 80 năm qua và những năm tiếp theo nhưng cốt yếu vẫn phải tn theo chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hờ Chí Minh soi sáng để nắm vững hoàn cảnh cụ thể của
mỗi giai đoạn lịch sử, đề ra đường lối cách mạng đúng đắn; phát huy được sức mạnh dân

tộc với sức mạnh thời đại để dẫn dắt quần chúng đứng lên giành và giữ chính quyền. Qua
mỗi giai đoạn, đường lối lại được phát triển, hoàn thiện kịp thời để giải quyết những
nhiệm vụ mới. Trong thời đại hội nhập quốc tế, vấn đề an ninh quốc gia và độc lập chủ
quyền dân tộc phải được đặt lên hàng đầu.
Tiếp theo, Đảng phải biết chăm lo xây dựng lực lượng cách mạng, làm cho lực
lượng cách mạng đủ mạnh, thu hút được đơng đảo quần chúng tham gia. Để giữ vững
chính quyền, Đảng và Nhà nước ta đã dựa chắc vào nhân dân, tạo nên sức mạnh vật chất
và tinh thần để đấu tranh thắng lợi với thù trong giặc ngoài. Tiếp tục thực hiện có hiệu
quả các nghị quyết Đại hội của Đảng, trong đó có các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương
Đảng về phát triển kinh tế để vượt qua mọi khó khăn, thách thức, đưa kinh tế nước ta tiếp
tục phát triển. Trên cơ sở đó, Đảng và Nhà nước phải xây dựng nền kinh tế độc lập, tự
chủ và chủ động hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Bên cạnh đó, chú trọng ng̀n lực
con người – coi con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững; tập
trung thực hiện có hiệu quả đổi mới căn bản, tồn diện giáo dục, gắn kết chặt chẽ phát
triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học – công nghệ trên cơ sở gắn với
Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả nền kinh tế,
đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, tránh nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung
bình”. Việc nắm bắt được thời cơ, đề ra được những quyết định chính xác và kịp thời sẽ
giúp sức mạnh của của con người trong xã hội mới được nhân lên gấp bội, làm việc hăng
hái và đóng góp càng nhiều công sức cho đất nước hơn.
13


14


KẾT LUẬN
Đã gần 80 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hờ Chí Minh thay mặt Chính phủ
Lâm thời trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, tuyên bố trước quốc dân và thế giới:
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa ra đời, dẫu cho thời thế đã có nhiều đổi thay thế

nhưng khí thế hào hùng của tồn dân ngày đầu đánh giặc vẫn còn sống mãi trong lịng
mỗi người Việt, để rời tinh thần ấy sẽ bộc lộ ra bất cứ khi nào cần đến chúng nhất. Nhận
thức đúng đắn vào điều kiện cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo nguyên lý của chủ
nghĩa Mác-Lênin để vạch ra chủ trương đường lối cách mạng đúng đắn và sáng tạo đã
đưa kháng chiến đi đến thắng lợi vẻ vang. Dẫu đất nước trong mỗi thời kì khác nhau sẽ
có cách nhìn nhận khác nhau nhưng tựu chung đó chính là cốt lõi bí quyết qn sự của
Đảng và Nhà nước ta trong cả hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và Đế quốc
Mỹ. Điều này góp phần khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam hồn tồn xứng đáng với
vai trị lãnh đạo dân tộc Việt Nam.
Trong thực tiễn mới của xu thế tồn cầu hóa cùng hội nhập và phát triển, những
kinh nghiệm Đảng ta để lại cần được tiếp tục, học hỏi và phát huy một cách sáng tạo và
phù hợp, đặt lợi ích dân tộc lên trên cũng như trung hịa lợi ích các đối tác chiến lược và
kinh tế. Lợi ích dân tộc có đảm bảo thì mới có thể đảm bảo lịng dân bình an, tích cực
tham gia sản xuất phục vụ đời sống. Từ đó, nền kinh tế quốc dân mới giữ được phong độ,
tự chủ đi lên và đem lại nhiều thành tựu to lớn, đảm bảo cho sự nghiệp xây dựng đất
nước đi lên theo con đường chủ nghĩa xã hội./.

15


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hờ Chí Minh Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 12, trang 401
2. Phan Văn Trường: Bài đăng trên tờ La Cloche Félée, số 36, ngày 21/1/1926
3. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng Tồn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, 1998, tập 2, trang 2-5
4. Theo Thông báo Kết luận của Bộ Chính trị số 31-TB/TW, ngày 1-6-2011, về một
số vấn đề trong bản thảo Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam tập 1 (1930-1954)
5. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng chủ trương đặt nhiệm vụ giải phóng
dân tộc lên hàng đầu, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam (18/09/2019), tham khảo
link sau: />6. TS. Trần Thị Vui- Học viện CTQG Hờ Chí Minh: Những sáng tạo về đường lối

của Đảng ta trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954), Tạp chí quốc
phịng tồn dân (26/01/2015), tham khảo link sau: />7. Nguyễn Trung Thông (Khoa Lịch sử Đảng - Học viện Chính trị): Tính điển hình
của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Báo quân đội nhân dân (18/08/2013), tham khảo
link sau: />8. GS, TS. Lưu Văn Sùng- Nguyên Viện trưởng Viện Chính trị học, Học viện Chính
trị quốc gia Hờ Chí Minh: Quan điểm, đường lối chiến lược của Đảng Cộng sản Việt
Nam khi bước vào công cuộc đổi mới và hiện nay, Cổng thông tin điện tử Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (04/12/2014), tham khảo link sau: />
16



×